Hai đêm sau đó, trời mưa liên tiếp. Phần vì trờimưa, không mấy người đi chợ, phần vì có lệnh của thôn bộ Việt Minh cấm họp chợđêm, đề phòng bọn Việt gian trà trộn vào xã không kiểm tra được, nên xóm chợNgã Ba kênh vào lúc vừa quá đỏ đèn đã trở nên buồn thỉu buồn thiu.
Chỉcòn quán cà phê dưới tàn cây bã đậu, mấy tiệm hủ tiếu của người Hoa Kiều ở chỗdãy phố ngói nằm bên trong chợ ngó ra kênh và quán dì Tư Béo là có ánh đèn, lácdác bóng người lui tới.
Chợchỉ đông ban ngày, nhưng người cũng chỉ nhóm họp lưa thưa. Nhiều gia đình đãrục rịch tản cư xuống Thới Bình. Mấy hôm trước, những lúc trời im gió, dừng ởbờ kênh có thể nghe tiếng trầm trầm của súng đại bác bắn từ xa. Sáng nay, nhiềungười còn nghe cả tiếng súng đại liên của tàu giặc ở hướng Ngã Năm. Dì Tư Béođóng cửa quán, nghỉ một ngày để thu vén công nợ, đi đòi các món tiền rượu chịucủa người quanh xóm.
Buổitrưa rảnh rỗi, tôi cũng mò vào chợ chơi, nghe ngóng tình hình. Phòng thông tintrước kia là nơi tụ họp đông người nhất. Vậy mà hôm nay cũng chẳng có mấy ngườivào xem tin tức, bởi vì toàn những in tức cũ. Một đôi dòng tin mới, viết taydán vội lên đó thì cũng chẳng hơn gì sự hiểu biết của mọi người, chẳng đáng lưuý và hấp dẫn bằng những tin đồn nhảm vô căn cứ, thậm chí nhiều khi còn vô lýnữa kia. Lực lượng phòng thủ của ta thế nào? Ngày mai rồi sẽ ra sao? Phần đôngngười ta đến đó để tự đặt ra những câu hỏi và tự nghĩ ra những câu trả lời. Bọncon gái bưng cả những rổ quả mãng cầu xiêm, vác cả những bó mía vào đựng trongphòng thông tin để ngồi bán. Chúng nó chơi đánh chuyền chuyền hoặc róc mía xảbừa bãi, la hét, cãi nhau om tỏi mà cũng chẳng ai rầy la gì. Tôi ngán ngẩm quá,bỏ phòng thông tin lững thững đi dọc ra bờ kênh. chợt thấy lão Ba Ngù đứng dướigốc cây bã đậu to nhất Ở gần mé nước, tôi bèn men đến.
- Bácvề từ bao giờ đó? - tôi hỏi cho có hỏi, chứ đã nghe dì Tư Béo nói đêm qua vớicon mụ vợ Tư mắm rằng lão về từ chiều.
-Về từ lúc về ấy! lão cười khà khà đáp giọng đã có chén. - Còn mày, bà chủ củamày bữa nay đi đâu mày sút xiềng (xiềng = dây xích, ý nói thoát khỏi ) dạo chơiđó.
- Bà đi đòi nợ. Đâu như tối mới về...
- Vô nhà lão đi ăn thịt rắn một bữa chơi đi!
-Rắn đâu mà ăn? Bác bắt được rắn à? - tôi hỏi vậy, chứ nghe nói thịt rắn là tôiđã lạnh xương sống rồi.
-Rắn kia chứ đâu, mậy. - Lão vỗ một cái vào lưng tôi, trỏ ra kênh: - Ghe chở rắndưới U Minh vừa lên đấy? Tôi trông theo ngón tay lão chỉ. Một chiếcthuyền nhỏ, mui lá, đang đè sóng rẽ vào bờ. Trước mũi thuyền, một thằng bé trạcmười bốn mười lăm tuổi, mặc quần đùi, cởi trần đứng dún hai chân, hai tay cầmcây sào dài chống xuống nước. Bên chân thằng bé có con chó săn, sắc lông màutro, đang chồm lên chồm xuống, đuôi ngoắt qua ngoắt lại, hóng mõm lên bờ. Đằngsau lái, một ông cụ già cao to, vạm vỡ, chít khăn đầu rìu màu đỏ, áo bà ba đenthả cúc, vạt áo bay phần phật, đang nghiêng người quạt mái chèo đưa thuyền cậpbến.
- Rắn ăn được sao? - tôi hỏi lão Ba Ngù.
- Trời ơi, thằng này ná quá (khờ quá)! Chưa ăn bao giờ à? Thịt rắn ngon và bổ sốmột đấy. Con nít ở đây đều nếm mùi thịt rắn từ hồi còn trong bụng mẹ.
-Cháu chưa ăn lần nào?
-Ngon tuyệt Ngon tuyệt! Rắn hổ đất nấu cháo đậu xanh nước cốt dừa thì biết nhá?Già bảy mươi tuổi ăn món ấy thấy trẻ tráng ra như con trai mười bảy. Sơ sài thìrắn nhóc rắn bông súng uớp xì dầu, cặp gắp nguyên cả con mà nướng, bẻ từng khúccầm tay xé ra chấm muối ớt nhậu. Thịt ngọt không gì bằng. Cầu kỳ thì rắn hổđất, mèo mun chưng thuốc bắc, gọi là "long hổ hội". Thường thường thìhoặc băm xào sả ớt, hoặc nấu ca- ri nước dừa... Khối cách ăn. Nhưng gì thì gì,cũng không bằng nấu cháo. Món phổ thông nhất mà. Vừa bổ lại vừa mát.
- Nướng thì còn thơm, chứ nấu cháo không tanh sao,bác?
-Ăn rồi mới biết, thịt rắn thơm như thịt gà, lại giòn dai, không bở như thịt gà.Có phải nấu suông đâu mà tanh? Này nhé, làm lông (lột da) xong, chặt khúc thảvào nồi cháo luộc lấy nước ngọt. Rồi mình gắp ra chứ. rồi mình xé nhỏ ra, bămnhỏ ướp hành tỏi, hạt tiêu, nước mắm. Rồi mình bắc chảo mỡ cho sôi. lên, thảtỏi vào. ấy, bấy giờ mình mới xào hắn ta! Xong, mình mới múc cháo ra bát, rồimình xúc hắn ra, mình cho vào cháo khoắng khoắng mấy cái... Rồi mình rắc lênmột ít hạt tiêu... E hèm! E hèm... Thôi, mày sẽ khắc biết thôi. Ghe đã cập bờrồi kia!.
- Ra xem rắn, chúng mày ơi? - một giọng trẻ conbỗng hô hoán lên...
Tôinghe tiếng quen quen, quay lại đã thấy thằng bé lùn lùn béo ục ịch đang dắt mộtđám trẻ con chạy băng qua sân chợ, lao xuống bến.
- Chào ông bạn già? Có con rắn hổ nào không? - LãoBa Ngù vẫy tay hỏi.
Ôngcụ già chít khăn đầu rìu màu đỏ đã đứng trước mũi thuyền. Nghe hỏi, ông liềnđáp, giọng sang sảng:
- Kỳnày không có. Toàn rắn rằn ri cóc, rằn ri cá không thôi. Nhưng được cái rắn béolắm? - đáp xong, ông bảo thằng bé cầm sào ban nãy: - Cò ơi! Lấy cái giỏ bự racho tía (cha, ba, bố ) đi con.
Thằngbé chui vô mui, đẩy hai cái giỏ tre ra khoang trước ông già dặng hắng mộttiếng, xắn tay áo, hé sạp thuyền bỏ tay trần vào khoắng. Bọn trẻ nhỏ tức thờikêu lên: "Eo ôi?" và xô nhau lùi lại, vừa lùi vừa tranh nhau ngỏng cổnhòm tới.
Ôngcụ già thong thả lôi từ trong khoang ra từng con rắn một, bỏ vào giỏ. Con nàocon nấy to cỡ bắp tay ông. Có một con rắn gì to như bắp chân người lớn nó cứrúc vào khoang, khiến ông phải khom lưng thò tay vào, nắm cổ nó trì một lúc mớikéo ra được.
-Ông già có bùa, tụi bay ơi.
-Ối có con rắn quấn cánh tay ổng kia kìa!
-Khéo nó cắn, ông ơi?.
- Rắn người ta khâu miệng cả rồi. Cắn quái gì!
Bọntrẻ nhỏ chồm lên chồm xuống theo từng động tác cánh tay lôi của ông cụ già. Cóđứa bì bõm lội xuống nước ngập ngang đầu gối, đứng ngó vào trong. Có đứa mặttái xanh tái xám vì sợ, nhưng vẫn thích xem, cứ nhấp nha nhấp nhổm giẫm bùnsùng sục ở chỗ mé nước.
Khiông già bậm môi nâng cái giỏ nặng trịch vác lên vai thì con chó săn lập tứcphóng một cái, nhảy lên bờ.
Bọntrẻ con chạy dạt ra hai bên, làm nước bắn tung tóe. ông già lần lượt vác cả haicái giỏ to tướng lên bến, đặt xuống gốc một cây bã đậu.
Nhữngngười mua đã trực sẵn chung quanh. Ai trỏ con rắn nào, ông già thò tay vào giỏbắt ra con rắn ấy. Nói bao nhiêu tiền, họ trả bấy nhiêu, không kì kèo ngã giá nhưkiểu người ở các chợ tỉnh. Mỗi con rắn bán xong được siết chặt cổ bằng một sợilạt và trao cho người mua xách về.
LãoBa Ngù chọn mãi mới mua được một con ưng ý. Chao ôi, nom con rắn mà kinh? Bụngdẹt to cỡ bắp vế, không dài lắm, non mét ruỡi thôi, mà cái đầu thì bé như mộtquả bàng khô. Lão hất con rắn nằm vắt ra sau gáy, một tay bóp ngang cổ, một taynắm gần chót đuôi đưa tới trước. Con rắn gồng mình nổi vảy lên chơm chớm nhưgai mít, sống lưng uốn qua uốn lại trên vai lão Ba Ngù, khiến tôi phát khiếp...
- Đi? Theo lão về nhà làm bữa cháo cho biết! - lãonhướng mắt bảo tôi.
- Để lúc khác bác ạ? Bữa nay cháu bận trông quáncho dì Tư... tôi kiếm cớ thoái thác.
-Hê Hê! Mày trông cái chợ thì có, chứ trông gì quán!
- Thôi,không thích ăn thì thôi. Không ai ép mày? - lão bước đi mấy bước còn quay lạinhìn tôi, cười khà khà: - Chỉ lo chừng mày quen mùi rồi, không đợi mời, màycũng xách bát xách đũa chạy tới thôi!
Tôitrở về quán nuốt vội ba hột cơm nguội, xem chừng cốc bát đĩa có suy suyển mónnào không, rồi quơ cái áo vét tông khoác vào người, đóng cửa quay ra chợ.
Tròiđã xế. Mặt trời đã xuống ngang ngọn cây tràm bên kia bờ kênh. Ông cụ già bánrắn vẫn còn ngồi dưới gốc cây bã đậu, tán lá xanh um ngả bóng đen trên mặt đấtBọn con nít ban sáng bây giờ cũng không thiếu mặt đứa nào, đâu như còn có thêmmấy thằng mới tới. Chúng chen nhau ngồi trước hai giỏ rắn, mặt mày nhem nhuốc, đỏlơ đỏ lửng vì bêu nắng, vì mồ hôi và bụi bặm. Đứa thì khoanh tay lên gối, dánmắt vào những con vật bò sát kinh tởm đang ló đầu ra mắt giỏ, đứa thì cãi nhau,tiếng nói tiếng cười chí chóe.
Ôngcụ già vẫn ngồi đó, tay chậm rãi nhồi thuốc lá vào nỏ tẩu: cán tẩu vừa dài vừaquăn queo trông rất lạ.
Gươngmặt ông khoáng đạt, rất dễ mến. Làn da rám nắng hun hun màu đất thó vẫn còncăng ra như da mặt người trẻ, chỉ đôi khóe mắt và trên vầng trán cao là có xếpmấy đường nhăn. Râu ông không dày lắm, nhưng chắc như rễ tre và đen nhánh. Đôimắt to, sáng quắc, núp dưới cặp chân mày rậm đen. Khi ông cắn tẩu thuốc vàomồm, môi dưới hơi trễ ra, méo xệch một bên vì khối nặng của cái tẩu hình thù kỳdị và hơi to quá cỡ, thì trông ông như có vẻ dữ tợn.
Tôingồi sát vào gốc cây, bên ông cụ già lực lượng ấy. Bộ quần áo bà ba đen đã bạcthếch vì dãi dầu nắng mưa sương gió của ông còn mang nguyên mùi hăng hăng của lácỏ cây rừng tận những vùng đất hoang sơ, và mùi khói nồng lửa bếp trong chiếcthuyền con lưu động.
Thấytôi mới tới, thằng bé lùn lùn béo ục ịch hất hàm nháy mắt tôi, rồi ngó vào giỏrắn:
-Sợ không?
Tôi cười, không đáp. Nói sợ thì nó chê mình nhát,mà nói không thì không đúng.
-Ê, nó sợ rồi tụi bay ơi! - một đứa lập tức kêu lên.
Hìnhnhư ông cụ già không biết có đám trẻ nhỏ ngồi chung quanh. Đôi mắt to, đennhánh đăm đăm nhìn vào khoảng không trước mặt. Không biết ông đang nghĩ gì.
Bọntrẻ nhỏ thấy ông dễ dãi, không rầy la gì, và nhân có tôi mới tới, chúng muốn tỏra bạo dạn hơn nên càng nghịch tợn. Chúng nheo mắt, thè lưỡi, có đứa con giả vờtoan thò tay vào giỏ lôi rắn ra để ném vào tôi. Mỗi lần có đứa trẻ nào nhíchlại gần giờ rắn thì con chó săn nằm bên chân chủ lại nhổm dậy, vươn cổ ra nherăng gừ gừ. mấy tiếng. Rắn quấn nhau trong giỏ nằm im nhưng nghe tiếng chó gừ,những con rắn đang ló đầu ra mắt giỏ vội giật mình rụt vào, uốn éo cựa quậy làmcho rắn lớn, rắn bé trong giỏ chuyển lung tung. Mấy đứa lì lợm nhất, cởi trầntruồng ngồi chầu hẫu gần bên giỏ rắn, liền co chân bật ngửa ra sau. Chúng nócười hí hí một cách khoái trá. Nhưng cũng có đứa ngồi ở xa hơn lại mếu máo muốnkhóc. Thằng bé lùn lùn béo ục ịch cầm cái que nhổm tới nhổm lui, quơ quơ ra bộsắp chọc vào giỏ. Con chó săn lại vươn cổ ra gừ...gừ... mấy tiếng.
Lácđác có vài chiếc xuồng cập bến, họp buổi chợ chiều. Năm ba người đàn ông cởitrần, áo vắt vai từ trong dãy tiệm đi men ra, dừng lại dưới bóng cây bóng mát.
Trờioi quá! Chiều rồi mà nắng vẫn chói chang. Không một làn gió động. Những chiếclá bã đậu như dán chặt lên nền trời, tôi ngửa cổ nhìn lên đến mờ mắt vẫn khôngtìm ra một chót lá nào nhúc nhích.
-Tàu bay bà con ơi - một người đàn ông bỗng hốt hoảng kêu lên, nhón nhắc ngóngchung quanh.
- Im? Để nghe coi nào! Im nghe chứ.
Mọi người nín lặng. ông cụ già bán rắn nhấccái tẩu thuốc ra khỏi miệng, ngó xuống chân, cười mủm mỉm.
Tiếng vu vu của một con ong bầu đít vàng baytrong vòm nhánh lá rậm rịt, nghe hệt tiếng máy bay.
- Mồ tổ con ong. Làm người ta giật mình -người đàn ông kêu lên ban nãy nhăn nhó nói một câu chữa thẹn.
Từ hướng biển Đông dậy lên những tiếng ầm...ầm... nối nhau, nghe rung rinh cả chân trời.
- Chắc là tàu giặc, bà con ơi!
- In như máy bay ném bomchứ!
- Mình nghe giống tiếngsấm...
- Để nghe mà... Làm gì mà oà lên như giặc tớivậy?
Mấy người đàn ông cãi nhau một chốc rồi kẻngồi xuống gốc cây cầm áo quạt phe phẩy, người đi tới đi lui trong bóng râmhừng hực hơi bóng từ mặt đất xông lên, lặng lẽ không nói gì nữa. Thằng bé lùnbéo ục ịch bỗng nhổm dậy.
- Tàu giặc, các chú ơi?Nghe ì... ì... đấy.
- Thằng con nít, đừng có nói bậy. Bộ mày ởngoải vô sao mà nói đó là tàu? - người đàn ông tóc chơm chởm như gai trừng mắtquát.
Raà... ầ ầm? Rầm...? Rầm.:: Rầm... ầ... ầm!Bốn tiếng nổ bất thần nghe điếc tai. Những tiếng nổ chát óc, rền rền như tiếngsúng đại bác, gần làm. Đám con nít thét lên, cắm cổ chạy túa đi. Mấy người đànông kia, có người cũng quýnh quáng toan chạy, nhưng cũng có người vẫn đứng yênnghe ngóng. Tôi quen tiếng súng tiếng bom từ mấy tháng nay, nên chỉ co ngườithụp xuống; khi dứt tiếng nổ, tôi liền đứng lên quan sát chung quanh. Nếu đó làsúng giặc bắn vào thì cũng phải trầm tĩnh xem chúng tới từ hướng nào rồi hẵngchạy tránh chứ.
Dưới kênh, thuyền xuồng tranh nhau tách bến,giầm chèo va khua lộp cộp. Một vài chiếc tam bản nhẹ hai chèo đã rời đi xa lắc.
Ông cụ già bán rắn vẫn ngồi đó, phì phèo tẩuthuốc lá mặt bình thản như không. ông đưa mắt nhìn lên nền trời rồi hỏi tôi:
- Cháu không về nhà à?
-Cháu ở gần đây thôi. Đấy, chỗ cái quán đấy!
Tôiđáp, giọng vui vui,bụng có hơi rạo rực một chút vì thấy ông già chú ý tới mình.ông cụ già thong thả đứng dậy, búng tay bóc... boóc mấy cái. Con chó săn ve vẩyđuôi, chồm hai chân trước lên sủa oang oang, vụt lao đi như một mũi tên. Mộtlúc sau, con chó quay về dắt theo thằng bé cầm sào chống trước mũi thuyền bansáng.
-Tìm được chú Võ Tòng không? - Ông già hỏi.
- Ngườira bảo chú đi rồi. Đêm qua trời mưa, có con beo vào bắt gà dưới xóm Sậy, chú VõTòng rình bắn được. Đâu như chú chở con beo ra bán ngoài Ngã Bảy.
Tôiđã toan về, nhưng nghe thằng bé nói vậy bèn dừng nán lại, nghe hai cha con tròchuyện.
-Cò à, khiêng giỏ xuống ghe đi con.
-Không bán nữa sao, tía?
-Thôi. Khiêng đi...
- Tây tới gần rồi sao, tía?
-Tây đâu mà Tây. Dông sắp tới rồi. Dông lớn lắm đây con!
-Lúc này có tiếng sét nổ trên không, kinh quá hở tía.
-Ừ, thôi nhanh nhanh lên, con.
Lúc bấy giờ, gió bắt đầu thổi rao rao nghe mátmát.
Conchó săn đã phóng xuống thuyền, đứng sau lái ngóc mõm lên nhìn trời. Cha con ôngcụ bán rắn vừa kịp khiêng hai chiếc giỏ xuống thuyền thì cơn giông ùn ùn thốctới. Mây ở đây từ dưới rừng xa, lúc nãy còn không trông thấy, giờ đã đùn lênđen sì như núi, bao trùm gần kín khắp bầu trời. Từng cuộn mây khói đen là là hạthấp xuống mặt kênh làm tối sầm những ngọn sóng đang bắt đầu gào thét, chồmchồm tung bọt trắng xóa. Từng đàn cò bay vùn vụt theo mây, ngửa mặt trông theogần như không trông kịp. Xóm chợ Ngã Ba Kênh dường như bé lại thu mình cúi rạpxuống mặt đất. Mấy chiếc xuồng ba lá, mấy chiếc tam bản của ngườl trên phố buộcdưới chân cầu nước trồi lên hụp xuống theo lượn sóng nhào, dựng mũi ngóc lênnhư ngựa muốn bứt dây cương.
Chiếcthuyền chở rắn của cha con ông già đã chèo giạt sang bên kia bờ, xuôi xuống mộtquãng xa, lắc lư chui vào một con kênh nhỏ, hai bên bờ mọc chen chúc những câytràm vỏ trắng, cành lá rậm rạp.
Tôitoan chạy đi thì chợt thấy dưới gốc cây bã đậu có một chiếc túi da beo. Thôi,đúng là của ông già bỏ quên đây rồi. Tôi chộp lấy, cắm cổ phóng theo bờ kênh,vừa hú vừa ngoắt sang bên bờ bên kia. Không ai nghe tiếng tôi hú gọi cả. Gióthổi ầm ầm ù ù như có hàng nghìn chiếc cối xay lúa khổng lồ đang quay thẳngcánh trên trời. Bờ kênh chỗ tôi đứng trống huếch trống hoác không một lùm câybụi cỏ. Nhiều lúc, tôi có cảm giác như gió sắp nhấc bổng tôi lên, thổi tung đi.Dãy phố ngó ra mặt kênh chuyển mình nghe răng rắc, cột gỗ hàng hiên lay lay nhưđưa theo một chiếc võng vô hình. Ngói bị cuốn tung lên, bay khua lảng cảng trênnóc nhà nhiều nghe đến phát sợ.
Khôngvề đến quán kịp nữa rồi. Tôi vừa thở vừa khom người chạy vào cái miếu cô hồnnằm xê xế phía dưới chợ, chỗ cây đa cổ thụ cành lá rậm xùm xòa đang quằn lênvật xuống như sóng. Trời đất mỗi lúc một tối sầm lại. Vũ trụ quay cuồng trongcơn gió mãnh hệt. Những tia chớp xé rạch bầu trời đen kịt phát ra những tiếngnổ kinh thiên động địa chung quanh ngôi miếu. Tôi thu người lại như một contrút, ngồi sát vào chân bệ thờ. Tường miếu xây bằng đá tổ ong, mái lợp ngóitrát vữa rất chắc nhưng tôi bắt đầu cảm thấy không an toàn chút nào. Chà, giữalúc trời sét mà lại dại dột tìm chỗ trú ẩn ngay dưới một gốc cây to Tôi vốnghét những chuyện hoang đường quái đản, không bao giờ tin rằng có ma qủy, nhưngkhông hiểu sao trong giờ phút này bỗng thấy trong người rờn rợn. Pho tượng"ông Tiêu" (Thần quản lý ma quỷ) mặt vằn vện, đầu mọc ba cái sừng,chiếc lưỡi thè dài quá rốn, đứng ngay trên đầu tôi. Mỗi lần trời chớp, tôi đềungửa mặt nhìn lên pho tượng với một nỗi lo sợ và tò mò không cưỡng được.
Tôidặng hắng một tiếng rõ to, phủi đít đứng dậy bước ra ngồi ngay ở cửa miếu. Mộtvài hạt mưa bay chéo hắt vào mặt tôi lạnh buốt như nước đá. Bầy kiến đất bò rabò vào cạnh chân tôi chúng quơ râu trò chuyện với nhau một cách bình thản, lạicòn rủ nhau lũ lượt bò ra ngoài thềm miếu nữa chứ không cuống cuồng chạy rúcvào tôi như những khi trời sắp mưa to.
Cáitúi da beo đựng vật gì hơi nặng thì phải. Hình như một con dao, bởi cái sừng lóra ngoài cồm cộm thúc vào hông tôi. "Thử mở ra coi cái gì trong này?"Tôi vừa nghĩ thế, bỗng nghe từ trong lòng mình văng vẳng có tiếng bảo:"Đừng động chạm đến của cải của người ta. Tò mò vậy không tốt đâu!"Tôi ngồi im một lúc, bàn tay ngứa ngáy không chịu yên lại nắn nắn cái túi. Bâygiờ tôi lại nghe tiếng văng vẳng ban nãy cùng phụ họa theo ý nghĩ của tôi:"Xem chút thôi mà! Vả chăng, mình có ý định lấy gì trong túi nàyđâu!" Thế là cái túi da beo mà tôi đã nhét nửa trong nửa ngoài vào túi áovét-tông, tự nãy giờ còn nằm yên đã bị bàn tay tôi lôi phăng ra tức khắc.
A! Cái dao găm!
Tôichợt kêu khe khẽ và từ từ rút lưỡi dao ra khỏi chiếc da bao láng bóng vì đẫm mồhôi người lâu năm ánh thép xanh xanh của lưỡi dao sắc như nước lóa lên mỗi lầntrời chớp. Cán dao bằng sừng, nạm khâu đồng dỏ có chạm hoa văn rất đẹp. Cánbằng sừng gì như sừng nai. "Còn những gì khác nữa trong cái túi bí ẩn này?đằng nào mình cũng đã mở ra rồi. Xem một chút thì có làm sao!"
Sựtò mò náo nức càng thôi thúc tôi hăm hở lật ra. Đây là một gói lưỡi câu đủ cỡ,mươi hai chiếc cả thảy, gói trong một mảnh giấy đầu cỡ bàn tay. Một cục đá vàmột miếng thép dèn dẹt to và dài, hơn mặt bao diêm. Đây nữa là một gói thuốc.Thuốc gì mà dẻo quánh, xin xỉn vàng, mùi hăng hắc, đưa lên mũi ngửi thấy buồnnôn. Tôi bỏ lại vào túi da beo tất cả các thứ linh tinh ấy, chỉ trừ cái daogăm, rồi thắt miệng túi thật chặt bằng sợi dây gân khô quắt và trơn tuột.
Cầmchặt cán dao trong tay, tôi bỗng thấy người mình như cao lớn hắn lên; dường nhưsức khỏe tăng lên vạn bội, tôi nghe mạch máu chạy râm ran trong những đầu ngóntay. Trời chớp nhoáng nhoáng. Tôi thong thả đứng dậy rồi bất thần quảy phắtlại, trừng trừng nhìn vào ngôi miếu. Pho tượng kinh khủng vẫn lặng lẽ đứng trênbệ thờ, lè chiếc lưỡi dài màu máu xuống rốn, bốn chiếc răng nanh trắng lòa nhera như cười.
Mộtlúc sau, gió dụi dần, rồi tắt hẳn. Trên ngọn đa tối sầm mà cơn gió cuồng vừagào rú ghê người ban nãy, mấy con chim chào mào xôn xao chuyền cành nhảy nhót, hótlíu lo. Nắng vàng màu da chanh phủ lên cây cỏ một thứ ánh sáng dịu mắt, trongsuốt và lung linh dương như có thể sờ được.
Tôitrở ra bờ kênh, đi dọc dài theo bến một lúc, hy vọng sẽ gặp lại chiếc thuyềncon của ông cụ giá bán rắn. Nhưng ngóng hoài mà vẫn không thấy tăm dạng chiếcthuyền và cha con ông già đâu cả. Nhìn về nơi tít tắp, chỉ thấy ánh phản quangcủa ráng chiều sắp tắt từ mặt nước dòng kênh hắt lên những lùm bụi ven bờ. Sựcnhớ rằng dì Tư Béo sắp về, tôi bèn gấp buộc trở lại quán dể lo bữa cơm chiều.
Chỉcòn quán cà phê dưới tàn cây bã đậu, mấy tiệm hủ tiếu của người Hoa Kiều ở chỗdãy phố ngói nằm bên trong chợ ngó ra kênh và quán dì Tư Béo là có ánh đèn, lácdác bóng người lui tới.
Chợchỉ đông ban ngày, nhưng người cũng chỉ nhóm họp lưa thưa. Nhiều gia đình đãrục rịch tản cư xuống Thới Bình. Mấy hôm trước, những lúc trời im gió, dừng ởbờ kênh có thể nghe tiếng trầm trầm của súng đại bác bắn từ xa. Sáng nay, nhiềungười còn nghe cả tiếng súng đại liên của tàu giặc ở hướng Ngã Năm. Dì Tư Béođóng cửa quán, nghỉ một ngày để thu vén công nợ, đi đòi các món tiền rượu chịucủa người quanh xóm.
Buổitrưa rảnh rỗi, tôi cũng mò vào chợ chơi, nghe ngóng tình hình. Phòng thông tintrước kia là nơi tụ họp đông người nhất. Vậy mà hôm nay cũng chẳng có mấy ngườivào xem tin tức, bởi vì toàn những in tức cũ. Một đôi dòng tin mới, viết taydán vội lên đó thì cũng chẳng hơn gì sự hiểu biết của mọi người, chẳng đáng lưuý và hấp dẫn bằng những tin đồn nhảm vô căn cứ, thậm chí nhiều khi còn vô lýnữa kia. Lực lượng phòng thủ của ta thế nào? Ngày mai rồi sẽ ra sao? Phần đôngngười ta đến đó để tự đặt ra những câu hỏi và tự nghĩ ra những câu trả lời. Bọncon gái bưng cả những rổ quả mãng cầu xiêm, vác cả những bó mía vào đựng trongphòng thông tin để ngồi bán. Chúng nó chơi đánh chuyền chuyền hoặc róc mía xảbừa bãi, la hét, cãi nhau om tỏi mà cũng chẳng ai rầy la gì. Tôi ngán ngẩm quá,bỏ phòng thông tin lững thững đi dọc ra bờ kênh. chợt thấy lão Ba Ngù đứng dướigốc cây bã đậu to nhất Ở gần mé nước, tôi bèn men đến.
- Bácvề từ bao giờ đó? - tôi hỏi cho có hỏi, chứ đã nghe dì Tư Béo nói đêm qua vớicon mụ vợ Tư mắm rằng lão về từ chiều.
-Về từ lúc về ấy! lão cười khà khà đáp giọng đã có chén. - Còn mày, bà chủ củamày bữa nay đi đâu mày sút xiềng (xiềng = dây xích, ý nói thoát khỏi ) dạo chơiđó.
- Bà đi đòi nợ. Đâu như tối mới về...
- Vô nhà lão đi ăn thịt rắn một bữa chơi đi!
-Rắn đâu mà ăn? Bác bắt được rắn à? - tôi hỏi vậy, chứ nghe nói thịt rắn là tôiđã lạnh xương sống rồi.
-Rắn kia chứ đâu, mậy. - Lão vỗ một cái vào lưng tôi, trỏ ra kênh: - Ghe chở rắndưới U Minh vừa lên đấy? Tôi trông theo ngón tay lão chỉ. Một chiếcthuyền nhỏ, mui lá, đang đè sóng rẽ vào bờ. Trước mũi thuyền, một thằng bé trạcmười bốn mười lăm tuổi, mặc quần đùi, cởi trần đứng dún hai chân, hai tay cầmcây sào dài chống xuống nước. Bên chân thằng bé có con chó săn, sắc lông màutro, đang chồm lên chồm xuống, đuôi ngoắt qua ngoắt lại, hóng mõm lên bờ. Đằngsau lái, một ông cụ già cao to, vạm vỡ, chít khăn đầu rìu màu đỏ, áo bà ba đenthả cúc, vạt áo bay phần phật, đang nghiêng người quạt mái chèo đưa thuyền cậpbến.
- Rắn ăn được sao? - tôi hỏi lão Ba Ngù.
- Trời ơi, thằng này ná quá (khờ quá)! Chưa ăn bao giờ à? Thịt rắn ngon và bổ sốmột đấy. Con nít ở đây đều nếm mùi thịt rắn từ hồi còn trong bụng mẹ.
-Cháu chưa ăn lần nào?
-Ngon tuyệt Ngon tuyệt! Rắn hổ đất nấu cháo đậu xanh nước cốt dừa thì biết nhá?Già bảy mươi tuổi ăn món ấy thấy trẻ tráng ra như con trai mười bảy. Sơ sài thìrắn nhóc rắn bông súng uớp xì dầu, cặp gắp nguyên cả con mà nướng, bẻ từng khúccầm tay xé ra chấm muối ớt nhậu. Thịt ngọt không gì bằng. Cầu kỳ thì rắn hổđất, mèo mun chưng thuốc bắc, gọi là "long hổ hội". Thường thường thìhoặc băm xào sả ớt, hoặc nấu ca- ri nước dừa... Khối cách ăn. Nhưng gì thì gì,cũng không bằng nấu cháo. Món phổ thông nhất mà. Vừa bổ lại vừa mát.
- Nướng thì còn thơm, chứ nấu cháo không tanh sao,bác?
-Ăn rồi mới biết, thịt rắn thơm như thịt gà, lại giòn dai, không bở như thịt gà.Có phải nấu suông đâu mà tanh? Này nhé, làm lông (lột da) xong, chặt khúc thảvào nồi cháo luộc lấy nước ngọt. Rồi mình gắp ra chứ. rồi mình xé nhỏ ra, bămnhỏ ướp hành tỏi, hạt tiêu, nước mắm. Rồi mình bắc chảo mỡ cho sôi. lên, thảtỏi vào. ấy, bấy giờ mình mới xào hắn ta! Xong, mình mới múc cháo ra bát, rồimình xúc hắn ra, mình cho vào cháo khoắng khoắng mấy cái... Rồi mình rắc lênmột ít hạt tiêu... E hèm! E hèm... Thôi, mày sẽ khắc biết thôi. Ghe đã cập bờrồi kia!.
- Ra xem rắn, chúng mày ơi? - một giọng trẻ conbỗng hô hoán lên...
Tôinghe tiếng quen quen, quay lại đã thấy thằng bé lùn lùn béo ục ịch đang dắt mộtđám trẻ con chạy băng qua sân chợ, lao xuống bến.
- Chào ông bạn già? Có con rắn hổ nào không? - LãoBa Ngù vẫy tay hỏi.
Ôngcụ già chít khăn đầu rìu màu đỏ đã đứng trước mũi thuyền. Nghe hỏi, ông liềnđáp, giọng sang sảng:
- Kỳnày không có. Toàn rắn rằn ri cóc, rằn ri cá không thôi. Nhưng được cái rắn béolắm? - đáp xong, ông bảo thằng bé cầm sào ban nãy: - Cò ơi! Lấy cái giỏ bự racho tía (cha, ba, bố ) đi con.
Thằngbé chui vô mui, đẩy hai cái giỏ tre ra khoang trước ông già dặng hắng mộttiếng, xắn tay áo, hé sạp thuyền bỏ tay trần vào khoắng. Bọn trẻ nhỏ tức thờikêu lên: "Eo ôi?" và xô nhau lùi lại, vừa lùi vừa tranh nhau ngỏng cổnhòm tới.
Ôngcụ già thong thả lôi từ trong khoang ra từng con rắn một, bỏ vào giỏ. Con nàocon nấy to cỡ bắp tay ông. Có một con rắn gì to như bắp chân người lớn nó cứrúc vào khoang, khiến ông phải khom lưng thò tay vào, nắm cổ nó trì một lúc mớikéo ra được.
-Ông già có bùa, tụi bay ơi.
-Ối có con rắn quấn cánh tay ổng kia kìa!
-Khéo nó cắn, ông ơi?.
- Rắn người ta khâu miệng cả rồi. Cắn quái gì!
Bọntrẻ nhỏ chồm lên chồm xuống theo từng động tác cánh tay lôi của ông cụ già. Cóđứa bì bõm lội xuống nước ngập ngang đầu gối, đứng ngó vào trong. Có đứa mặttái xanh tái xám vì sợ, nhưng vẫn thích xem, cứ nhấp nha nhấp nhổm giẫm bùnsùng sục ở chỗ mé nước.
Khiông già bậm môi nâng cái giỏ nặng trịch vác lên vai thì con chó săn lập tứcphóng một cái, nhảy lên bờ.
Bọntrẻ con chạy dạt ra hai bên, làm nước bắn tung tóe. ông già lần lượt vác cả haicái giỏ to tướng lên bến, đặt xuống gốc một cây bã đậu.
Nhữngngười mua đã trực sẵn chung quanh. Ai trỏ con rắn nào, ông già thò tay vào giỏbắt ra con rắn ấy. Nói bao nhiêu tiền, họ trả bấy nhiêu, không kì kèo ngã giá nhưkiểu người ở các chợ tỉnh. Mỗi con rắn bán xong được siết chặt cổ bằng một sợilạt và trao cho người mua xách về.
LãoBa Ngù chọn mãi mới mua được một con ưng ý. Chao ôi, nom con rắn mà kinh? Bụngdẹt to cỡ bắp vế, không dài lắm, non mét ruỡi thôi, mà cái đầu thì bé như mộtquả bàng khô. Lão hất con rắn nằm vắt ra sau gáy, một tay bóp ngang cổ, một taynắm gần chót đuôi đưa tới trước. Con rắn gồng mình nổi vảy lên chơm chớm nhưgai mít, sống lưng uốn qua uốn lại trên vai lão Ba Ngù, khiến tôi phát khiếp...
- Đi? Theo lão về nhà làm bữa cháo cho biết! - lãonhướng mắt bảo tôi.
- Để lúc khác bác ạ? Bữa nay cháu bận trông quáncho dì Tư... tôi kiếm cớ thoái thác.
-Hê Hê! Mày trông cái chợ thì có, chứ trông gì quán!
- Thôi,không thích ăn thì thôi. Không ai ép mày? - lão bước đi mấy bước còn quay lạinhìn tôi, cười khà khà: - Chỉ lo chừng mày quen mùi rồi, không đợi mời, màycũng xách bát xách đũa chạy tới thôi!
Tôitrở về quán nuốt vội ba hột cơm nguội, xem chừng cốc bát đĩa có suy suyển mónnào không, rồi quơ cái áo vét tông khoác vào người, đóng cửa quay ra chợ.
Tròiđã xế. Mặt trời đã xuống ngang ngọn cây tràm bên kia bờ kênh. Ông cụ già bánrắn vẫn còn ngồi dưới gốc cây bã đậu, tán lá xanh um ngả bóng đen trên mặt đấtBọn con nít ban sáng bây giờ cũng không thiếu mặt đứa nào, đâu như còn có thêmmấy thằng mới tới. Chúng chen nhau ngồi trước hai giỏ rắn, mặt mày nhem nhuốc, đỏlơ đỏ lửng vì bêu nắng, vì mồ hôi và bụi bặm. Đứa thì khoanh tay lên gối, dánmắt vào những con vật bò sát kinh tởm đang ló đầu ra mắt giỏ, đứa thì cãi nhau,tiếng nói tiếng cười chí chóe.
Ôngcụ già vẫn ngồi đó, tay chậm rãi nhồi thuốc lá vào nỏ tẩu: cán tẩu vừa dài vừaquăn queo trông rất lạ.
Gươngmặt ông khoáng đạt, rất dễ mến. Làn da rám nắng hun hun màu đất thó vẫn còncăng ra như da mặt người trẻ, chỉ đôi khóe mắt và trên vầng trán cao là có xếpmấy đường nhăn. Râu ông không dày lắm, nhưng chắc như rễ tre và đen nhánh. Đôimắt to, sáng quắc, núp dưới cặp chân mày rậm đen. Khi ông cắn tẩu thuốc vàomồm, môi dưới hơi trễ ra, méo xệch một bên vì khối nặng của cái tẩu hình thù kỳdị và hơi to quá cỡ, thì trông ông như có vẻ dữ tợn.
Tôingồi sát vào gốc cây, bên ông cụ già lực lượng ấy. Bộ quần áo bà ba đen đã bạcthếch vì dãi dầu nắng mưa sương gió của ông còn mang nguyên mùi hăng hăng của lácỏ cây rừng tận những vùng đất hoang sơ, và mùi khói nồng lửa bếp trong chiếcthuyền con lưu động.
Thấytôi mới tới, thằng bé lùn lùn béo ục ịch hất hàm nháy mắt tôi, rồi ngó vào giỏrắn:
-Sợ không?
Tôi cười, không đáp. Nói sợ thì nó chê mình nhát,mà nói không thì không đúng.
-Ê, nó sợ rồi tụi bay ơi! - một đứa lập tức kêu lên.
Hìnhnhư ông cụ già không biết có đám trẻ nhỏ ngồi chung quanh. Đôi mắt to, đennhánh đăm đăm nhìn vào khoảng không trước mặt. Không biết ông đang nghĩ gì.
Bọntrẻ nhỏ thấy ông dễ dãi, không rầy la gì, và nhân có tôi mới tới, chúng muốn tỏra bạo dạn hơn nên càng nghịch tợn. Chúng nheo mắt, thè lưỡi, có đứa con giả vờtoan thò tay vào giỏ lôi rắn ra để ném vào tôi. Mỗi lần có đứa trẻ nào nhíchlại gần giờ rắn thì con chó săn nằm bên chân chủ lại nhổm dậy, vươn cổ ra nherăng gừ gừ. mấy tiếng. Rắn quấn nhau trong giỏ nằm im nhưng nghe tiếng chó gừ,những con rắn đang ló đầu ra mắt giỏ vội giật mình rụt vào, uốn éo cựa quậy làmcho rắn lớn, rắn bé trong giỏ chuyển lung tung. Mấy đứa lì lợm nhất, cởi trầntruồng ngồi chầu hẫu gần bên giỏ rắn, liền co chân bật ngửa ra sau. Chúng nócười hí hí một cách khoái trá. Nhưng cũng có đứa ngồi ở xa hơn lại mếu máo muốnkhóc. Thằng bé lùn lùn béo ục ịch cầm cái que nhổm tới nhổm lui, quơ quơ ra bộsắp chọc vào giỏ. Con chó săn lại vươn cổ ra gừ...gừ... mấy tiếng.
Lácđác có vài chiếc xuồng cập bến, họp buổi chợ chiều. Năm ba người đàn ông cởitrần, áo vắt vai từ trong dãy tiệm đi men ra, dừng lại dưới bóng cây bóng mát.
Trờioi quá! Chiều rồi mà nắng vẫn chói chang. Không một làn gió động. Những chiếclá bã đậu như dán chặt lên nền trời, tôi ngửa cổ nhìn lên đến mờ mắt vẫn khôngtìm ra một chót lá nào nhúc nhích.
-Tàu bay bà con ơi - một người đàn ông bỗng hốt hoảng kêu lên, nhón nhắc ngóngchung quanh.
- Im? Để nghe coi nào! Im nghe chứ.
Mọi người nín lặng. ông cụ già bán rắn nhấccái tẩu thuốc ra khỏi miệng, ngó xuống chân, cười mủm mỉm.
Tiếng vu vu của một con ong bầu đít vàng baytrong vòm nhánh lá rậm rịt, nghe hệt tiếng máy bay.
- Mồ tổ con ong. Làm người ta giật mình -người đàn ông kêu lên ban nãy nhăn nhó nói một câu chữa thẹn.
Từ hướng biển Đông dậy lên những tiếng ầm...ầm... nối nhau, nghe rung rinh cả chân trời.
- Chắc là tàu giặc, bà con ơi!
- In như máy bay ném bomchứ!
- Mình nghe giống tiếngsấm...
- Để nghe mà... Làm gì mà oà lên như giặc tớivậy?
Mấy người đàn ông cãi nhau một chốc rồi kẻngồi xuống gốc cây cầm áo quạt phe phẩy, người đi tới đi lui trong bóng râmhừng hực hơi bóng từ mặt đất xông lên, lặng lẽ không nói gì nữa. Thằng bé lùnbéo ục ịch bỗng nhổm dậy.
- Tàu giặc, các chú ơi?Nghe ì... ì... đấy.
- Thằng con nít, đừng có nói bậy. Bộ mày ởngoải vô sao mà nói đó là tàu? - người đàn ông tóc chơm chởm như gai trừng mắtquát.
Raà... ầ ầm? Rầm...? Rầm.:: Rầm... ầ... ầm!Bốn tiếng nổ bất thần nghe điếc tai. Những tiếng nổ chát óc, rền rền như tiếngsúng đại bác, gần làm. Đám con nít thét lên, cắm cổ chạy túa đi. Mấy người đànông kia, có người cũng quýnh quáng toan chạy, nhưng cũng có người vẫn đứng yênnghe ngóng. Tôi quen tiếng súng tiếng bom từ mấy tháng nay, nên chỉ co ngườithụp xuống; khi dứt tiếng nổ, tôi liền đứng lên quan sát chung quanh. Nếu đó làsúng giặc bắn vào thì cũng phải trầm tĩnh xem chúng tới từ hướng nào rồi hẵngchạy tránh chứ.
Dưới kênh, thuyền xuồng tranh nhau tách bến,giầm chèo va khua lộp cộp. Một vài chiếc tam bản nhẹ hai chèo đã rời đi xa lắc.
Ông cụ già bán rắn vẫn ngồi đó, phì phèo tẩuthuốc lá mặt bình thản như không. ông đưa mắt nhìn lên nền trời rồi hỏi tôi:
- Cháu không về nhà à?
-Cháu ở gần đây thôi. Đấy, chỗ cái quán đấy!
Tôiđáp, giọng vui vui,bụng có hơi rạo rực một chút vì thấy ông già chú ý tới mình.ông cụ già thong thả đứng dậy, búng tay bóc... boóc mấy cái. Con chó săn ve vẩyđuôi, chồm hai chân trước lên sủa oang oang, vụt lao đi như một mũi tên. Mộtlúc sau, con chó quay về dắt theo thằng bé cầm sào chống trước mũi thuyền bansáng.
-Tìm được chú Võ Tòng không? - Ông già hỏi.
- Ngườira bảo chú đi rồi. Đêm qua trời mưa, có con beo vào bắt gà dưới xóm Sậy, chú VõTòng rình bắn được. Đâu như chú chở con beo ra bán ngoài Ngã Bảy.
Tôiđã toan về, nhưng nghe thằng bé nói vậy bèn dừng nán lại, nghe hai cha con tròchuyện.
-Cò à, khiêng giỏ xuống ghe đi con.
-Không bán nữa sao, tía?
-Thôi. Khiêng đi...
- Tây tới gần rồi sao, tía?
-Tây đâu mà Tây. Dông sắp tới rồi. Dông lớn lắm đây con!
-Lúc này có tiếng sét nổ trên không, kinh quá hở tía.
-Ừ, thôi nhanh nhanh lên, con.
Lúc bấy giờ, gió bắt đầu thổi rao rao nghe mátmát.
Conchó săn đã phóng xuống thuyền, đứng sau lái ngóc mõm lên nhìn trời. Cha con ôngcụ bán rắn vừa kịp khiêng hai chiếc giỏ xuống thuyền thì cơn giông ùn ùn thốctới. Mây ở đây từ dưới rừng xa, lúc nãy còn không trông thấy, giờ đã đùn lênđen sì như núi, bao trùm gần kín khắp bầu trời. Từng cuộn mây khói đen là là hạthấp xuống mặt kênh làm tối sầm những ngọn sóng đang bắt đầu gào thét, chồmchồm tung bọt trắng xóa. Từng đàn cò bay vùn vụt theo mây, ngửa mặt trông theogần như không trông kịp. Xóm chợ Ngã Ba Kênh dường như bé lại thu mình cúi rạpxuống mặt đất. Mấy chiếc xuồng ba lá, mấy chiếc tam bản của ngườl trên phố buộcdưới chân cầu nước trồi lên hụp xuống theo lượn sóng nhào, dựng mũi ngóc lênnhư ngựa muốn bứt dây cương.
Chiếcthuyền chở rắn của cha con ông già đã chèo giạt sang bên kia bờ, xuôi xuống mộtquãng xa, lắc lư chui vào một con kênh nhỏ, hai bên bờ mọc chen chúc những câytràm vỏ trắng, cành lá rậm rạp.
Tôitoan chạy đi thì chợt thấy dưới gốc cây bã đậu có một chiếc túi da beo. Thôi,đúng là của ông già bỏ quên đây rồi. Tôi chộp lấy, cắm cổ phóng theo bờ kênh,vừa hú vừa ngoắt sang bên bờ bên kia. Không ai nghe tiếng tôi hú gọi cả. Gióthổi ầm ầm ù ù như có hàng nghìn chiếc cối xay lúa khổng lồ đang quay thẳngcánh trên trời. Bờ kênh chỗ tôi đứng trống huếch trống hoác không một lùm câybụi cỏ. Nhiều lúc, tôi có cảm giác như gió sắp nhấc bổng tôi lên, thổi tung đi.Dãy phố ngó ra mặt kênh chuyển mình nghe răng rắc, cột gỗ hàng hiên lay lay nhưđưa theo một chiếc võng vô hình. Ngói bị cuốn tung lên, bay khua lảng cảng trênnóc nhà nhiều nghe đến phát sợ.
Khôngvề đến quán kịp nữa rồi. Tôi vừa thở vừa khom người chạy vào cái miếu cô hồnnằm xê xế phía dưới chợ, chỗ cây đa cổ thụ cành lá rậm xùm xòa đang quằn lênvật xuống như sóng. Trời đất mỗi lúc một tối sầm lại. Vũ trụ quay cuồng trongcơn gió mãnh hệt. Những tia chớp xé rạch bầu trời đen kịt phát ra những tiếngnổ kinh thiên động địa chung quanh ngôi miếu. Tôi thu người lại như một contrút, ngồi sát vào chân bệ thờ. Tường miếu xây bằng đá tổ ong, mái lợp ngóitrát vữa rất chắc nhưng tôi bắt đầu cảm thấy không an toàn chút nào. Chà, giữalúc trời sét mà lại dại dột tìm chỗ trú ẩn ngay dưới một gốc cây to Tôi vốnghét những chuyện hoang đường quái đản, không bao giờ tin rằng có ma qủy, nhưngkhông hiểu sao trong giờ phút này bỗng thấy trong người rờn rợn. Pho tượng"ông Tiêu" (Thần quản lý ma quỷ) mặt vằn vện, đầu mọc ba cái sừng,chiếc lưỡi thè dài quá rốn, đứng ngay trên đầu tôi. Mỗi lần trời chớp, tôi đềungửa mặt nhìn lên pho tượng với một nỗi lo sợ và tò mò không cưỡng được.
Tôidặng hắng một tiếng rõ to, phủi đít đứng dậy bước ra ngồi ngay ở cửa miếu. Mộtvài hạt mưa bay chéo hắt vào mặt tôi lạnh buốt như nước đá. Bầy kiến đất bò rabò vào cạnh chân tôi chúng quơ râu trò chuyện với nhau một cách bình thản, lạicòn rủ nhau lũ lượt bò ra ngoài thềm miếu nữa chứ không cuống cuồng chạy rúcvào tôi như những khi trời sắp mưa to.
Cáitúi da beo đựng vật gì hơi nặng thì phải. Hình như một con dao, bởi cái sừng lóra ngoài cồm cộm thúc vào hông tôi. "Thử mở ra coi cái gì trong này?"Tôi vừa nghĩ thế, bỗng nghe từ trong lòng mình văng vẳng có tiếng bảo:"Đừng động chạm đến của cải của người ta. Tò mò vậy không tốt đâu!"Tôi ngồi im một lúc, bàn tay ngứa ngáy không chịu yên lại nắn nắn cái túi. Bâygiờ tôi lại nghe tiếng văng vẳng ban nãy cùng phụ họa theo ý nghĩ của tôi:"Xem chút thôi mà! Vả chăng, mình có ý định lấy gì trong túi nàyđâu!" Thế là cái túi da beo mà tôi đã nhét nửa trong nửa ngoài vào túi áovét-tông, tự nãy giờ còn nằm yên đã bị bàn tay tôi lôi phăng ra tức khắc.
A! Cái dao găm!
Tôichợt kêu khe khẽ và từ từ rút lưỡi dao ra khỏi chiếc da bao láng bóng vì đẫm mồhôi người lâu năm ánh thép xanh xanh của lưỡi dao sắc như nước lóa lên mỗi lầntrời chớp. Cán dao bằng sừng, nạm khâu đồng dỏ có chạm hoa văn rất đẹp. Cánbằng sừng gì như sừng nai. "Còn những gì khác nữa trong cái túi bí ẩn này?đằng nào mình cũng đã mở ra rồi. Xem một chút thì có làm sao!"
Sựtò mò náo nức càng thôi thúc tôi hăm hở lật ra. Đây là một gói lưỡi câu đủ cỡ,mươi hai chiếc cả thảy, gói trong một mảnh giấy đầu cỡ bàn tay. Một cục đá vàmột miếng thép dèn dẹt to và dài, hơn mặt bao diêm. Đây nữa là một gói thuốc.Thuốc gì mà dẻo quánh, xin xỉn vàng, mùi hăng hắc, đưa lên mũi ngửi thấy buồnnôn. Tôi bỏ lại vào túi da beo tất cả các thứ linh tinh ấy, chỉ trừ cái daogăm, rồi thắt miệng túi thật chặt bằng sợi dây gân khô quắt và trơn tuột.
Cầmchặt cán dao trong tay, tôi bỗng thấy người mình như cao lớn hắn lên; dường nhưsức khỏe tăng lên vạn bội, tôi nghe mạch máu chạy râm ran trong những đầu ngóntay. Trời chớp nhoáng nhoáng. Tôi thong thả đứng dậy rồi bất thần quảy phắtlại, trừng trừng nhìn vào ngôi miếu. Pho tượng kinh khủng vẫn lặng lẽ đứng trênbệ thờ, lè chiếc lưỡi dài màu máu xuống rốn, bốn chiếc răng nanh trắng lòa nhera như cười.
Mộtlúc sau, gió dụi dần, rồi tắt hẳn. Trên ngọn đa tối sầm mà cơn gió cuồng vừagào rú ghê người ban nãy, mấy con chim chào mào xôn xao chuyền cành nhảy nhót, hótlíu lo. Nắng vàng màu da chanh phủ lên cây cỏ một thứ ánh sáng dịu mắt, trongsuốt và lung linh dương như có thể sờ được.
Tôitrở ra bờ kênh, đi dọc dài theo bến một lúc, hy vọng sẽ gặp lại chiếc thuyềncon của ông cụ giá bán rắn. Nhưng ngóng hoài mà vẫn không thấy tăm dạng chiếcthuyền và cha con ông già đâu cả. Nhìn về nơi tít tắp, chỉ thấy ánh phản quangcủa ráng chiều sắp tắt từ mặt nước dòng kênh hắt lên những lùm bụi ven bờ. Sựcnhớ rằng dì Tư Béo sắp về, tôi bèn gấp buộc trở lại quán dể lo bữa cơm chiều.
Danh sách chương