Giờ Dậu khắc ba, đại sảnh Nhiêu Lâm.
Theo lệ thường, Giang Thu Bình ngồi sau bàn xử án, Lý Ý Lan ngồi ở vị trí kinh thừa.
Trong tay hắn còn cầm một nắm quả óc chó đã tách vỏ, là do rời nhà kho hắn bỗng nhiên ho khan, Tri Tân bèn lấy óc chó trong tủ thuốc đưa cho hắn, nói là nhai kỹ nuốt chậm có thể giúp cổ họng thoải mái hơn, đáng tiếc hắn đi nhanh quá nên đến công đường mới nhai được hai quả, đành giấu chỗ còn lại trong tay.
Trong hơn nửa tháng bọn họ đến đây, tốc độ làm việc của nha dịch rõ ràng đã bị đẩy nhanh hơn không ít, nha dịch xếp thành hàng, giải người đến, sư gia vào vị trí, chẳng mấy chốc đã đến giờ khai đường.
Doanh quan của Đô Tác viện kia quỳ ở một bên, chủ xưởng đá khúm núm đứng ở một bên khác, bởi vì sợ hãi nên cứ cúi đầu khom lưng, chẳng dám liếc vị họ hàng xa nhà vợ mình lấy một cái.
Giang Thu Bình gõ kinh đường mộc, bảo ba kẻ nọ xưng tên, binh lính địa phương vốn rất ương ngạnh nhưng lúc bị bắt ở Phù Giang đã bị Ngô Kim tẩn cho một trận rồi nên bây giờ ngoan ngoan hơn không ít, tất cả đều báo họ tên một cách quy củ.
Giang Thu Bình đi thẳng vào vấn đề, bảo nha dịch mang nam châm và bạc tang vật tìm được trong nhà chủ xưởng đến trước công đường, sau đó hỏi doanh quan kia: “Chủ xưởng đá Ích Cầu nói ngươi chi ra một ngàn lượng để gã lén vận chuyển nam châm ra khỏi Đô Tác viện vào đầu tháng chín, có đúng thế không?”
Kẻ dám làm chuyện xấu đương nhiên đều có mấy phần gan góc, doanh quan không dễ gì nhận tội, ông ta lập tức thề thốt phủ nhận, nói mình hoàn toàn không biết gì về chuyện này, tất cả đều do họ hàng của mình bịa đặt vô căn cứ.
Chủ xưởng thấy ông tra trở mặt thì quýnh lên, bèn tức giận khai hết làm sao một thảo dân như mình vào được Đô Tác viện, đã thấy cảnh tượng như thế nào, làm sao tránh được kiểm tra ở cổng thành Phù Giang, đút lót bao nhiêu ngân lượng cho quan canh giữ cổng thành.
Gã thuật lại rõ ràng bố cục trong Đô Tác viện, hơn nữa những nhân vật gã nhắc đến cũng có thể kiểm chứng bất cứ lúc nào, khiến cho lời phản bác của doanh quan càng trở nên không thuyết phục.
Giang Thu Bình đe doạ vài câu rồi sai ngươi đánh mấy gậy, doanh quan nọ chẳng phải mình đồng da sắt, thịt trên mông còn chưa nát đã oai oái xin tha.
Ông ta nhận bạc và nam châm đều do mình đưa. Giang Thu Bình từng bước ép sát: “Ta biết rõ gia cảnh và thu nhập của ngươi, ta muốn hỏi ngươi, ngươi lấy đâu ra nhiều bạc như vậy?”
Doanh quan nhắm mắt lại, vẻ mặt não nề như đã đến bước đường cùng: “Là của Vương đô thống đưa cho, ông ta bảo ta vận chuyển số nam châm này đến Nhiêu Lâm, bất kể nơi nào cũng được, nhưng không được để lộ phong thanh.”
Giang Thu Bình cười gằn: “Tại sao phải vận chuyển đến Nhiêu Lâm? Theo như lời ngươi nói với chủ xưởng đá, nếu như nam châm dư thừa thì có thể tìm bừa một chỗ để chôn cơ mà, như thế một ngàn lượng sẽ vào túi ngươi rồi, chẳng phải là càng tốt hơn sao?”
Doanh quan cười khổ: “Bẩm đại nhân, nào có thừa đâu? Đó chẳng qua là nói dối mà thôi. Nam châm là đá thô mà xưởng chế nỏ dùng để tinh luyện quặng sắt, Phù Giang có thổ ty thành cho nên hàng năm số lượng tên nỏ cần chế tạo cũng nhiều hơn các Đô Tác viện khác, nam châm thường xuyên thiếu chứ làm gì còn dư bao nhiêu.”
Giang Thu Bình ngạc nhiên: “Vậy sao các ngươi lại nói dối là còn thừa?”
Doanh quan thở dài, e dè đáp: “Cấp trên bảo ta làm vậy, ta đâu dám hỏi nhiều, cứ mau chóng làm theo là được.”
Giang Thu Bình nhướn người về trước một chút, hứng thú hỏi: “Cấp trên nào? Là Vương đô thống đã cho ngươi bạc ư?”
Doanh quan gật đầu, Giang Thu Bình hỏi ông ta gật đầu là có ý gì, ông ta đành nói “Đúng vậy”, sư gia vội ghi lời làm chứng này lại. Bấy giờ Giang Thu Bình mới ngừng hỏi, vẫy tay với nha dịch dưới công đường, ra lệnh: “Dẫn người tới đây.”
Vương đô thống đã bị áp giải tới ngoài công đường, doanh quan còn chưa kịp nói câu nào thì Vương đô thống đã bị đẩy quỳ xuống, thế là lập tức lườm nguýt thuộc hạ của mình bằng ánh mắt căm hận.
Lão ta quyền thế chẳng được bao nhiêu mà thái độ càn rỡ không thể tả, Giang Thu Bình thấy ngứa mắt, liền đập kinh đường mộc, quát lên: “Vương đô thống đúng không? Ngươi còn lườm ông ta nữa thì ta sẽ xem như ngươi đang đe dọa nhân chứng, phạt ngươi hai mươi gậy.”
Vương đô thống rướn cổ như thể muốn phản bác, nhưng há miệng ra rồi lại khép lại, giọng điệu cũng nhỏ tí như bị nuốt xuống cổ họng: “Vâng, hạ quan biết sai rồi ạ.”
Giang Thu Bình hỏi lão điều doanh quan nói có phải sự thật hay không, lão nói phải, Giang Thu Bình lại hỏi: “Vậy số bạc kia là do ai đưa cho ngươi? Đưa vào lúc nào, ở đâu? Đưa bao nhiêu, và lúc đưa có sự góp mặt của người khác ở đó hay không? Phải khai rõ từng chuyện trên.”
Vương đô thống nín thinh hồi lâu mới nói: “…… Là do Trịnh giám tác của Nỗ Phường thự ở kinh thành đưa cho. Tuần phủ phụ trách giám sát việc chế tạo cung tên xuất phát từ kinh thành vào tháng sáu, lúc tới Phù Giang là vào đúng ngày hai mươi tháng chín, sau đó dừng ở Phù Giang bốn ngày.” (Quan giám tác phụ trách việc giám sát, kiểm tra, đôn đốc.)
“Trước khi bọn họ đi, cũng chính là đêm ngày hai mươi lăm, Trịnh giám tác một mình đến doanh trại của ta, nhắc tới một vị huynh đệ của ta đang làm việc tại phòng chấm công của Nỗ Phường thự, bảo rằng huynh đệ của ta biết ông ta sắp đi ngang qua Phù Giang nên nhờ ông ta chuyển hộ một món quà gửi đến ta.”
“Ta nghe vậy thì rất đỗi mừng rỡ, bèn giữ ông ta lại nhà để dùng bữa uống rượu, sau khi đã ngà ngà say, ông ta liền giục ta mở quà ra xem. Ta cũng tò mò muốn biết huynh đệ chuẩn bị quà gì cho mình nhưng ngại không dám mở trước mặt khách, nghe ông ta giục mới mở hộp quà nhỏ kia ra, ai ngờ bên trong chính là…… là một xấp ngân phiếu một ngàn lượng.”
Câu cuối cùng gợi lên một chút ký ức trong đầu Lý Ý Lan, hắn híp mắt suy nghĩ, chợt ý thức được một vấn đề có thể có liên quan. Tuy nhiên vị đô thống dưới công đường vẫn đang khai báo, tạm thời hắn không cắt ngang mà chăm chú nghe tiếp.
Vương đô thống nói: “Ngoài tiền lương ra, ta chưa từng thấy số tiền lớn như vậy bao giờ, vả lại huynh đệ của ta cũng nghèo kiết xác, ta biết hắn không thể có nhiều tiền thế được.”
“Ta thấy bất thường nên không dám nhận, đòi trả lại cho ông ta, thế mà ông ta trở mặt ngay tại chỗ, nhất quyết không chịu nhận hộp tiền kia mà đanh mặt bảo ta rằng ta cứ nhận số bạc này trong âm thầm, sẽ không có ai biết hết. Nhưng nếu ta không nhận, ông ta sẽ có cách tịch thu cả người lẫn tang vật, ăn trộm của công của Quân Khí giám là tội gì, ông ta bảo ta hãy suy nghĩ cho kỹ.”
“Ta vừa nghe vậy là hiểu ông ta đã đặt bẫy mình từ trước, bắt ta nhận bạc xong ông nhất định còn có yêu cầu nữa. Nhưng ta biết làm sao được chứ? Quan lớn một bậc đè chết người, ông ta chỉ nói một câu thôi cũng có thể tống ta vào ngục, ta liều sống liều chết mới leo lên được vị trí đô thống, ta…… ta sao có thể cam tâm? Sao có thể bằng lòng chứ?”
Lý Ý Lan thấy lão trưng vẻ vừa bất đắc dĩ vừa ủy khuất mà nhìn Giang Thu Bình, luôn miệng chất vấn một cách thống thiết, cứ như thể lúc ấy cùng đường bí lối thật vậy.
Nhưng thực tế thì có rất nhiều lúc, Lý Ý Lan nguyện ý thừa nhận sự đời chính là như vậy.
Công việc và thành tựu mà một người dốc sức hơn nửa cuộc đời mới đạt được, cuối cùng lại bị kẻ khác cướp đoạt dễ dàng chỉ bằng một câu nói, người chưa từng trải qua sẽ mãi mãi không hiểu được nỗi căm phẫn và tuyệt vọng chất chứa trong đó. Đạo trời bất công, quyền thế ép người, lão ta sống quả thực không dễ dàng, nhưng trên đời này có ai sống dễ dàng đâu cơ chứ? Tri Tân địa vị cao quý nhưng cần dứt dục quên tình. Đại ca tài giỏi mà mất sớm, tẩu tử nặng tình thủ tiết. Ký Thanh suốt đời chẳng dứt bỏ được ân oán giang hồ. Giang Thu Bình có tài mà không thể phát triển, Ngô Kim phóng khoáng lại bị kẻ khác hãm hại…… Còn có rất nhiều người tốt khác, bao gồm cả chính bản thân Lý Ý Lan, suốt đời này được và mất luôn đi cùng nhau, tròn và khuyết luôn bù đắp lẫn nhau, đến cuối cùng cũng đều là công dã tràng.
Mỗi người đều có nỗi khổ vui được mất của riêng mình, cho nên dựa theo luật pháp của trời xanh, sai thì chính là sai, lý do không đủ để khiến người ta tha thứ.
Giang Thu Bình khá nóng tính, nghe lão oán than cả buổi vẫn không hề bị lay động, chỉ lạnh nhạt hỏi ngược lại: “Không cam lòng, không có cách cho nên liền quyết định yên tâm giúp kẻ khác làm điều sai trái hả? Bây giờ ta nói cho ngươi biết, khối nam châm này đã cướp mất tính mạng một con người rồi, có phải ngươi vẫn cảm thấy không liên quan tới mình, phải đổ hết mọi lỗi lầm lên kẻ họ Trịnh kia không?”
Vương đô thống bàng hoàng, vẻ hoài nghi và không muốn tin hiện rõ trên gương mặt. Lúc trước lão nhận nhiệm vụ này, một phần là vì khuất phục một phần vì đã được trấn an, cứ tưởng vận chuyển đi rồi thì coi như xong việc, ai mà ngờ đây thực sự mới chỉ là bắt đầu.
Trong lòng lão hổ thẹn, song lại không muốn nhận tội, cho nên cứ tránh né ánh mắt Giang Thu Bình, tạo ra một khoảng lặng dài đằng đẵng.
Có lúc đối mặt với kẻ như vậy còn bực mình hơn cả đối mặt với phường ác ôn, nói lão xấu xa thì không đến nỗi mà nói lão không xấu thì lão cũng chẳng ngay thẳng gì cho cam. Giang Thu Bình không có kiên nhẫn chờ lão quay đầu là bờ, bèn thúc giục: “Ta biết ngươi không dám nhận, việc này chỉ có thể chờ phán xét. Tạm không nói đến nó nữa, ngươi tiếp tục khai báo xem sau khi cùng đường bí lối, ngươi đã làm những gì theo phân phó của ông ta?”
Vương đô thống: “Ông ta, ông ta không phân phó gì cả, chỉ đưa bạc cho ta rồi bảo ta tự nghĩ cách, yêu cầu duy nhất là chuyện này nhất định phải thực hiện một cách kín kẽ không lộ sơ hở, không thể để kẻ khác tra ra được.”
Giang Thu Bình: “Cho nên ngươi liền nghĩ cách kéo cả doanh quan lẫn họ hàng của ông ta vào cuộc, đúng không?”
Mặt Vương đô thống hết trắng lại xanh, lão nói: “Cách này không phải ta nghĩ ra, mà là ta truyền đạt lại lời dặn của Trịnh giám tác cho Miêu đô thống, sau đó chúng ta cùng thương lượng ra kế sách này.”
Lúc nói lời này lão cũng thấy thấp thỏm, Trịnh giám tác không hề bảo lão truyền đạt lại cho người khác, là do lão không dám làm một mình nên mới khua môi múa mép kéo Miêu đô thống vào cuộc, cùng nhau đánh liều để phát tài. Mà Miêu đô thống cũng chẳng phải hạng người phú quý bất năng dâm, cả hai cấu kết với nhau làm việc xấu, chỉ sau hai ba ngày đã nảy ra mưu đồ này.
“Vậy lão ta cũng giỏi nghĩ cách đấy nhỉ.” Giang Thu Bình buông lời châm chọc rồi bảo nha dịch mang Miêu đô thống tới.
Nha dịch tuân lệnh chạy ra ngoài, tranh thủ lúc này Lý Ý Lan bèn nhìn về phía Vương đô thống, đột nhiên hỏi: “Xấp ngân phiếu mà Trịnh giám tác đưa cho ngươi tổng cộng có bao nhiêu lượng?”
Ánh mắt Vương đô thống dao động một hồi lâu rồi mới cắn răng nói: “Tám, tám ngàn lượng.”
Xử lý chút chuyện nhỏ như vậy mà trả phí tận tám ngàn lượng, mới đầu Giang Thu Bình nghĩ nhiều tiền như vậy, tên Trịnh giám tác kia chi mạnh tay thật, sau đó lại nghĩ tận bảy tám ngàn lượng thì ba người này chia chác thế nào, cuối cùng y bỗng vỡ lẽ, hiểu ra nguyên nhân mà Lý Ý Lan hỏi con số này.
Hắn sẽ không vô duyên vô cớ đề cập tới vấn đề này, con số tám ngàn lượng nghe quen quen, Giang Thu Bình cố động não một chút, nhanh chóng nhớ ra một chuyện.
Mấy ngày trước, lúc phân tích tờ bằng thiếp lấy ra từ trong bao tên, Lữ Xuyên có nói qua, đó là một tờ bằng thiếp tám ngàn lượng. Lúc ấy bọn họ đều chú ý tới ám hiệu của thích khách mà quên không lưu ý xem ngân phiếu tương ứng với tờ bằng thiếp đã đi đâu.
Bây giờ nghe Lý Ý Lan hỏi như vậy, con số vừa khéo ăn khớp, Giang Thu Bình bỗng có cảm giác những manh mối rải rác này đang chầm chậm xâu chuỗi thành một.
Y phấn chấn vô cùng, vừa hướng ánh mắt khâm phục về phía Lý Ý Lan, vừa hỏi tiếp bằng giọng sang sảng: “Những ngân phiếu kia đâu? Hiện tại ở nơi nào?”
Vương đô thống đổ mồ hôi: “Đã chia nhau rồi…… Ta, ta và Miêu đô thống mỗi người ba ngàn, doanh quan và họ hàng mỗi người một ngàn, những người khác thì ta không biết, ta mang một tờ đi đổi thành tiền giấy và bạc, hai tờ còn lại đều giấu ở trong nhà.”
Nghe lão nói không mang trong người, Giang Thu Bình tức giận hỏi lão đổi tiền giấy từ hiệu bạc nào, Vương đô thống đang định khai ra thì vị Miêu đô thống kia liền quỵ phịch xuống bên cạnh lão.
Giang Thu Bình thẩm tra liên tục suốt hai khắc mới nhận được khẩu cung chính xác, ngân phiếu tám ngàn lượng kia quả thực xuất xứ từ hiệu bạc Phong Bảo Long.
Đây là chứng cứ thứ hai có thể chứng minh thích khách cấu kết với quan triều đình, tuy thu hoạch không nhiều nhưng đủ để khiến người bên trên hài lòng hơn phần nào.
Chờ bắt giữ xong ba binh lính này thì cũng đến lúc giăng đèn rồi, dựa theo nguyên tắc rèn thép nhân lúc còn nóng, Trương Triều không ngại gian khổ, chủ động xung phong trở về Phù Giang một chuyến nữa để lấy ngân phiếu.
Lý Ý Lan vỗ vai hắn, bảo “Ăn cơm rồi hẵng đi”, Trương Triều chớp chớp mắt, mọi người lập tức dẫn hắn đi vào phòng ăn. Lúc đi vào hậu viện trùng hộ gặp Tri Tân cũng đi ra từ nhà bếp, trong tay y bưng một cái chén, vừa đen lại cách xa nên không thấy rõ là vật gì.
Lý Ý Lan bước tới gần, cười bảo: “Ngươi bận rộn gì trong bếp vậy? Ăn cơm chưa?”
“Không bận gì cả, vẫn chưa ăn.” Tri Tân nói, “Thẩm tra thế nào rồi?”
Lý Ý Lan chạm mặt Tri Tân ở giữa sân, vì y vẫn tiếp tục tiến lên nên hắn cũng vô thức mất phương hướng, bắt đầu đi theo y, vừa đi vừa vội dặn dò nhóm Ký Thanh: “Mọi người đi trước đi, ta nói chuyện với đại sư một lát.”
Dứt lời, hắn bỏ lại đội ngũ ban đầu, Ký Thanh gọi mà hắn cũng chẳng để ý, cứ thế sóng vai đi cùng Tri Tân, thuật lại đại khái kết quả thẩm tra.
Tri Tân nghe xong thì cười cười, nói lời chúc mừng hắn.
Trong tay y đúng là một chén thuốc, nhìn hướng đi thì xem ra đang tới đại lao. Lúc bước lên bậc thang cổng vòm, Lý Ý Lan đỡ lấy khuỷu tay Tri Tân, cười hỏi: “Đây là thuốc cho Lưu Vân Thảo à?”
Tri Tân được đỡ lên bởi bàn tay quen cầm thương của hắn, nước thuốc sóng sánh trong chén lập tức lặng đi nhiều, chứng tỏ tay của hắn rất vững vàng, khiến người ta nguyện ý tin cậy.
Tri Tân liền thả lỏng cánh tay, mặc hắn đỡ mình đi trên đất bằng như ông già: “Ừ, buổi chiều sau khi uống một lần thì mạch của y đã ổn định hơn đôi chút, chắc uống thêm hai lượt nữa sẽ tỉnh thôi.”
Sau khi lên tới nền gạch xanh, Lý Ý Lan thu tay về, đồng thời cũng cầm luôn chén thuốc giúp y, bảo: “Vậy thì tốt, ngươi nói y sẽ mau chóng tỉnh lại thì ta mới dám yên tâm. Nhưng việc sắc thuốc có người phụ trách rồi mà, sao lại đến tay ngươi?”
Tri Tân không còn chén nên đi đường nhàn nhã vô cùng, y chắp hai tay sau lưng, cười đáp: “Mọi người đều bận rộn, có mình ta rảnh rang thì không hay cho lắm, nên liền bắt tay vào làm thôi.”
Thực tế không phải vậy, tạp dịch không ưa phạm nhân trong ngục nên sắc thuốc hơi qua loa, mà Lưu Vân Thảo là nhân vật then chốt trong bạch cốt án, Lý Ý Lan đang chờ tra hỏi nên dù có tiên đan cũng sẽ cho y ăn trước tiên, sắc một chén thuốc lại càng không nên thất lễ.
Gió đông lạnh lẽo, hai người sợ thuốc nguội mất nên rảo bước rất nhanh, nhưng còn chưa đi tới cổng nhà lao thì một ngục tốt đã chạy tới trước mặt bọn họ.
Ngục tốt khuỵu gối hành lễ, kích động thưa: “Bẩm đại nhân, phạm nhân ở phòng giam chữ Thần đã tỉnh rồi ạ, ta đang định đi gọi ngài đây.”
Theo lệ thường, Giang Thu Bình ngồi sau bàn xử án, Lý Ý Lan ngồi ở vị trí kinh thừa.
Trong tay hắn còn cầm một nắm quả óc chó đã tách vỏ, là do rời nhà kho hắn bỗng nhiên ho khan, Tri Tân bèn lấy óc chó trong tủ thuốc đưa cho hắn, nói là nhai kỹ nuốt chậm có thể giúp cổ họng thoải mái hơn, đáng tiếc hắn đi nhanh quá nên đến công đường mới nhai được hai quả, đành giấu chỗ còn lại trong tay.
Trong hơn nửa tháng bọn họ đến đây, tốc độ làm việc của nha dịch rõ ràng đã bị đẩy nhanh hơn không ít, nha dịch xếp thành hàng, giải người đến, sư gia vào vị trí, chẳng mấy chốc đã đến giờ khai đường.
Doanh quan của Đô Tác viện kia quỳ ở một bên, chủ xưởng đá khúm núm đứng ở một bên khác, bởi vì sợ hãi nên cứ cúi đầu khom lưng, chẳng dám liếc vị họ hàng xa nhà vợ mình lấy một cái.
Giang Thu Bình gõ kinh đường mộc, bảo ba kẻ nọ xưng tên, binh lính địa phương vốn rất ương ngạnh nhưng lúc bị bắt ở Phù Giang đã bị Ngô Kim tẩn cho một trận rồi nên bây giờ ngoan ngoan hơn không ít, tất cả đều báo họ tên một cách quy củ.
Giang Thu Bình đi thẳng vào vấn đề, bảo nha dịch mang nam châm và bạc tang vật tìm được trong nhà chủ xưởng đến trước công đường, sau đó hỏi doanh quan kia: “Chủ xưởng đá Ích Cầu nói ngươi chi ra một ngàn lượng để gã lén vận chuyển nam châm ra khỏi Đô Tác viện vào đầu tháng chín, có đúng thế không?”
Kẻ dám làm chuyện xấu đương nhiên đều có mấy phần gan góc, doanh quan không dễ gì nhận tội, ông ta lập tức thề thốt phủ nhận, nói mình hoàn toàn không biết gì về chuyện này, tất cả đều do họ hàng của mình bịa đặt vô căn cứ.
Chủ xưởng thấy ông tra trở mặt thì quýnh lên, bèn tức giận khai hết làm sao một thảo dân như mình vào được Đô Tác viện, đã thấy cảnh tượng như thế nào, làm sao tránh được kiểm tra ở cổng thành Phù Giang, đút lót bao nhiêu ngân lượng cho quan canh giữ cổng thành.
Gã thuật lại rõ ràng bố cục trong Đô Tác viện, hơn nữa những nhân vật gã nhắc đến cũng có thể kiểm chứng bất cứ lúc nào, khiến cho lời phản bác của doanh quan càng trở nên không thuyết phục.
Giang Thu Bình đe doạ vài câu rồi sai ngươi đánh mấy gậy, doanh quan nọ chẳng phải mình đồng da sắt, thịt trên mông còn chưa nát đã oai oái xin tha.
Ông ta nhận bạc và nam châm đều do mình đưa. Giang Thu Bình từng bước ép sát: “Ta biết rõ gia cảnh và thu nhập của ngươi, ta muốn hỏi ngươi, ngươi lấy đâu ra nhiều bạc như vậy?”
Doanh quan nhắm mắt lại, vẻ mặt não nề như đã đến bước đường cùng: “Là của Vương đô thống đưa cho, ông ta bảo ta vận chuyển số nam châm này đến Nhiêu Lâm, bất kể nơi nào cũng được, nhưng không được để lộ phong thanh.”
Giang Thu Bình cười gằn: “Tại sao phải vận chuyển đến Nhiêu Lâm? Theo như lời ngươi nói với chủ xưởng đá, nếu như nam châm dư thừa thì có thể tìm bừa một chỗ để chôn cơ mà, như thế một ngàn lượng sẽ vào túi ngươi rồi, chẳng phải là càng tốt hơn sao?”
Doanh quan cười khổ: “Bẩm đại nhân, nào có thừa đâu? Đó chẳng qua là nói dối mà thôi. Nam châm là đá thô mà xưởng chế nỏ dùng để tinh luyện quặng sắt, Phù Giang có thổ ty thành cho nên hàng năm số lượng tên nỏ cần chế tạo cũng nhiều hơn các Đô Tác viện khác, nam châm thường xuyên thiếu chứ làm gì còn dư bao nhiêu.”
Giang Thu Bình ngạc nhiên: “Vậy sao các ngươi lại nói dối là còn thừa?”
Doanh quan thở dài, e dè đáp: “Cấp trên bảo ta làm vậy, ta đâu dám hỏi nhiều, cứ mau chóng làm theo là được.”
Giang Thu Bình nhướn người về trước một chút, hứng thú hỏi: “Cấp trên nào? Là Vương đô thống đã cho ngươi bạc ư?”
Doanh quan gật đầu, Giang Thu Bình hỏi ông ta gật đầu là có ý gì, ông ta đành nói “Đúng vậy”, sư gia vội ghi lời làm chứng này lại. Bấy giờ Giang Thu Bình mới ngừng hỏi, vẫy tay với nha dịch dưới công đường, ra lệnh: “Dẫn người tới đây.”
Vương đô thống đã bị áp giải tới ngoài công đường, doanh quan còn chưa kịp nói câu nào thì Vương đô thống đã bị đẩy quỳ xuống, thế là lập tức lườm nguýt thuộc hạ của mình bằng ánh mắt căm hận.
Lão ta quyền thế chẳng được bao nhiêu mà thái độ càn rỡ không thể tả, Giang Thu Bình thấy ngứa mắt, liền đập kinh đường mộc, quát lên: “Vương đô thống đúng không? Ngươi còn lườm ông ta nữa thì ta sẽ xem như ngươi đang đe dọa nhân chứng, phạt ngươi hai mươi gậy.”
Vương đô thống rướn cổ như thể muốn phản bác, nhưng há miệng ra rồi lại khép lại, giọng điệu cũng nhỏ tí như bị nuốt xuống cổ họng: “Vâng, hạ quan biết sai rồi ạ.”
Giang Thu Bình hỏi lão điều doanh quan nói có phải sự thật hay không, lão nói phải, Giang Thu Bình lại hỏi: “Vậy số bạc kia là do ai đưa cho ngươi? Đưa vào lúc nào, ở đâu? Đưa bao nhiêu, và lúc đưa có sự góp mặt của người khác ở đó hay không? Phải khai rõ từng chuyện trên.”
Vương đô thống nín thinh hồi lâu mới nói: “…… Là do Trịnh giám tác của Nỗ Phường thự ở kinh thành đưa cho. Tuần phủ phụ trách giám sát việc chế tạo cung tên xuất phát từ kinh thành vào tháng sáu, lúc tới Phù Giang là vào đúng ngày hai mươi tháng chín, sau đó dừng ở Phù Giang bốn ngày.” (Quan giám tác phụ trách việc giám sát, kiểm tra, đôn đốc.)
“Trước khi bọn họ đi, cũng chính là đêm ngày hai mươi lăm, Trịnh giám tác một mình đến doanh trại của ta, nhắc tới một vị huynh đệ của ta đang làm việc tại phòng chấm công của Nỗ Phường thự, bảo rằng huynh đệ của ta biết ông ta sắp đi ngang qua Phù Giang nên nhờ ông ta chuyển hộ một món quà gửi đến ta.”
“Ta nghe vậy thì rất đỗi mừng rỡ, bèn giữ ông ta lại nhà để dùng bữa uống rượu, sau khi đã ngà ngà say, ông ta liền giục ta mở quà ra xem. Ta cũng tò mò muốn biết huynh đệ chuẩn bị quà gì cho mình nhưng ngại không dám mở trước mặt khách, nghe ông ta giục mới mở hộp quà nhỏ kia ra, ai ngờ bên trong chính là…… là một xấp ngân phiếu một ngàn lượng.”
Câu cuối cùng gợi lên một chút ký ức trong đầu Lý Ý Lan, hắn híp mắt suy nghĩ, chợt ý thức được một vấn đề có thể có liên quan. Tuy nhiên vị đô thống dưới công đường vẫn đang khai báo, tạm thời hắn không cắt ngang mà chăm chú nghe tiếp.
Vương đô thống nói: “Ngoài tiền lương ra, ta chưa từng thấy số tiền lớn như vậy bao giờ, vả lại huynh đệ của ta cũng nghèo kiết xác, ta biết hắn không thể có nhiều tiền thế được.”
“Ta thấy bất thường nên không dám nhận, đòi trả lại cho ông ta, thế mà ông ta trở mặt ngay tại chỗ, nhất quyết không chịu nhận hộp tiền kia mà đanh mặt bảo ta rằng ta cứ nhận số bạc này trong âm thầm, sẽ không có ai biết hết. Nhưng nếu ta không nhận, ông ta sẽ có cách tịch thu cả người lẫn tang vật, ăn trộm của công của Quân Khí giám là tội gì, ông ta bảo ta hãy suy nghĩ cho kỹ.”
“Ta vừa nghe vậy là hiểu ông ta đã đặt bẫy mình từ trước, bắt ta nhận bạc xong ông nhất định còn có yêu cầu nữa. Nhưng ta biết làm sao được chứ? Quan lớn một bậc đè chết người, ông ta chỉ nói một câu thôi cũng có thể tống ta vào ngục, ta liều sống liều chết mới leo lên được vị trí đô thống, ta…… ta sao có thể cam tâm? Sao có thể bằng lòng chứ?”
Lý Ý Lan thấy lão trưng vẻ vừa bất đắc dĩ vừa ủy khuất mà nhìn Giang Thu Bình, luôn miệng chất vấn một cách thống thiết, cứ như thể lúc ấy cùng đường bí lối thật vậy.
Nhưng thực tế thì có rất nhiều lúc, Lý Ý Lan nguyện ý thừa nhận sự đời chính là như vậy.
Công việc và thành tựu mà một người dốc sức hơn nửa cuộc đời mới đạt được, cuối cùng lại bị kẻ khác cướp đoạt dễ dàng chỉ bằng một câu nói, người chưa từng trải qua sẽ mãi mãi không hiểu được nỗi căm phẫn và tuyệt vọng chất chứa trong đó. Đạo trời bất công, quyền thế ép người, lão ta sống quả thực không dễ dàng, nhưng trên đời này có ai sống dễ dàng đâu cơ chứ? Tri Tân địa vị cao quý nhưng cần dứt dục quên tình. Đại ca tài giỏi mà mất sớm, tẩu tử nặng tình thủ tiết. Ký Thanh suốt đời chẳng dứt bỏ được ân oán giang hồ. Giang Thu Bình có tài mà không thể phát triển, Ngô Kim phóng khoáng lại bị kẻ khác hãm hại…… Còn có rất nhiều người tốt khác, bao gồm cả chính bản thân Lý Ý Lan, suốt đời này được và mất luôn đi cùng nhau, tròn và khuyết luôn bù đắp lẫn nhau, đến cuối cùng cũng đều là công dã tràng.
Mỗi người đều có nỗi khổ vui được mất của riêng mình, cho nên dựa theo luật pháp của trời xanh, sai thì chính là sai, lý do không đủ để khiến người ta tha thứ.
Giang Thu Bình khá nóng tính, nghe lão oán than cả buổi vẫn không hề bị lay động, chỉ lạnh nhạt hỏi ngược lại: “Không cam lòng, không có cách cho nên liền quyết định yên tâm giúp kẻ khác làm điều sai trái hả? Bây giờ ta nói cho ngươi biết, khối nam châm này đã cướp mất tính mạng một con người rồi, có phải ngươi vẫn cảm thấy không liên quan tới mình, phải đổ hết mọi lỗi lầm lên kẻ họ Trịnh kia không?”
Vương đô thống bàng hoàng, vẻ hoài nghi và không muốn tin hiện rõ trên gương mặt. Lúc trước lão nhận nhiệm vụ này, một phần là vì khuất phục một phần vì đã được trấn an, cứ tưởng vận chuyển đi rồi thì coi như xong việc, ai mà ngờ đây thực sự mới chỉ là bắt đầu.
Trong lòng lão hổ thẹn, song lại không muốn nhận tội, cho nên cứ tránh né ánh mắt Giang Thu Bình, tạo ra một khoảng lặng dài đằng đẵng.
Có lúc đối mặt với kẻ như vậy còn bực mình hơn cả đối mặt với phường ác ôn, nói lão xấu xa thì không đến nỗi mà nói lão không xấu thì lão cũng chẳng ngay thẳng gì cho cam. Giang Thu Bình không có kiên nhẫn chờ lão quay đầu là bờ, bèn thúc giục: “Ta biết ngươi không dám nhận, việc này chỉ có thể chờ phán xét. Tạm không nói đến nó nữa, ngươi tiếp tục khai báo xem sau khi cùng đường bí lối, ngươi đã làm những gì theo phân phó của ông ta?”
Vương đô thống: “Ông ta, ông ta không phân phó gì cả, chỉ đưa bạc cho ta rồi bảo ta tự nghĩ cách, yêu cầu duy nhất là chuyện này nhất định phải thực hiện một cách kín kẽ không lộ sơ hở, không thể để kẻ khác tra ra được.”
Giang Thu Bình: “Cho nên ngươi liền nghĩ cách kéo cả doanh quan lẫn họ hàng của ông ta vào cuộc, đúng không?”
Mặt Vương đô thống hết trắng lại xanh, lão nói: “Cách này không phải ta nghĩ ra, mà là ta truyền đạt lại lời dặn của Trịnh giám tác cho Miêu đô thống, sau đó chúng ta cùng thương lượng ra kế sách này.”
Lúc nói lời này lão cũng thấy thấp thỏm, Trịnh giám tác không hề bảo lão truyền đạt lại cho người khác, là do lão không dám làm một mình nên mới khua môi múa mép kéo Miêu đô thống vào cuộc, cùng nhau đánh liều để phát tài. Mà Miêu đô thống cũng chẳng phải hạng người phú quý bất năng dâm, cả hai cấu kết với nhau làm việc xấu, chỉ sau hai ba ngày đã nảy ra mưu đồ này.
“Vậy lão ta cũng giỏi nghĩ cách đấy nhỉ.” Giang Thu Bình buông lời châm chọc rồi bảo nha dịch mang Miêu đô thống tới.
Nha dịch tuân lệnh chạy ra ngoài, tranh thủ lúc này Lý Ý Lan bèn nhìn về phía Vương đô thống, đột nhiên hỏi: “Xấp ngân phiếu mà Trịnh giám tác đưa cho ngươi tổng cộng có bao nhiêu lượng?”
Ánh mắt Vương đô thống dao động một hồi lâu rồi mới cắn răng nói: “Tám, tám ngàn lượng.”
Xử lý chút chuyện nhỏ như vậy mà trả phí tận tám ngàn lượng, mới đầu Giang Thu Bình nghĩ nhiều tiền như vậy, tên Trịnh giám tác kia chi mạnh tay thật, sau đó lại nghĩ tận bảy tám ngàn lượng thì ba người này chia chác thế nào, cuối cùng y bỗng vỡ lẽ, hiểu ra nguyên nhân mà Lý Ý Lan hỏi con số này.
Hắn sẽ không vô duyên vô cớ đề cập tới vấn đề này, con số tám ngàn lượng nghe quen quen, Giang Thu Bình cố động não một chút, nhanh chóng nhớ ra một chuyện.
Mấy ngày trước, lúc phân tích tờ bằng thiếp lấy ra từ trong bao tên, Lữ Xuyên có nói qua, đó là một tờ bằng thiếp tám ngàn lượng. Lúc ấy bọn họ đều chú ý tới ám hiệu của thích khách mà quên không lưu ý xem ngân phiếu tương ứng với tờ bằng thiếp đã đi đâu.
Bây giờ nghe Lý Ý Lan hỏi như vậy, con số vừa khéo ăn khớp, Giang Thu Bình bỗng có cảm giác những manh mối rải rác này đang chầm chậm xâu chuỗi thành một.
Y phấn chấn vô cùng, vừa hướng ánh mắt khâm phục về phía Lý Ý Lan, vừa hỏi tiếp bằng giọng sang sảng: “Những ngân phiếu kia đâu? Hiện tại ở nơi nào?”
Vương đô thống đổ mồ hôi: “Đã chia nhau rồi…… Ta, ta và Miêu đô thống mỗi người ba ngàn, doanh quan và họ hàng mỗi người một ngàn, những người khác thì ta không biết, ta mang một tờ đi đổi thành tiền giấy và bạc, hai tờ còn lại đều giấu ở trong nhà.”
Nghe lão nói không mang trong người, Giang Thu Bình tức giận hỏi lão đổi tiền giấy từ hiệu bạc nào, Vương đô thống đang định khai ra thì vị Miêu đô thống kia liền quỵ phịch xuống bên cạnh lão.
Giang Thu Bình thẩm tra liên tục suốt hai khắc mới nhận được khẩu cung chính xác, ngân phiếu tám ngàn lượng kia quả thực xuất xứ từ hiệu bạc Phong Bảo Long.
Đây là chứng cứ thứ hai có thể chứng minh thích khách cấu kết với quan triều đình, tuy thu hoạch không nhiều nhưng đủ để khiến người bên trên hài lòng hơn phần nào.
Chờ bắt giữ xong ba binh lính này thì cũng đến lúc giăng đèn rồi, dựa theo nguyên tắc rèn thép nhân lúc còn nóng, Trương Triều không ngại gian khổ, chủ động xung phong trở về Phù Giang một chuyến nữa để lấy ngân phiếu.
Lý Ý Lan vỗ vai hắn, bảo “Ăn cơm rồi hẵng đi”, Trương Triều chớp chớp mắt, mọi người lập tức dẫn hắn đi vào phòng ăn. Lúc đi vào hậu viện trùng hộ gặp Tri Tân cũng đi ra từ nhà bếp, trong tay y bưng một cái chén, vừa đen lại cách xa nên không thấy rõ là vật gì.
Lý Ý Lan bước tới gần, cười bảo: “Ngươi bận rộn gì trong bếp vậy? Ăn cơm chưa?”
“Không bận gì cả, vẫn chưa ăn.” Tri Tân nói, “Thẩm tra thế nào rồi?”
Lý Ý Lan chạm mặt Tri Tân ở giữa sân, vì y vẫn tiếp tục tiến lên nên hắn cũng vô thức mất phương hướng, bắt đầu đi theo y, vừa đi vừa vội dặn dò nhóm Ký Thanh: “Mọi người đi trước đi, ta nói chuyện với đại sư một lát.”
Dứt lời, hắn bỏ lại đội ngũ ban đầu, Ký Thanh gọi mà hắn cũng chẳng để ý, cứ thế sóng vai đi cùng Tri Tân, thuật lại đại khái kết quả thẩm tra.
Tri Tân nghe xong thì cười cười, nói lời chúc mừng hắn.
Trong tay y đúng là một chén thuốc, nhìn hướng đi thì xem ra đang tới đại lao. Lúc bước lên bậc thang cổng vòm, Lý Ý Lan đỡ lấy khuỷu tay Tri Tân, cười hỏi: “Đây là thuốc cho Lưu Vân Thảo à?”
Tri Tân được đỡ lên bởi bàn tay quen cầm thương của hắn, nước thuốc sóng sánh trong chén lập tức lặng đi nhiều, chứng tỏ tay của hắn rất vững vàng, khiến người ta nguyện ý tin cậy.
Tri Tân liền thả lỏng cánh tay, mặc hắn đỡ mình đi trên đất bằng như ông già: “Ừ, buổi chiều sau khi uống một lần thì mạch của y đã ổn định hơn đôi chút, chắc uống thêm hai lượt nữa sẽ tỉnh thôi.”
Sau khi lên tới nền gạch xanh, Lý Ý Lan thu tay về, đồng thời cũng cầm luôn chén thuốc giúp y, bảo: “Vậy thì tốt, ngươi nói y sẽ mau chóng tỉnh lại thì ta mới dám yên tâm. Nhưng việc sắc thuốc có người phụ trách rồi mà, sao lại đến tay ngươi?”
Tri Tân không còn chén nên đi đường nhàn nhã vô cùng, y chắp hai tay sau lưng, cười đáp: “Mọi người đều bận rộn, có mình ta rảnh rang thì không hay cho lắm, nên liền bắt tay vào làm thôi.”
Thực tế không phải vậy, tạp dịch không ưa phạm nhân trong ngục nên sắc thuốc hơi qua loa, mà Lưu Vân Thảo là nhân vật then chốt trong bạch cốt án, Lý Ý Lan đang chờ tra hỏi nên dù có tiên đan cũng sẽ cho y ăn trước tiên, sắc một chén thuốc lại càng không nên thất lễ.
Gió đông lạnh lẽo, hai người sợ thuốc nguội mất nên rảo bước rất nhanh, nhưng còn chưa đi tới cổng nhà lao thì một ngục tốt đã chạy tới trước mặt bọn họ.
Ngục tốt khuỵu gối hành lễ, kích động thưa: “Bẩm đại nhân, phạm nhân ở phòng giam chữ Thần đã tỉnh rồi ạ, ta đang định đi gọi ngài đây.”
Danh sách chương