Mọi người đi vào cái miệng khổng lồ há rộng của thần Vũ Xà, thâm nhập vào trong lòng núi, thì thấy động đạo khoáng đạt, sâu hút, trên mặt đất và vách tường lổn nhổn vô số tảng đá khổng lồ bằng phẳng, bên trên điêu khắc toàn hình đầu thần mặt quỷ, cả hội liếc mắt xem qua thì thấy nội dung chủ yếu là đề tài con người sau khi chết đi sẽ rơi xuống hoàng tuyền.
Lúc đầu, hội Tư Mã Khôi cứ ngỡ đã bước chân vào miếu thần – nơi đặt tấm bia đá của người Bái Xà, nhưng khi nghe Thắng Hương Lân bảo đây mới chỉ là Tử thành, thì ai nấy đều thất vọng, bước chân bất giác chậm hẳn lại.
Cao Tư Dương giơ cao ngọn đuốc, chăm chú nhìn những hình vẽ trên bức phù điêu, ở đó vẽ đủ các loại thần tiên yêu ma, cô hỏi Hương Lân: “Tử thành là nơi ở của người chết sao?”
Tư Mã Khôi nói: “Có lẽ đó là một tòa thành cổ không có lối ra, không biết miếu thần có trong tòa thành này không nhỉ?”
Thắng Hương Lân nói, người Bái Xà cổ đại sống ở thời văn minh nguyên thủy, mức độ phát triển của họ rực rỡ ngang với nền văn minh Ai Cập cổ đại, họ có quan điểm về sinh tử rất độc đáo. Người Bái Xà tin tưởng sâu sắc vào sự luân hồi chuyển thế, họ cho rằng chỉ cần sau khi chết, hồn phách không bị rơi vào hư vô, thì sẽ có cơ hội hồi sinh. Vậy phải làm sao để hồn phách không bị rơi xuống hư vô? Chỉ có một cách, đó là họ buộc phải chết trong tòa thành cổ được xây dựng ở lòng núi Vũ Xà. Ngay khi còn sống, họ đã vào trong thành để đợi ngày được tử thần rước đi, nếu ai chẳng may chết ngoài thành cổ thì vĩnh viễn không có kiếp sau, dẫu đưa xác chết vào trong thành thì cũng vô nghĩa, chính vì vậy, từ vương tử đến thứ dân đều có vị trí huyệt mộ trong Tử thành, họ căn cứ vào địa vị lúc tại thế của người đó để phân chia vị trí huyệt mộ trong thành.
Mọi người nghĩ, hóa ra Tử thành đúng là nơi ở của người chết, e rằng trong thành này, xương khô và cương thi chất cao như núi, không biết nếu đi sâu vào bên trong sẽ còn gặp những nguy hiểm gì.
Tư Mã Khôi giục Nhị Học Sinh cố gắng sửa xong đèn hỏa diệm nhiệt độ cao, có vật này trong tay, cả hội sẽ vững dạ hơn.
Suốt dọc đường đi, Nhị Học Sinh vẫn không ngừng cố gắng, nhưng bất kể cậu ta đập gõ thế nào, đèn vẫn không sáng, xem ra thiết bị tiên tiến này có kết cấu rất phức tạp.
Trong môi trường khắc nghiệt như vậy, cả hội chỉ biết dựa vào mấy khẩu súng lạc hậu để bảo vệ bản thân, vì trong thời gian ngắn như vậy, họ không hi vọng ngọn đèn có thể phát huy tác dụng.
Tư Mã Khôi thầm linh cảm thấy điều chẳng lành, chỉ e trong Tử thành có thứ gì đó mà súng Winchester không thể đối phó nổi.
Anh nghe Thắng Hương Lân tiếp tục giải thích, nội dung cuốn nhật ký còn nhắc đến một chuyện, người Bái Xà cổ đại có thói quen đào huyệt rất sâu dưới lòng đất, hậu quả của việc đó là nơi này đã xảy ra một trận đại hồng thủy, khiến vô số người phải chôn thây trong bụng cá, cầm thú quỷ quái hoành hành khắp cõi nhân gian, dạ xoa ác quỷ cũng mò xuống lòng núi ăn thịt người, những thành trì còn sót lại bị hư hỏng nặng nề, nên không thể ngăn được nước lũ và bọn mãnh thú, những người may mắn sống sót đành trốn vào Tử thành, săn chuột làm thức ăn và làm bạn với núi xương khô chất chồng của tổ tiên, cuối cùng số người sống sót càng lúc càng giảm dần. Đó chính là nguyên nhân chính dẫn đến sự diệt vong của nền văn minh Bái Xà.
Hải ngọng nói: “Mặc kệ bọn người Bái Xà chết hết hay chưa, điều tôi quan tâm nhất bây giờ là làm cách nào tìm thấy tấm bia đá trong miếu thần?”
Thắng Hương Lân lắc đầu nói: “Không ai biết được vị trí chính xác của miếu thần, giờ đây chúng ta chỉ còn cách lục soát từng manh mối trong tòa thành chết này thôi!”
Tư Mã Khôi hỏi Thắng Hương Lân: “Trong cuốn nhật ký có vẽ bản đồ của Tử thành không? Nơi này sâu hút, tối thui, không có bản đồ thì làm sao tìm thấy lối ra được.”
Thắng Hương Lân nói: “Không tìm thấy bản đồ, nhưng dãy núi dưới lòng đất được coi là hóa thân của thần Vũ Xà, chỉ cần tham chiếu tô tem thần Vũ Xà là ta có thể nhận biết được địa thế và phương hướng của tòa thành cổ này.”
Mọi người vừa đi vừa nói chuyện, chẳng mấy chốc, họ đã xuyên qua thông đạo khoáng đạt, nhưng nơi sâu trong lòng núi là bức tường cao dựng đứng, chỗ nào cũng thấy những bức tượng người hoặc tượng thú khổng lồ cao đến mười mấy mét; vách tường không còn bằng phẳng mà lồi lõm, nhấp nhô, trên mặt tường có rất nhiều lỗ hổng giống như hang chuột, rêu khô loang lổ, trong góc tường mọc vô số thân nấm thấp tè với đủ hình dáng cổ quái, cây lớn nhất cũng chỉ to bằng nắm đấm là cùng.
Mọi người vừa đi vừa không thể ngăn được tiếng tim đập thình thịch như gõ trống. Tòa Tử thành này là nơi chất ngút không biết bao nhiêu thi thể, năm dài tháng rộng qua đi, không chừng những thi thể ấy đã biến thành cương thi rồi cũng nên, nhưng lẽ ra quanh đây ít ra phải gặp mấy bộ xương khô hoặc di hài chứ, sao không hề lưu lại chút vết tích nào? Toàn bộ người chết trong tòa thành đã biến đâu rồi?
Tư Mã Khôi thấy cuốn nhật ký mà Thắng Hương Lân cầm trên tay có hình tô tem Vũ Xà ở lưng chừng lòng núi, bên trên khảm một vòng tròn biểu thị luân hồi sinh tử, anh phán đoán có lẽ tòa Tử thành lún vào lòng núi này cũng hình tròn, đứng ở ngoài cửa động nhìn vào thì không thấy xác chết nào, còn tình hình bên trong ra sao anh lại hoàn toàn không rõ.
Nhị Học Sinh thì thầm: “Lẽ ra xác chết trong này phải chất cao như núi mới phải, sao đến nửa cỗ di hài cũng chẳng trông thấy thế nhỉ?”
Cao Tư Dương nói: “Không chừng người chết đều ở sâu trong thành cổ…”, cô chưa nói hết câu thì bỗng một bầy chuột nhung nhúc kéo đến, con nào con nấy to kềnh càng như mèo rừng, số lượng không dưới ngàn con, chúng giương cặp mắt đỏ lòm như máu chui qua chui lại quanh chân mọi người. Cao Tư Dương là chúa sợ chuột, cô vội vàng vung đuốc xua đuổi.
Hải ngọng nói: “Chuột ở đây to thật, người chết trong thành cổ chắc chắn đã bị lũ này gặm hết rồi, các cậu có nghe lời đồn, con chuột sau khi ăn con ngươi của người chết sẽ trở thành chuột chúa, nó chính là ‘Nhất lộ tiên gia’ đấy!”
Cao Tư Dương mặt biến sắc: “Hải ngọng, sao lúc nào anh cũng thích nói quá lên vậy? Làm gì có chuyện đó!”
Tư Mã Khôi nói: “Trong dân gian, người ta gọi chuột là Khôi bát gia, tương truyên con vật này rất giỏi dự đoán điềm cát hung, nếu cô sống trong ngôi nhà có chuột, ban đêm yên tĩnh, dỏng tai lên có thể nghe thấy tiếng chuột rời tổ đi tìm thức ăn. Trước đó chúng thường thì thầm kêu chít chít trong hang, đó là lúc chúng nhẩm tính xem sau khi ra khỏi hang có gặp phải mèo hay không, bởi vậy dân gian mới có cách nói “chuột gieo quẻ”, nếu bị chuột cắn vào tóc thì là điềm lành, còn nếu bị nó gặm chân hoặc giày tất thì là điềm dữ…”
Nhị Học Sinh thấy Tư Mã Khôi nói vậy, hốt hoảng hỏi lại: “Chết rồi, tôi vừa bị con chuột cắn vào giày, nghĩa là tôi sắp gặp vận đen rồi à?”
Cao Tư Dương nói: “Chỉ có anh mới tin bọn họ nói xằng, không khéo trong thành cổ còn có vô số chuột khổng lồ, nhân cơ hội này thiêu sạch chúng cho sớm!”.
Tư Mã Khôi nói: “Tôi không nói xằng, có thể chuyện chuột gieo quẻ chỉ là lời đồn, nhưng loài chuột rất gần gũi với con người, chỉ chờ người đi ngủ là chúng bắt đầu hoạt động, bởi vậy chuyện quái dị quanh chúng cũng không ít. Bọn chúng là loài có tinh thần cảnh giác cao độ bậc nhất, rất am tường việc đón cát tránh hung”, nói rồi Tư Mã Khôi lấy đuốc soi khắp bốn phía xung quanh, anh nhìn chằm chằm vào hướng di chuyển của lũ chuột trong Tử thành.
Cao Tư Dương thấy Tư Mã Khôi tập trung tinh thần cao độ mà không hiểu anh đang nhìn gì, cô nhỏ giọng hỏi Thắng Hương Lân: “Gã này hơi ấm đầu thì phải, không lẽ anh ta cho rằng người chết trong thành cổ đều biến thành chuột chắc?”
Thắng Hương Lân nói: “Có lẽ anh ấy thấy nấm mọc trong Tử thành hơi kỳ quái, tuy chuột ở đây rất nhiều, nhưng dường như chúng luôn tránh những cây nấm, chứ không dám ăn, có lẽ trong nấm chứa chất kịch độc, mọi người cũng tuyệt đối không được chạm vào nó đấy nhé!”
Tư Mã Khôi gật đầu bảo: “Đó chỉ là một nguyên nhân, ngoài ra, mọi người còn chuẩn bị tâm lý trước, quan sát kỹ những vách tường thành mọc nấm độc”.
Mọi người không hiểu ý, liền soi lửa đuốc vào bức tường đá, giương mắt nhìn suốt hồi lâu, nhưng không phát hiện ra có điểm gì khác thường.
Tư Mã Khôi xua tay nói: “Mọi người có nhìn thấy gì cũng đừng sợ hãi, ai nhát gan thì tốt nhất chớ có nhìn!”
Những thành viên còn lại càng nghe càng ù ù cạc cạc không hiểu, mọi người lui lại mấy bước, bấm đèn quặng chĩa về phía vách tường, khi đã định thần nhìn lại thì ai nấy đều kinh hãi tột độ, mồ hôi vã ra như tắm. Vách tường lồi lõm với vô số hốc lớn nhỏ, chẳng ngờ các vết tích ấy đều là đầu lâu, mọi người giật thót mình, trong thành đắp đống vô số thi hài của người Bái Xà, giờ đây tầng tầng lớp lớp xương khô đã trở thành hóa thạch, điều lạ lùng là làm sao những cây nấm này lại mọc ra từ miệng của đầu lâu?
Hải ngọng ra vẻ hiểu biết, kể mình từng đến núi Bạch Sơn đỉnh Hưng An Lĩnh, gặp vô số loại nấm với đủ hình thù kì quái, hình như loại nấm này có tên “nấm thi khẩu”, nghĩa là nấm miệng người chết, sở dĩ có tên này là vì chúng chỉ mọc trong miệng người chết. Nghe mấy tên đi đào nhân sâm kể lại, những người này lúc còn sống thường ăn nhân sâm ngàn năm, nên sau khi chết đi chân khí không tiêu tan mà từ từ cô đọng lại thành cây nấm, loại nấm này vô cùng quý giá, người sống ăn vào có thể kéo dài tuổi thọ, nếu trong quá trình phá quan tài cải táng; hoặc đào huyệt mộ ngẫu nhiên phát hiện thấy một cây nấm thì bọn trộm mộ sẽ thi nhau tranh cướp, nhưng loại nấm này nếu chạm phải tay người là lập tức hóa thành nước đen, có đào lên cũng không cách nào bảo quản, không những vậy bàn tay chạm vào cây nấm lập tức bị tê dại.
Tư Mã Khôi am hiểu thuật tướng vật, vừa nghe Hải ngọng nói đã biết là bốc phét, con người sau khi chết đi làm gì còn chân khí, những cây nấm này chắc chắn được hình thành do tử khí trong địa động ngưng tụ lại, chất độc của nó thuộc hàng kịch độc, chỉ cần ngắt ra, ngâm vào trong nước sẽ thấy hàng ngàn hàng vạn trùng đầu đỏ mõm đen thi nhau bơi lội, tuy bây giờ chúng đều đã hóa thạch, nhưng lũ chuột vẫn không dám đến gần, điều đó chứng tỏ chất độc vẫn chưa tan hẳn.
Lúc này, bọn chuột trong khe nứt lòng núi túa ra ngày một nhiều, con nào con nấy da đen trùi trũi, mình không một sợi lông, rồi một con chuột khổng lồ cũng chui ra, nó to gấp mấy lần đồng loại, lông loang lổ khắp toàn thân, trắng như khối tuyết, nó đái són suốt dọc đường đi, mỗi giọt lại biến thành một con chuột.
Mọi người nhìn cảnh tượng ấy mà dựng tóc gáy, Thắng Hương Lân thì thầm: “Chuột chúa ra rồi kìa!”
Cao Tư Dương sợ hãi, mặt trắng bệch, giương súng Winchester ngắm vào con chuột khổng lồ, định bóp cò.
Tư Mã Khôi ấn cánh tay của Cao Tư Dương, rồi nói: “Đừng lãng phí đạn! Lũ này mà bao vây, thì lửa đuốc không đủ sức ngăn cản bọn chúng đâu, bọn chúng sẽ gặm chúng ta thành đống xương ngay tức thì, hơn nữa mùi tanh của máu chuột chết sẽ lôi kéo càng nhiều đồng loại của nó đến, bọn chuột rất sợ nấm độc trong Tử thành, mọi người chỉ cần đi phía trong hàng nấm độc là được”.
Mọi người lập tức giơ đuốc xua đuổi lũ chuột, bước vào trong, tiến dần vào động đạo. Tuy lũ chuột rất nuối tiếc hơi khí của người sống, nhưng lại bị nấm độc chặn ở ngoài, nên không dám liều chết vượt qua.
Hải ngọng bật đèn quặng đi trước mở đường. Càng vào sâu bên trong, xương khô trong động đạo càng nhiều, che lấp cả phù điêu khắc trên vách đá và tượng thần, tuy địa thế ở đây khá rộng rãi, nhưng không khí không lưu thông khiến người ta cảm thấy vô cùng khó thở, ánh sáng chỉ có thể soi sáng trong vòng mười bước chân. Lúc này, bên tai vang lên tiếng tim đập thình thịch và tiếng thở nặng nề của mọi người, ngoài ra hoàn toàn không còn bất kỳ âm thanh nào khác. Ai cũng thấp thỏm lo sợ, cố gắng bám sát nhau vì sợ mình bị rớt khỏi đội.
Vách ngoài của Tử thành hình tròn, nếu căn cứ vào đường nét tô tem trong bụng thần Vũ Xà để phán đoán, thì trong thành cổ có rất nhiều đường hầm bằng đá macma, thông đạo mà mọi người đang đi chỉ là một trong số đó. Giữa đường có các huyệt động lớn, trên vách tường khắc chi chít những bức phù điêu hoa văn uốn lượn, nhưng tuyệt không thấy một bộ xương khô nào. Tư Mã Khôi dừng bước, lại gần một thảm rêu, quan sát kỹ hồi lâu, anh nhận thấy phần lớn trên vách tường đều khắc hình một vị vương gia đầu đội trang sức bằng vàng, người ta cố ý nhào nặn ông ta thành hóa thân nửa người phàm trần, nửa thần tiên, rõ ràng địa vị của ông ta còn kém thần Vũ Xà một bậc.
Nhị Học Sinh cố gắng lắm mới không bị rớt lại phía sau, nhân lúc Tư Mã Khôi dừng lại xem xét, cậu ta ném ba lô và đèn chiếu nặng trịch xuống đất, ngồi thở hổn hển.
Hải ngọng càm ràm với Tư Mã Khôi: “Tớ thấy loại hàng phế phẩm kia chỉ tổ vướng chân bọn mình, cậu muốn để chim sẻ bay kịp chim yến thì chí ít ra nó cũng phải là chim đã chứ”.
Tư Mã Khôi nói: “Cậu đừng cằn nhằn nữa, có sức thì cậu cõng cậu ta đi! Tớ cũng chẳng kỳ vọng cậu ta sửa được cái đèn chiếu”.
Cao Tư Dương lo bọn chuột đói đuổi theo vào thành cổ, cô nói: “Trong này không có tấm bia của người Bái Xà, cũng không tiện lưu lại lâu, chúng ta mau đi thôi!”.
Tư Mã Khôi không dám nấn ná ở lại, anh kẻo Nhị Học Sinh đang ngồi bệt trên mặt đất đứng dậy, chuẩn bị tiếp tục cuộc hành trình. Nhưng đúng lúc đó, Thắng Hương Lân ngước nhìn bức phù điêu trên vách tường, rồi nói: “Đợi chút! Tôi đã biết vì sao người ta không được phép nhìn, cũng không được phép nói về bí mật khắc trên tấm bia đá của người Bái Xà rồi!”
Lúc đầu, hội Tư Mã Khôi cứ ngỡ đã bước chân vào miếu thần – nơi đặt tấm bia đá của người Bái Xà, nhưng khi nghe Thắng Hương Lân bảo đây mới chỉ là Tử thành, thì ai nấy đều thất vọng, bước chân bất giác chậm hẳn lại.
Cao Tư Dương giơ cao ngọn đuốc, chăm chú nhìn những hình vẽ trên bức phù điêu, ở đó vẽ đủ các loại thần tiên yêu ma, cô hỏi Hương Lân: “Tử thành là nơi ở của người chết sao?”
Tư Mã Khôi nói: “Có lẽ đó là một tòa thành cổ không có lối ra, không biết miếu thần có trong tòa thành này không nhỉ?”
Thắng Hương Lân nói, người Bái Xà cổ đại sống ở thời văn minh nguyên thủy, mức độ phát triển của họ rực rỡ ngang với nền văn minh Ai Cập cổ đại, họ có quan điểm về sinh tử rất độc đáo. Người Bái Xà tin tưởng sâu sắc vào sự luân hồi chuyển thế, họ cho rằng chỉ cần sau khi chết, hồn phách không bị rơi vào hư vô, thì sẽ có cơ hội hồi sinh. Vậy phải làm sao để hồn phách không bị rơi xuống hư vô? Chỉ có một cách, đó là họ buộc phải chết trong tòa thành cổ được xây dựng ở lòng núi Vũ Xà. Ngay khi còn sống, họ đã vào trong thành để đợi ngày được tử thần rước đi, nếu ai chẳng may chết ngoài thành cổ thì vĩnh viễn không có kiếp sau, dẫu đưa xác chết vào trong thành thì cũng vô nghĩa, chính vì vậy, từ vương tử đến thứ dân đều có vị trí huyệt mộ trong Tử thành, họ căn cứ vào địa vị lúc tại thế của người đó để phân chia vị trí huyệt mộ trong thành.
Mọi người nghĩ, hóa ra Tử thành đúng là nơi ở của người chết, e rằng trong thành này, xương khô và cương thi chất cao như núi, không biết nếu đi sâu vào bên trong sẽ còn gặp những nguy hiểm gì.
Tư Mã Khôi giục Nhị Học Sinh cố gắng sửa xong đèn hỏa diệm nhiệt độ cao, có vật này trong tay, cả hội sẽ vững dạ hơn.
Suốt dọc đường đi, Nhị Học Sinh vẫn không ngừng cố gắng, nhưng bất kể cậu ta đập gõ thế nào, đèn vẫn không sáng, xem ra thiết bị tiên tiến này có kết cấu rất phức tạp.
Trong môi trường khắc nghiệt như vậy, cả hội chỉ biết dựa vào mấy khẩu súng lạc hậu để bảo vệ bản thân, vì trong thời gian ngắn như vậy, họ không hi vọng ngọn đèn có thể phát huy tác dụng.
Tư Mã Khôi thầm linh cảm thấy điều chẳng lành, chỉ e trong Tử thành có thứ gì đó mà súng Winchester không thể đối phó nổi.
Anh nghe Thắng Hương Lân tiếp tục giải thích, nội dung cuốn nhật ký còn nhắc đến một chuyện, người Bái Xà cổ đại có thói quen đào huyệt rất sâu dưới lòng đất, hậu quả của việc đó là nơi này đã xảy ra một trận đại hồng thủy, khiến vô số người phải chôn thây trong bụng cá, cầm thú quỷ quái hoành hành khắp cõi nhân gian, dạ xoa ác quỷ cũng mò xuống lòng núi ăn thịt người, những thành trì còn sót lại bị hư hỏng nặng nề, nên không thể ngăn được nước lũ và bọn mãnh thú, những người may mắn sống sót đành trốn vào Tử thành, săn chuột làm thức ăn và làm bạn với núi xương khô chất chồng của tổ tiên, cuối cùng số người sống sót càng lúc càng giảm dần. Đó chính là nguyên nhân chính dẫn đến sự diệt vong của nền văn minh Bái Xà.
Hải ngọng nói: “Mặc kệ bọn người Bái Xà chết hết hay chưa, điều tôi quan tâm nhất bây giờ là làm cách nào tìm thấy tấm bia đá trong miếu thần?”
Thắng Hương Lân lắc đầu nói: “Không ai biết được vị trí chính xác của miếu thần, giờ đây chúng ta chỉ còn cách lục soát từng manh mối trong tòa thành chết này thôi!”
Tư Mã Khôi hỏi Thắng Hương Lân: “Trong cuốn nhật ký có vẽ bản đồ của Tử thành không? Nơi này sâu hút, tối thui, không có bản đồ thì làm sao tìm thấy lối ra được.”
Thắng Hương Lân nói: “Không tìm thấy bản đồ, nhưng dãy núi dưới lòng đất được coi là hóa thân của thần Vũ Xà, chỉ cần tham chiếu tô tem thần Vũ Xà là ta có thể nhận biết được địa thế và phương hướng của tòa thành cổ này.”
Mọi người vừa đi vừa nói chuyện, chẳng mấy chốc, họ đã xuyên qua thông đạo khoáng đạt, nhưng nơi sâu trong lòng núi là bức tường cao dựng đứng, chỗ nào cũng thấy những bức tượng người hoặc tượng thú khổng lồ cao đến mười mấy mét; vách tường không còn bằng phẳng mà lồi lõm, nhấp nhô, trên mặt tường có rất nhiều lỗ hổng giống như hang chuột, rêu khô loang lổ, trong góc tường mọc vô số thân nấm thấp tè với đủ hình dáng cổ quái, cây lớn nhất cũng chỉ to bằng nắm đấm là cùng.
Mọi người vừa đi vừa không thể ngăn được tiếng tim đập thình thịch như gõ trống. Tòa Tử thành này là nơi chất ngút không biết bao nhiêu thi thể, năm dài tháng rộng qua đi, không chừng những thi thể ấy đã biến thành cương thi rồi cũng nên, nhưng lẽ ra quanh đây ít ra phải gặp mấy bộ xương khô hoặc di hài chứ, sao không hề lưu lại chút vết tích nào? Toàn bộ người chết trong tòa thành đã biến đâu rồi?
Tư Mã Khôi thấy cuốn nhật ký mà Thắng Hương Lân cầm trên tay có hình tô tem Vũ Xà ở lưng chừng lòng núi, bên trên khảm một vòng tròn biểu thị luân hồi sinh tử, anh phán đoán có lẽ tòa Tử thành lún vào lòng núi này cũng hình tròn, đứng ở ngoài cửa động nhìn vào thì không thấy xác chết nào, còn tình hình bên trong ra sao anh lại hoàn toàn không rõ.
Nhị Học Sinh thì thầm: “Lẽ ra xác chết trong này phải chất cao như núi mới phải, sao đến nửa cỗ di hài cũng chẳng trông thấy thế nhỉ?”
Cao Tư Dương nói: “Không chừng người chết đều ở sâu trong thành cổ…”, cô chưa nói hết câu thì bỗng một bầy chuột nhung nhúc kéo đến, con nào con nấy to kềnh càng như mèo rừng, số lượng không dưới ngàn con, chúng giương cặp mắt đỏ lòm như máu chui qua chui lại quanh chân mọi người. Cao Tư Dương là chúa sợ chuột, cô vội vàng vung đuốc xua đuổi.
Hải ngọng nói: “Chuột ở đây to thật, người chết trong thành cổ chắc chắn đã bị lũ này gặm hết rồi, các cậu có nghe lời đồn, con chuột sau khi ăn con ngươi của người chết sẽ trở thành chuột chúa, nó chính là ‘Nhất lộ tiên gia’ đấy!”
Cao Tư Dương mặt biến sắc: “Hải ngọng, sao lúc nào anh cũng thích nói quá lên vậy? Làm gì có chuyện đó!”
Tư Mã Khôi nói: “Trong dân gian, người ta gọi chuột là Khôi bát gia, tương truyên con vật này rất giỏi dự đoán điềm cát hung, nếu cô sống trong ngôi nhà có chuột, ban đêm yên tĩnh, dỏng tai lên có thể nghe thấy tiếng chuột rời tổ đi tìm thức ăn. Trước đó chúng thường thì thầm kêu chít chít trong hang, đó là lúc chúng nhẩm tính xem sau khi ra khỏi hang có gặp phải mèo hay không, bởi vậy dân gian mới có cách nói “chuột gieo quẻ”, nếu bị chuột cắn vào tóc thì là điềm lành, còn nếu bị nó gặm chân hoặc giày tất thì là điềm dữ…”
Nhị Học Sinh thấy Tư Mã Khôi nói vậy, hốt hoảng hỏi lại: “Chết rồi, tôi vừa bị con chuột cắn vào giày, nghĩa là tôi sắp gặp vận đen rồi à?”
Cao Tư Dương nói: “Chỉ có anh mới tin bọn họ nói xằng, không khéo trong thành cổ còn có vô số chuột khổng lồ, nhân cơ hội này thiêu sạch chúng cho sớm!”.
Tư Mã Khôi nói: “Tôi không nói xằng, có thể chuyện chuột gieo quẻ chỉ là lời đồn, nhưng loài chuột rất gần gũi với con người, chỉ chờ người đi ngủ là chúng bắt đầu hoạt động, bởi vậy chuyện quái dị quanh chúng cũng không ít. Bọn chúng là loài có tinh thần cảnh giác cao độ bậc nhất, rất am tường việc đón cát tránh hung”, nói rồi Tư Mã Khôi lấy đuốc soi khắp bốn phía xung quanh, anh nhìn chằm chằm vào hướng di chuyển của lũ chuột trong Tử thành.
Cao Tư Dương thấy Tư Mã Khôi tập trung tinh thần cao độ mà không hiểu anh đang nhìn gì, cô nhỏ giọng hỏi Thắng Hương Lân: “Gã này hơi ấm đầu thì phải, không lẽ anh ta cho rằng người chết trong thành cổ đều biến thành chuột chắc?”
Thắng Hương Lân nói: “Có lẽ anh ấy thấy nấm mọc trong Tử thành hơi kỳ quái, tuy chuột ở đây rất nhiều, nhưng dường như chúng luôn tránh những cây nấm, chứ không dám ăn, có lẽ trong nấm chứa chất kịch độc, mọi người cũng tuyệt đối không được chạm vào nó đấy nhé!”
Tư Mã Khôi gật đầu bảo: “Đó chỉ là một nguyên nhân, ngoài ra, mọi người còn chuẩn bị tâm lý trước, quan sát kỹ những vách tường thành mọc nấm độc”.
Mọi người không hiểu ý, liền soi lửa đuốc vào bức tường đá, giương mắt nhìn suốt hồi lâu, nhưng không phát hiện ra có điểm gì khác thường.
Tư Mã Khôi xua tay nói: “Mọi người có nhìn thấy gì cũng đừng sợ hãi, ai nhát gan thì tốt nhất chớ có nhìn!”
Những thành viên còn lại càng nghe càng ù ù cạc cạc không hiểu, mọi người lui lại mấy bước, bấm đèn quặng chĩa về phía vách tường, khi đã định thần nhìn lại thì ai nấy đều kinh hãi tột độ, mồ hôi vã ra như tắm. Vách tường lồi lõm với vô số hốc lớn nhỏ, chẳng ngờ các vết tích ấy đều là đầu lâu, mọi người giật thót mình, trong thành đắp đống vô số thi hài của người Bái Xà, giờ đây tầng tầng lớp lớp xương khô đã trở thành hóa thạch, điều lạ lùng là làm sao những cây nấm này lại mọc ra từ miệng của đầu lâu?
Hải ngọng ra vẻ hiểu biết, kể mình từng đến núi Bạch Sơn đỉnh Hưng An Lĩnh, gặp vô số loại nấm với đủ hình thù kì quái, hình như loại nấm này có tên “nấm thi khẩu”, nghĩa là nấm miệng người chết, sở dĩ có tên này là vì chúng chỉ mọc trong miệng người chết. Nghe mấy tên đi đào nhân sâm kể lại, những người này lúc còn sống thường ăn nhân sâm ngàn năm, nên sau khi chết đi chân khí không tiêu tan mà từ từ cô đọng lại thành cây nấm, loại nấm này vô cùng quý giá, người sống ăn vào có thể kéo dài tuổi thọ, nếu trong quá trình phá quan tài cải táng; hoặc đào huyệt mộ ngẫu nhiên phát hiện thấy một cây nấm thì bọn trộm mộ sẽ thi nhau tranh cướp, nhưng loại nấm này nếu chạm phải tay người là lập tức hóa thành nước đen, có đào lên cũng không cách nào bảo quản, không những vậy bàn tay chạm vào cây nấm lập tức bị tê dại.
Tư Mã Khôi am hiểu thuật tướng vật, vừa nghe Hải ngọng nói đã biết là bốc phét, con người sau khi chết đi làm gì còn chân khí, những cây nấm này chắc chắn được hình thành do tử khí trong địa động ngưng tụ lại, chất độc của nó thuộc hàng kịch độc, chỉ cần ngắt ra, ngâm vào trong nước sẽ thấy hàng ngàn hàng vạn trùng đầu đỏ mõm đen thi nhau bơi lội, tuy bây giờ chúng đều đã hóa thạch, nhưng lũ chuột vẫn không dám đến gần, điều đó chứng tỏ chất độc vẫn chưa tan hẳn.
Lúc này, bọn chuột trong khe nứt lòng núi túa ra ngày một nhiều, con nào con nấy da đen trùi trũi, mình không một sợi lông, rồi một con chuột khổng lồ cũng chui ra, nó to gấp mấy lần đồng loại, lông loang lổ khắp toàn thân, trắng như khối tuyết, nó đái són suốt dọc đường đi, mỗi giọt lại biến thành một con chuột.
Mọi người nhìn cảnh tượng ấy mà dựng tóc gáy, Thắng Hương Lân thì thầm: “Chuột chúa ra rồi kìa!”
Cao Tư Dương sợ hãi, mặt trắng bệch, giương súng Winchester ngắm vào con chuột khổng lồ, định bóp cò.
Tư Mã Khôi ấn cánh tay của Cao Tư Dương, rồi nói: “Đừng lãng phí đạn! Lũ này mà bao vây, thì lửa đuốc không đủ sức ngăn cản bọn chúng đâu, bọn chúng sẽ gặm chúng ta thành đống xương ngay tức thì, hơn nữa mùi tanh của máu chuột chết sẽ lôi kéo càng nhiều đồng loại của nó đến, bọn chuột rất sợ nấm độc trong Tử thành, mọi người chỉ cần đi phía trong hàng nấm độc là được”.
Mọi người lập tức giơ đuốc xua đuổi lũ chuột, bước vào trong, tiến dần vào động đạo. Tuy lũ chuột rất nuối tiếc hơi khí của người sống, nhưng lại bị nấm độc chặn ở ngoài, nên không dám liều chết vượt qua.
Hải ngọng bật đèn quặng đi trước mở đường. Càng vào sâu bên trong, xương khô trong động đạo càng nhiều, che lấp cả phù điêu khắc trên vách đá và tượng thần, tuy địa thế ở đây khá rộng rãi, nhưng không khí không lưu thông khiến người ta cảm thấy vô cùng khó thở, ánh sáng chỉ có thể soi sáng trong vòng mười bước chân. Lúc này, bên tai vang lên tiếng tim đập thình thịch và tiếng thở nặng nề của mọi người, ngoài ra hoàn toàn không còn bất kỳ âm thanh nào khác. Ai cũng thấp thỏm lo sợ, cố gắng bám sát nhau vì sợ mình bị rớt khỏi đội.
Vách ngoài của Tử thành hình tròn, nếu căn cứ vào đường nét tô tem trong bụng thần Vũ Xà để phán đoán, thì trong thành cổ có rất nhiều đường hầm bằng đá macma, thông đạo mà mọi người đang đi chỉ là một trong số đó. Giữa đường có các huyệt động lớn, trên vách tường khắc chi chít những bức phù điêu hoa văn uốn lượn, nhưng tuyệt không thấy một bộ xương khô nào. Tư Mã Khôi dừng bước, lại gần một thảm rêu, quan sát kỹ hồi lâu, anh nhận thấy phần lớn trên vách tường đều khắc hình một vị vương gia đầu đội trang sức bằng vàng, người ta cố ý nhào nặn ông ta thành hóa thân nửa người phàm trần, nửa thần tiên, rõ ràng địa vị của ông ta còn kém thần Vũ Xà một bậc.
Nhị Học Sinh cố gắng lắm mới không bị rớt lại phía sau, nhân lúc Tư Mã Khôi dừng lại xem xét, cậu ta ném ba lô và đèn chiếu nặng trịch xuống đất, ngồi thở hổn hển.
Hải ngọng càm ràm với Tư Mã Khôi: “Tớ thấy loại hàng phế phẩm kia chỉ tổ vướng chân bọn mình, cậu muốn để chim sẻ bay kịp chim yến thì chí ít ra nó cũng phải là chim đã chứ”.
Tư Mã Khôi nói: “Cậu đừng cằn nhằn nữa, có sức thì cậu cõng cậu ta đi! Tớ cũng chẳng kỳ vọng cậu ta sửa được cái đèn chiếu”.
Cao Tư Dương lo bọn chuột đói đuổi theo vào thành cổ, cô nói: “Trong này không có tấm bia của người Bái Xà, cũng không tiện lưu lại lâu, chúng ta mau đi thôi!”.
Tư Mã Khôi không dám nấn ná ở lại, anh kẻo Nhị Học Sinh đang ngồi bệt trên mặt đất đứng dậy, chuẩn bị tiếp tục cuộc hành trình. Nhưng đúng lúc đó, Thắng Hương Lân ngước nhìn bức phù điêu trên vách tường, rồi nói: “Đợi chút! Tôi đã biết vì sao người ta không được phép nhìn, cũng không được phép nói về bí mật khắc trên tấm bia đá của người Bái Xà rồi!”
Danh sách chương