Tư Mã Khôi nghe Thắng Hương Lân nói đã phát hiện ra bí mật thì dẫu giờ phút này có mắc chuyện trọng đại cũng phải tạm gác lại, anh cầm lấy bó đuốc giơ về phía trước, thì thấy trên bức phù điêu trước mặt quả nhiên có một chỗ khá tương đồng với hình bia đá vẽ trong cuốn nhật ký của đội trưởng đội thám hiểm, nhưng cảnh tượng trên bức phù điêu trong Tử thành còn hoành tráng hơn. Bức phù điêu vẽ tấm bia đá của người Bái Xà nằm trong một huyệt động rất lớn dưới lòng đất, phía dưới có hình vẽ hao hao giống một cây cổ thụ xum xuê cành lá. Có điều, người ta cố tình đục mất một mảnh, nên không thể nhìn rõ nguyên bản của nó là vật gì, trước tấm bia cổ là đống xương khô chất cao như núi, xung quanh vẽ biển hư vô – tượng trưng cho thế giới sau khi chết, trước mặt biển có một con quái xà đầu người, lưng mọc lông chim, đang chở mấy vị vương gia đầu đội trang sức vàng.
Tư Mã Khôi chỉ hiểu lờ mờ tình hình được miêu tả trong bức phù điêu, anh không thể chỉ ra đích xác rốt cuộc trên tấm bia đá khắc ẩn số kinh thiên động địa gì, tại sao bí mật đó không được phép nhìn và cũng không được phép nói ra?
Thắng Hương Lân biết hội Tư Mã Khôi không đủ kiên nhẫn để quan sát kỹ lưỡng, nên cô nói luôn: “Phần lớn nội dung của bức phù điêu ghi chép sự tích về tấm bia đá, có lẽ nó bị chôn vùi ở một nơi cực sâu dưới hoàng tuyền, người Bái Xà cổ đại tin rằng: Bất cứ kẻ nào nhìn thấy tấm bia, kẻ đó sẽ lập tức sợ hãi mà chết đứng ngay trước tấm bia.”
Tư Mã Khôi bảo: “Tôi chẳng tìm thấy manh mối nào cả. Theo những gì chúng ta đã biết thì tấm bia đá của người Bái Xà chỉ là một tảng đá khổng lồ nằm ở nơi rất sâu dưới cửu tuyền, nó cũng giống như vô vàn những tảng đá khác dưới lòng đất, nếu ai nhìn thấy tấm bia, kẻ đó lập tức mất mạng, vậy thì nguyên nhân cái chết chắc chắn là do bí mật khắc trên tấm bia gây ra, lẽ nào bí mật đó có thể dọa người đang sống sờ sờ bỗng dưng lăn ra chết hay sao? Tôi chả tin chuyện hoang đường này, mười ngón tay xòe ra còn có ngón ngắn ngón dài, huống hồ là con người, trăm kẻ trăm tính trăm nết, ví dụ hạng người phản ứng chậm như sên kiểu Hải ngọng, mặt dày thế kia thì chuyện gì có thể dọa cậu ấy sợ đến nỗi lăn ra chết được chứ?”
Hải ngọng vội vàng đính chính: “Không phải tớ phản ứng chậm chạp mà là tớ từng trải, có chuyện quái dị nào ông Hải này chưa từng gặp chứ?”
Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh cũng gật đầu cho là phải, nếu trên bia đá khắc hình yêu ma quỷ quái hung tợn quái dị mà bất ngờ nhìn thấy trong bóng tối, không khéo cũng sợ vãi đái, có khi còn mềm nhũn cả chân, khuỵu xuống đất, nói thế còn có khả năng, chứ bảo ai đứng trước tấm bia đá, người đó sẽ sợ hãi chết bất đắc kỳ tử thì đúng là khó tin, huống hồ nội dung khắc trên tấm bia cũng chỉ là mấy chữ tượng hình cổ tương tự như long ấn triều Hạ, chứ nào phải hình yêu ma quỷ quái gì!
Thắng Hương Lân không thể trả lời được thắc mắc của mọi người, cô chỉ biết giải thích theo đúng nội dung khắc trên bức phù điêu. Tấm bia Bái Xà vốn do mấy vị vương gia đầu đội trang sức vàng lưu lại, những người này có địa vị thống trị tối cao trong tộc người Bái Xà, họ chia nhau nắm giữ một phần nội dung khắc trên tấm bia đá, nhưng không ai được phép biết toàn bộ nội dung, càng không được phép tiết lộ bí mật mình nắm giữ cho người khác, bởi vậy họ buộc phải cắt lưỡi. Người Bái Xà nghiêm ngặt giữ bí mật – điều cấm kỵ cổ xưa mà thần Vũ Xà đã đặt ra. Huyệt động khắc đầy phù điêu này chẳng qua chỉ là một trong những chỗ chôn xương người, trong Tử thành có lẽ còn có mấy nơi tương tự như vậy.
Tư Mã Khôi tập trung suy ngẫm, anh cảm thấy tuy nội dung khắc trên tấm phù điêu hoang đường, ly kỳ, nhưng hậu duệ của người Bái Xà vốn sinh sống ở lưu vực sông Hoài Thủy luôn đau đáu thực hiện ý đồ đào tấm bia dưới lòng đất lên, hi vọng có thể nhờ đó để thoát khỏi kiếp nô dịch dưới trướng vương triều nhà Hạ. Điều này hoàn toàn trùng khớp với những ghi chép tổ tiên để lại, nhưng bí mật khắc trên tấm bia khủng khiếp đến mức chỉ cần nhìn một cái là sợ hãi lăn đùng ra chết, thử hỏi sau khi tìm thấy nó ai còn dám xem?
Hải ngọng nói: “Cẩn tắc vô ưu, đến lúc đó chúng ta để Nhị Học Sinh xem tấm bia khắc bí mật gì, nếu cậu ta không khiếp vía mà chết, thì chúng ta xem sau cũng chưa muộn.”
Tư Mã Khôi không đếm xỉa đến “ý tưởng đầu bò” của Hải ngọng, trong đầu anh không ngừng lặp đi lặp lại suy nghĩ: Vì sao Nấm mồ xanh muốn tìm tấm bia của người Bái Xà? Trước khi tìm thấy tấm bia đá, có lẽ anh không thể giải đáp được ẩn số đó. Lúc này, Tư Mã Khôi bỗng thấy hơi do dự, hội anh trải qua bao phen thập tử nhất sinh mới đến được đây, nên tuyệt đối không thể biến mình thành tấm bia đỡ đạn cho Nấm mồ xanh được.
“Kẻ nào dám nhìn bí mật khắc trên tấm bia đá, kẻ đó sẽ lập tức gánh chịu hậu quả chết chóc”, tuy Tư Mã Khôi không tin tà ma, nhưng sau khi trải qua bao nhiêu chuyện như vậy, anh cảm thấy đôi khi không thể không tin được, lòng anh bất giác bị bao phủ bởi chiếc bóng của điềm dữ. Có điều, sau khi suy đi tính lại, anh vẫn thấy phải tiếp tục tìm kiếm tấm bia đá của người Bái Xà, bởi vì, đó là cơ hội duy nhất giúp anh có thể vạch mặt Nấm mồ xanh, còn sau khi tìm thấy tấm bia đá hội anh sẽ xử lý thế nào thì giờ chưa phải lúc nghĩ tới. Việc cần làm trước mắt là xác định chính xác vị trí để tìm ra con đường tiếp cận tấm bia.
Từ những bức phù điêu trong hốc đá, Thắng Hương Lân suy đoán, người Bái Xà có tập tục lấy các vị thần tượng trưng cho địa hình mạch núi, phần đầu và phần thân dưới của vị thần đó sẽ ngầm chỉ phương hướng. Căn cứ vào điều này thì phía dưới Tử thành có lẽ tồn tại một đường hầm đá macma rất dài, ngoằn ngoèo xuyên qua dãy núi dưới lòng đất và dẫn thẳng đến miếu thần chôn bia đá. Độ dài của hành trình thì khó có thể dự tính trước được, môi trường dưới đó còn nguy hiểm hơn trong sơn cốc ốc cúc đá và rừng rậm pha lê. Chỉ đợi Thắng Hương Lân đánh dấu sơ lược những hình vẽ này trên bản đồ xong là mọi người lập tức khởi hành tìm kiếm đường hầm.
Địa thế trong động đạo Tử thành lúc rộng lúc hẹp, có nơi còn không chui qua nổi, mọi người đành đi vòng sang đường khác, rồi tiếp tục tiến về phía trước, bước thấp bước cao lần mò trong bóng tối mịt mùng. Địa hình hao hao giống nhau dễ khiến người ta cảm thấy mệt mỏi, mí mắt trên và mí mắt dưới không tự chủ được cứ díp cả lại. Khi cả hội đi tới lối ra của đường hầm thì thấy trước mắt hiện ra một hố sâu gần như dựng đứng, cái hố với đường kính gần trăm mét này có vẻ là khu vực nội thành, đồng thời cũng là đại điện nằm ở vị trí trung tâm của tòa thành. Không gian dưới đại điện vô cùng rộng rãi, những pho tượng các vị thần cổ đại đứng sừng sững khắp nơi, trông uy nghiêm và tĩnh tại, trên vách tường có vô số cửa động dẫn đến các thông đạo.
Hội Tư Mã Khôi dừng chân ở ngay mép một cửa động, soi đuốc và đèn quặng quan sát tình hình phía bên dưới, chỉ thấy mặt đất dưới đó nhấp nhô lồi lõm, giống như một khuôn mặt quái dị đang ngửa lên nhìn trời, bởi diện tích quá rộng nên từ phía trên, họ không thể nhìn rõ cái gì vào cái gì.
Xương khô trong Tử thành chất cao ngất ngưởng, đủ các loại hình thái cổ quái và đáng sợ, chỗ nào cũng giăng mắc hơi khí quái dị khó có thể hình dung, ánh lửa đuốc càng lúc càng mờ dần, cảm giác bất an và bức bối đè nặng lên tinh thần mọi người. Dường như quanh họ tồn tại một thứ gi đó không thể nhìn thấy, cũng không thể sờ thấy, nó đang lặng lẽ tiến sát đến gần, cả hội đều thấy chỗ này không thể dừng lại lâu, nên lục tục kéo nhau trèo xuống đáy động, lần từng bước tìm đường.
Nhị Học Sinh mệt đến nỗi hai chân mất hết cảm giác, cậu ta chỉ ý thức được mỗi việc bám sát Tư Mã Khôi tiến về phía trước, ngặt nỗi mắt lại cận nặng, không nhìn rõ địa hình dưới chân, nên vừa mất tập trung một cái đã bị ngã chổng vó, nấm độc mọc tua tủa trong miệng đầu lâu lổn nhổn khắp mặt đất, mặt cậu ta úp đúng vào đám nấm, nấm chui đầy miệng, Nhị Học Sinh sợ muốn ngất, cậu ta hoảng hốt nôn ọe hết thứ trong miệng ra, khiếp đảm đến mức không thốt nên lời.
Cả hội lặng người, nấm độc chính là tử khí được ngưng kết lại, chỉ cần sờ một lát là tay đã tê dại suốt hồi lâu, huống hồ là ăn vào miệng?
Tuy Cao Tư Dương xách theo hộp cứu thương, nhưng cô chưa từng biết đến loại nấm độc mọc trong miệng đầu lâu này, nên cũng lúng túng không biết nên áp dụng biện pháp nào để chữa trị, những thành viên còn lại cũng bó tay bất lực.
Mọi người thầm nghĩ, Nhị Học Sinh phen này chết chắc, chẳng ngờ chờ một hồi vẫn không thấy cậu ta có triệu chứng gì khác thường ngoài việc hồn vía lên mây.
Tư Mã Khôi biết loại nấm này chứa chất cực độc, chỉ cần chạm cây nấm vào nước dãi trong miệng là chẳng đầy tích tắc toàn thân đã tím đen, lăn ra chết mà không kịp phản ứng gì. Anh quan sát kỹ thì thấy nấm và những bộ xương khô xung quanh đều đã hoàn toàn biến thành hóa thạch. Nhưng tại sao ngay cả lũ chuột đang đói rã họng cũng không dám bước chân vào Tử thành? Rốt cuộc bọn chúng khiếp sợ điều gì?
Hải ngọng nói với Tư Mã Khôi: “Chỗ này làm người ta sởn hết gai ốc, âm khí của người chết nặng nề quá, nói thật tớ cũng hơi chờn đấy!”
Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Ngay cả Hải ngọng cũng phát giác thấy điều khác thường, xem ra chỗ này đúng là quái dị thật!”. Anh nắm chắc khẩu súng, đảo mắt nhìn khắp tứ phía, chỉ thấy dưới ánh lửa mờ ảo vô số lỗ hốc trên các đầu lâu trông thật quái đản, những khuôn mặt dị hợm vẹo vọ của người chết nom như những bóng quỷ bập bềnh.
Hải ngọng thấy Tư Mã Khôi nhìn chằm chằm vào mấy bộ xương khô, anh lập tức lên nòng súng: “Cẩn thận đấy! Không khéo trong Tử thành lại có cương thi của người Bái Xà cổ đại!”
Cao Tư Dương và Thắng Hương Lân dìu Nhị Học Sinh đứng lên, rồi quay sang bảo Hải ngọng: “Anh đừng suốt ngày dọa người khác, dọc đường chỉ thấy toàn xương khô, lấy đâu ra cương thi cơ chứ?”
Hải ngọng cố cãi: “Tôi dọa các cô làm gì, xương khô thành tinh sẽ biến thành cương thi đá, mình đồng da sắt, dao chém không đứt, lửa thiêu không cháy, bọn chúng còn khó đối phó hơn mọi cương thi có da có thịt đấy!”
Nhị Học Sinh nghe vậy thì run cầm cập, sợ sệt quay đầu lại nhìn, trong bóng tối không hề có bất kỳ động tĩnh nào, cậu ta căng thẳng nói: “Tôi biết trong tòa thành này có một thứ không nhìn thấy, không sờ thấy nhưng vô cùng đáng sợ…”
Hải ngọng nạt: “Lấy vợ lại đòi cắm phướn à? Văn vẻ lãng xẹt! Chú cứ nói toẹt ra trong này có ma phải hơn không, vòng vo Tam Quốc làm cái mẹ gì?”
Cao Tư Dương trách Nhị Học sinh: “Anh tận mắt nhìn thấy ma bao giờ chưa? Sao cũng nói xằng giống bọn họ?”
Nhị Hoc Sinh thề độc: “Cảm giác sởn hết gai ốc này rất chân thực, nếu tôi nói xằng sẽ bị sét đánh chết ngay lập tức.”
Tư Mã Khôi chửi: “Con mẹ chú, khi không đừng rỗi miệng nói càn, mấy năm nay bao nhiêu người bị sét đánh, thiên lôi cũng mệt chả buồn vung búa, thề thốt làm quái gì. Nhưng đúng là nơi này rất tà mị, rời sớm chừng nào, bớt nguy hiểm chừng ấy”.
Lúc này, mọi người đều cảm thấy bất an, nhưng không thể nói chính xác điểm nào không ổn, họ chỉ mong mau chóng tìm thấy đường dẫn tới tấm bia đá, mau chóng rời khỏi nơi đây. Thế là, cả hội theo chỉ dẫn khắc trên phù điêu, mò mẫm một hồi trong thạch điện. Dưới đáy tòa thạch điện có hình đầu một vị thần đang ngửa mặt lên trời, thể tích to lớn khác thường, khuôn mặt giống như một ngọn núi nhỏ lồi hẳn lên, miệng mím chặt, có điều nó nằm dưới lòng đất từ thuở xa xưa nên rất khó truy tìm gốc gác, bề mặt nứt nẻ như mai rùa. Ngoài ra còn có mấy pho tượng người bằng đá đứng sừng sững xung quanh, năm tháng qua đi, chúng bị đổ xuống, đập vỡ cả mặt đất, nhờ đó mới lộ ra một hang động đá macma sâu không thấy đáy nằm phía dưới, soi đèn quặng xuống chỉ thấy tối thui.
Tư Mã Khôi trông thấy vậy, anh đoán đó chính là đường hầm đá macma, miệng của bức tượng khổng lồ là cửa động. Mấy ngàn năm trước, người Bái Xà đã bịt kín cửa động, nếu không có vụ lở đất thì có muốn chui vào đường hầm cũng không dễ dàng, chỉ cần chui qua hang đá cuối cùng của con đường dài dằng dặc này, là cả hội có thể nhìn thấy tấm bia đá ẩn giấu lời giải của mọi ẩn số.
Thắng Hương Lân khẽ nhắc Tư Mã Khôi: “Chúng ta không biết gì về tình hình trong đường hầm, phải cẩn trọng!”
Tư Mã Khôi gật đầu đáp: “Chỗ này không thể nấn ná lại lâu, tóm lại chúng ta cứ vào đường hầm trước, chí ít phải cách xa tòa thành chất đống xương người này mới có thể dừng lại nghỉ ngơi được…”, mới nói đến nửa chừng, Tư Mã Khôi thấy có người giật giật cánh tay mình, quay lại nhìn thì thấy mặt Nhị Học Sinh khô quắt như người chết. Tư Mã Khôi ngạc nhiên hỏi: “Chú định đóng phim kinh dị à? Sao mặt mũi trông khiếp thế?”
Nhị Học Sinh chỉ Tư Mã Khôi, lập cập nói: “Thực ra, mặt… mặt của anh trông cũng chẳng khác gì đầu lâu”.
Tư Mã Khôi chỉ hiểu lờ mờ tình hình được miêu tả trong bức phù điêu, anh không thể chỉ ra đích xác rốt cuộc trên tấm bia đá khắc ẩn số kinh thiên động địa gì, tại sao bí mật đó không được phép nhìn và cũng không được phép nói ra?
Thắng Hương Lân biết hội Tư Mã Khôi không đủ kiên nhẫn để quan sát kỹ lưỡng, nên cô nói luôn: “Phần lớn nội dung của bức phù điêu ghi chép sự tích về tấm bia đá, có lẽ nó bị chôn vùi ở một nơi cực sâu dưới hoàng tuyền, người Bái Xà cổ đại tin rằng: Bất cứ kẻ nào nhìn thấy tấm bia, kẻ đó sẽ lập tức sợ hãi mà chết đứng ngay trước tấm bia.”
Tư Mã Khôi bảo: “Tôi chẳng tìm thấy manh mối nào cả. Theo những gì chúng ta đã biết thì tấm bia đá của người Bái Xà chỉ là một tảng đá khổng lồ nằm ở nơi rất sâu dưới cửu tuyền, nó cũng giống như vô vàn những tảng đá khác dưới lòng đất, nếu ai nhìn thấy tấm bia, kẻ đó lập tức mất mạng, vậy thì nguyên nhân cái chết chắc chắn là do bí mật khắc trên tấm bia gây ra, lẽ nào bí mật đó có thể dọa người đang sống sờ sờ bỗng dưng lăn ra chết hay sao? Tôi chả tin chuyện hoang đường này, mười ngón tay xòe ra còn có ngón ngắn ngón dài, huống hồ là con người, trăm kẻ trăm tính trăm nết, ví dụ hạng người phản ứng chậm như sên kiểu Hải ngọng, mặt dày thế kia thì chuyện gì có thể dọa cậu ấy sợ đến nỗi lăn ra chết được chứ?”
Hải ngọng vội vàng đính chính: “Không phải tớ phản ứng chậm chạp mà là tớ từng trải, có chuyện quái dị nào ông Hải này chưa từng gặp chứ?”
Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh cũng gật đầu cho là phải, nếu trên bia đá khắc hình yêu ma quỷ quái hung tợn quái dị mà bất ngờ nhìn thấy trong bóng tối, không khéo cũng sợ vãi đái, có khi còn mềm nhũn cả chân, khuỵu xuống đất, nói thế còn có khả năng, chứ bảo ai đứng trước tấm bia đá, người đó sẽ sợ hãi chết bất đắc kỳ tử thì đúng là khó tin, huống hồ nội dung khắc trên tấm bia cũng chỉ là mấy chữ tượng hình cổ tương tự như long ấn triều Hạ, chứ nào phải hình yêu ma quỷ quái gì!
Thắng Hương Lân không thể trả lời được thắc mắc của mọi người, cô chỉ biết giải thích theo đúng nội dung khắc trên bức phù điêu. Tấm bia Bái Xà vốn do mấy vị vương gia đầu đội trang sức vàng lưu lại, những người này có địa vị thống trị tối cao trong tộc người Bái Xà, họ chia nhau nắm giữ một phần nội dung khắc trên tấm bia đá, nhưng không ai được phép biết toàn bộ nội dung, càng không được phép tiết lộ bí mật mình nắm giữ cho người khác, bởi vậy họ buộc phải cắt lưỡi. Người Bái Xà nghiêm ngặt giữ bí mật – điều cấm kỵ cổ xưa mà thần Vũ Xà đã đặt ra. Huyệt động khắc đầy phù điêu này chẳng qua chỉ là một trong những chỗ chôn xương người, trong Tử thành có lẽ còn có mấy nơi tương tự như vậy.
Tư Mã Khôi tập trung suy ngẫm, anh cảm thấy tuy nội dung khắc trên tấm phù điêu hoang đường, ly kỳ, nhưng hậu duệ của người Bái Xà vốn sinh sống ở lưu vực sông Hoài Thủy luôn đau đáu thực hiện ý đồ đào tấm bia dưới lòng đất lên, hi vọng có thể nhờ đó để thoát khỏi kiếp nô dịch dưới trướng vương triều nhà Hạ. Điều này hoàn toàn trùng khớp với những ghi chép tổ tiên để lại, nhưng bí mật khắc trên tấm bia khủng khiếp đến mức chỉ cần nhìn một cái là sợ hãi lăn đùng ra chết, thử hỏi sau khi tìm thấy nó ai còn dám xem?
Hải ngọng nói: “Cẩn tắc vô ưu, đến lúc đó chúng ta để Nhị Học Sinh xem tấm bia khắc bí mật gì, nếu cậu ta không khiếp vía mà chết, thì chúng ta xem sau cũng chưa muộn.”
Tư Mã Khôi không đếm xỉa đến “ý tưởng đầu bò” của Hải ngọng, trong đầu anh không ngừng lặp đi lặp lại suy nghĩ: Vì sao Nấm mồ xanh muốn tìm tấm bia của người Bái Xà? Trước khi tìm thấy tấm bia đá, có lẽ anh không thể giải đáp được ẩn số đó. Lúc này, Tư Mã Khôi bỗng thấy hơi do dự, hội anh trải qua bao phen thập tử nhất sinh mới đến được đây, nên tuyệt đối không thể biến mình thành tấm bia đỡ đạn cho Nấm mồ xanh được.
“Kẻ nào dám nhìn bí mật khắc trên tấm bia đá, kẻ đó sẽ lập tức gánh chịu hậu quả chết chóc”, tuy Tư Mã Khôi không tin tà ma, nhưng sau khi trải qua bao nhiêu chuyện như vậy, anh cảm thấy đôi khi không thể không tin được, lòng anh bất giác bị bao phủ bởi chiếc bóng của điềm dữ. Có điều, sau khi suy đi tính lại, anh vẫn thấy phải tiếp tục tìm kiếm tấm bia đá của người Bái Xà, bởi vì, đó là cơ hội duy nhất giúp anh có thể vạch mặt Nấm mồ xanh, còn sau khi tìm thấy tấm bia đá hội anh sẽ xử lý thế nào thì giờ chưa phải lúc nghĩ tới. Việc cần làm trước mắt là xác định chính xác vị trí để tìm ra con đường tiếp cận tấm bia.
Từ những bức phù điêu trong hốc đá, Thắng Hương Lân suy đoán, người Bái Xà có tập tục lấy các vị thần tượng trưng cho địa hình mạch núi, phần đầu và phần thân dưới của vị thần đó sẽ ngầm chỉ phương hướng. Căn cứ vào điều này thì phía dưới Tử thành có lẽ tồn tại một đường hầm đá macma rất dài, ngoằn ngoèo xuyên qua dãy núi dưới lòng đất và dẫn thẳng đến miếu thần chôn bia đá. Độ dài của hành trình thì khó có thể dự tính trước được, môi trường dưới đó còn nguy hiểm hơn trong sơn cốc ốc cúc đá và rừng rậm pha lê. Chỉ đợi Thắng Hương Lân đánh dấu sơ lược những hình vẽ này trên bản đồ xong là mọi người lập tức khởi hành tìm kiếm đường hầm.
Địa thế trong động đạo Tử thành lúc rộng lúc hẹp, có nơi còn không chui qua nổi, mọi người đành đi vòng sang đường khác, rồi tiếp tục tiến về phía trước, bước thấp bước cao lần mò trong bóng tối mịt mùng. Địa hình hao hao giống nhau dễ khiến người ta cảm thấy mệt mỏi, mí mắt trên và mí mắt dưới không tự chủ được cứ díp cả lại. Khi cả hội đi tới lối ra của đường hầm thì thấy trước mắt hiện ra một hố sâu gần như dựng đứng, cái hố với đường kính gần trăm mét này có vẻ là khu vực nội thành, đồng thời cũng là đại điện nằm ở vị trí trung tâm của tòa thành. Không gian dưới đại điện vô cùng rộng rãi, những pho tượng các vị thần cổ đại đứng sừng sững khắp nơi, trông uy nghiêm và tĩnh tại, trên vách tường có vô số cửa động dẫn đến các thông đạo.
Hội Tư Mã Khôi dừng chân ở ngay mép một cửa động, soi đuốc và đèn quặng quan sát tình hình phía bên dưới, chỉ thấy mặt đất dưới đó nhấp nhô lồi lõm, giống như một khuôn mặt quái dị đang ngửa lên nhìn trời, bởi diện tích quá rộng nên từ phía trên, họ không thể nhìn rõ cái gì vào cái gì.
Xương khô trong Tử thành chất cao ngất ngưởng, đủ các loại hình thái cổ quái và đáng sợ, chỗ nào cũng giăng mắc hơi khí quái dị khó có thể hình dung, ánh lửa đuốc càng lúc càng mờ dần, cảm giác bất an và bức bối đè nặng lên tinh thần mọi người. Dường như quanh họ tồn tại một thứ gi đó không thể nhìn thấy, cũng không thể sờ thấy, nó đang lặng lẽ tiến sát đến gần, cả hội đều thấy chỗ này không thể dừng lại lâu, nên lục tục kéo nhau trèo xuống đáy động, lần từng bước tìm đường.
Nhị Học Sinh mệt đến nỗi hai chân mất hết cảm giác, cậu ta chỉ ý thức được mỗi việc bám sát Tư Mã Khôi tiến về phía trước, ngặt nỗi mắt lại cận nặng, không nhìn rõ địa hình dưới chân, nên vừa mất tập trung một cái đã bị ngã chổng vó, nấm độc mọc tua tủa trong miệng đầu lâu lổn nhổn khắp mặt đất, mặt cậu ta úp đúng vào đám nấm, nấm chui đầy miệng, Nhị Học Sinh sợ muốn ngất, cậu ta hoảng hốt nôn ọe hết thứ trong miệng ra, khiếp đảm đến mức không thốt nên lời.
Cả hội lặng người, nấm độc chính là tử khí được ngưng kết lại, chỉ cần sờ một lát là tay đã tê dại suốt hồi lâu, huống hồ là ăn vào miệng?
Tuy Cao Tư Dương xách theo hộp cứu thương, nhưng cô chưa từng biết đến loại nấm độc mọc trong miệng đầu lâu này, nên cũng lúng túng không biết nên áp dụng biện pháp nào để chữa trị, những thành viên còn lại cũng bó tay bất lực.
Mọi người thầm nghĩ, Nhị Học Sinh phen này chết chắc, chẳng ngờ chờ một hồi vẫn không thấy cậu ta có triệu chứng gì khác thường ngoài việc hồn vía lên mây.
Tư Mã Khôi biết loại nấm này chứa chất cực độc, chỉ cần chạm cây nấm vào nước dãi trong miệng là chẳng đầy tích tắc toàn thân đã tím đen, lăn ra chết mà không kịp phản ứng gì. Anh quan sát kỹ thì thấy nấm và những bộ xương khô xung quanh đều đã hoàn toàn biến thành hóa thạch. Nhưng tại sao ngay cả lũ chuột đang đói rã họng cũng không dám bước chân vào Tử thành? Rốt cuộc bọn chúng khiếp sợ điều gì?
Hải ngọng nói với Tư Mã Khôi: “Chỗ này làm người ta sởn hết gai ốc, âm khí của người chết nặng nề quá, nói thật tớ cũng hơi chờn đấy!”
Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Ngay cả Hải ngọng cũng phát giác thấy điều khác thường, xem ra chỗ này đúng là quái dị thật!”. Anh nắm chắc khẩu súng, đảo mắt nhìn khắp tứ phía, chỉ thấy dưới ánh lửa mờ ảo vô số lỗ hốc trên các đầu lâu trông thật quái đản, những khuôn mặt dị hợm vẹo vọ của người chết nom như những bóng quỷ bập bềnh.
Hải ngọng thấy Tư Mã Khôi nhìn chằm chằm vào mấy bộ xương khô, anh lập tức lên nòng súng: “Cẩn thận đấy! Không khéo trong Tử thành lại có cương thi của người Bái Xà cổ đại!”
Cao Tư Dương và Thắng Hương Lân dìu Nhị Học Sinh đứng lên, rồi quay sang bảo Hải ngọng: “Anh đừng suốt ngày dọa người khác, dọc đường chỉ thấy toàn xương khô, lấy đâu ra cương thi cơ chứ?”
Hải ngọng cố cãi: “Tôi dọa các cô làm gì, xương khô thành tinh sẽ biến thành cương thi đá, mình đồng da sắt, dao chém không đứt, lửa thiêu không cháy, bọn chúng còn khó đối phó hơn mọi cương thi có da có thịt đấy!”
Nhị Học Sinh nghe vậy thì run cầm cập, sợ sệt quay đầu lại nhìn, trong bóng tối không hề có bất kỳ động tĩnh nào, cậu ta căng thẳng nói: “Tôi biết trong tòa thành này có một thứ không nhìn thấy, không sờ thấy nhưng vô cùng đáng sợ…”
Hải ngọng nạt: “Lấy vợ lại đòi cắm phướn à? Văn vẻ lãng xẹt! Chú cứ nói toẹt ra trong này có ma phải hơn không, vòng vo Tam Quốc làm cái mẹ gì?”
Cao Tư Dương trách Nhị Học sinh: “Anh tận mắt nhìn thấy ma bao giờ chưa? Sao cũng nói xằng giống bọn họ?”
Nhị Hoc Sinh thề độc: “Cảm giác sởn hết gai ốc này rất chân thực, nếu tôi nói xằng sẽ bị sét đánh chết ngay lập tức.”
Tư Mã Khôi chửi: “Con mẹ chú, khi không đừng rỗi miệng nói càn, mấy năm nay bao nhiêu người bị sét đánh, thiên lôi cũng mệt chả buồn vung búa, thề thốt làm quái gì. Nhưng đúng là nơi này rất tà mị, rời sớm chừng nào, bớt nguy hiểm chừng ấy”.
Lúc này, mọi người đều cảm thấy bất an, nhưng không thể nói chính xác điểm nào không ổn, họ chỉ mong mau chóng tìm thấy đường dẫn tới tấm bia đá, mau chóng rời khỏi nơi đây. Thế là, cả hội theo chỉ dẫn khắc trên phù điêu, mò mẫm một hồi trong thạch điện. Dưới đáy tòa thạch điện có hình đầu một vị thần đang ngửa mặt lên trời, thể tích to lớn khác thường, khuôn mặt giống như một ngọn núi nhỏ lồi hẳn lên, miệng mím chặt, có điều nó nằm dưới lòng đất từ thuở xa xưa nên rất khó truy tìm gốc gác, bề mặt nứt nẻ như mai rùa. Ngoài ra còn có mấy pho tượng người bằng đá đứng sừng sững xung quanh, năm tháng qua đi, chúng bị đổ xuống, đập vỡ cả mặt đất, nhờ đó mới lộ ra một hang động đá macma sâu không thấy đáy nằm phía dưới, soi đèn quặng xuống chỉ thấy tối thui.
Tư Mã Khôi trông thấy vậy, anh đoán đó chính là đường hầm đá macma, miệng của bức tượng khổng lồ là cửa động. Mấy ngàn năm trước, người Bái Xà đã bịt kín cửa động, nếu không có vụ lở đất thì có muốn chui vào đường hầm cũng không dễ dàng, chỉ cần chui qua hang đá cuối cùng của con đường dài dằng dặc này, là cả hội có thể nhìn thấy tấm bia đá ẩn giấu lời giải của mọi ẩn số.
Thắng Hương Lân khẽ nhắc Tư Mã Khôi: “Chúng ta không biết gì về tình hình trong đường hầm, phải cẩn trọng!”
Tư Mã Khôi gật đầu đáp: “Chỗ này không thể nấn ná lại lâu, tóm lại chúng ta cứ vào đường hầm trước, chí ít phải cách xa tòa thành chất đống xương người này mới có thể dừng lại nghỉ ngơi được…”, mới nói đến nửa chừng, Tư Mã Khôi thấy có người giật giật cánh tay mình, quay lại nhìn thì thấy mặt Nhị Học Sinh khô quắt như người chết. Tư Mã Khôi ngạc nhiên hỏi: “Chú định đóng phim kinh dị à? Sao mặt mũi trông khiếp thế?”
Nhị Học Sinh chỉ Tư Mã Khôi, lập cập nói: “Thực ra, mặt… mặt của anh trông cũng chẳng khác gì đầu lâu”.
Danh sách chương