Tôi thường lân la đếnquán dì Tư Béo, bởi lý do mong gặp người quen. Nhưng còn một lẽ khác nữa, là ởđó, tôi có thể nghe đủ mọi thứ chuyện trên đời. Việc gì vừa xảy ra ở bất cứ xóhẻm nào quanh chợ, lập tức trong quán dì Tư Béo mọi ngươi đã biết ngay. Từnhững tin nóng hổi ở mặt trận Vàm Xáng như... "một chiến sĩ ta bị thương,khúc ruột lòi ra, anh lấy tay nhét vào, không rên một tiếng", cho đếnchuyện "ông Tổ sư Bồ đề truyền dạy phép màu cho Tề Thiên Đại Thánh như thếnào... " tôi đều có thể nghe được ở đây.
Đó là một ngôi quán nhỏ xệch xạc, trống trướctrống sau, cất dựa bên bờ kênh dưới bóng một cây gáo cổ thụ.
Mái lá rách thủng lô chỗ, ban ngày nắng soixuống mặt chiếc bàn dài, thả những bóng trứng vịt xuống bên mâm người ngồinhậu, và ban đêm, người ta có thể uống cả một vì sao xanh rơi trong lòng cốc.
Quán rượu dì Tư Béo nối tiếng về thứ rượu tămngọt giọng, phảng phất mùi cháy khê nồi mà không nhà nào cất được, về tài xàonấu các món thịt rừng mà các lão già cũng hay bông phèng đã nức nở khen rằng"nhắm xong một miếng, thấy người phấn hứng, trẻ tráng ra ngay".
Nhiều người tin như vậy. Chứ như tôi, tôinghĩ rằng những người lui tới nơi đây là bởi tự thói quen cố hữu của họ. Mà bàchủ quán vốn là một người đãi bôi xởi lởi, không bao giờ để phật lòng bất cứmột ông khách nào dù khó tính đến đâu. Duy chỉ có một điều mà ai cũng biếtnhưng cũng chẳng ai nói ra, là trong sự dễ dãi hào phóng của bà ta, dù thế nàothì thế, một đồng xu cũng không lọt được qua cánh tay nhờn nhầy bóng mỡ của bà,vì bà không để mình chịu thiệt với ai bao giờ. Chẳng vậy mà một hôm, bà ta đãbảo tôi: "Tao thấy mày sống hổm rày ở chợ này như con chó hoang. Tội quá!về đây mà ở, tiếp giúp tao việc vặt trong quán. Mày sẽ tha hồ ăn, tha hồ uống.Còn như công xá". Bà ta im lặng một lúc, sụt sịt mũi; "Nói chuyệncông xá, hóa ra cháu ở đợ cho dì sao? Dì có một thân một mình. Dì coi cháu nhưcon thôi. Mẹ con mà tính chuyện tiền bạc thì còn ra cái nghĩa gì."
Tôi đứng lặng đi một lúc lâu, bàng hoàngkhông biết đáp ra sao. Trước mắt tôi, dòng kênh xanh ngắt lặng lẽ chạy hút vàochân trời. Một cánh buồm nhỏ xíu bồng bềnh trên khói nước, ở một nơi nào xalắm, đôi khi không trông rõ, dường nửa thực nửa hư. Quay nhìn về hướng quê nhà,chỉ thấy mây trời đùn cao như núi. Ngày mai tôi sẽ đi về đâu sống ra sao, tôichưa biết. Tôi chẳng ở đây thì còn đi đâu nữa? Tôi gật đầu, chẳng nghĩ ngợi gì.
- Vâng. Cháu sẽ ở đây với dì!
Tôi trở thành thằng nhỏhầu rượu trong quán dì Tư Béo bắt đầu từ hôm đó.
- Cầm hào bạc đây, ra chợ mà cắt tóc ngay đi- bà ta vừa truyền lệnh cho tôi, vừa tháo mấy cây kim băng cài miệng túi áochích đưa lên ngậm ngang mồm, và móc từ trong miệng túi thâm đen vì bẩn mỡ ramột nắm giấy bạc, nhặt một tờ hào dúi vào tay tôi.
Khi tôi cắt tóc xong, trởvề quán thì thấy bà ta lúi húi ngồi khâu bên rổ may.
- Lại ướm thử cái quầnđùi coi nào. Dì khâu cho mày đấy.
Bà ta đứng dậy, cầm mảnh lụa đen vừa cắt từống quần dài cũ của bà chỉ cần khâu một đường lưng và một đường khoét đáy làthành một chiếc quần đùi. Tôi mặc thử, thấy hãy còn quá rộng.
- Cầm bánh xà phòng thơm của dì, xuống bếntắm đi. Rồi lên mà mặc quần mới, con? - bà ta ngọt ngào bảo tôi.
Bà ta nói với tôi rất ít, lời lẽ dịu dàng,nhưng mỗi câu là một mệnh lệnh. Sau khi tắm rửa xong, tôi vội mặc chiếc quầnlụa đen ngắn vào. Bà ta ngồi nheo mắt, cười làm rung rung hai tảng mỡ của đôigò má bóng nhẫy, ngắm tôi hồi lâu.
- Tươm da! Sạch sẽ thơm tho như vậy mới cóthể hầu khách được. Chứ đứng gần người ta mà hôi như cú thì họ gõ chai lên đầubiết không" Mà trông mày mặt mũi cũng sáng láng đấy. Có chữ nghĩa gì bỏtúi không? - Dạ, cháu đã đỗ xép-phi-ca(tiểu học) tháng sáu năm ngoái.
- Thiệt chứ? Trời, thằng này giỏi đa? Mớimười bốn mười lăm tuổi mà đã dỗ phi-ca thì giỏi lắm. Ờ, hồi tao còn con gái, cómột ông giáo phica chú ý đến tao, nhưng duyên trời không định: Chà, ngày xưa đỗphi-ca là đã nên ông nọ ông kia rồi. Khổ cho mày, gặp thời buổi loạn ly!... Thếba má cháu đâu?
- Dạ, ở xa lắm! - tôi đáp một cách miễncưỡng..
Thấy tôi không muốn nói, bà ta cũng thôikhông hỏi. Bà ta vốn là người khôn ngoan, lịch thiệp và từng trải, luôn luônđoán trước ý mọi người, biết lúc nào nên nói, lúc nào nên không và nên chấm dútcâu chuyện ở chỗ nào. Điều này, tôi nhận ra trong những đặc tính của bà ta chỉqua vài ngày sau thôi.
Kể ra thì khách rượu của quán rượu dì Tư Béokhông thiếu hạng nào. Những tay vô công rồi nghề, la cà ngồi tán dóc ốt ngàycũng có. Những người tản cư, cắm thuyền tạt lên uống chén rượu rồi quảy qua đingay cũng có. Bọn con buôn vào ngồi chỉ cốt lấy chỗ gặp gỡ, trao đổi luồng hàngđương khan hiếm và để kiếm món xào nướng khoái khẩu hơn là vì cần nên đôi khi,một vài người lính Cộng hòa vệ binh có tuổi lén rời chỗ trú quân vào làm mộtcốc rượu khan, trước khi ra khỏi quán cứ đưa ống tay áo chùi ria mép và dặn đidặn lại tôi: "Này, chú em, hễ có ban chỉ huy đến hỏi thì nói không có aitới uống rượn đây cả nhé! Nhớ nhé".
Chỉ trong vài hôm, tôi đã quen mặt hầu hếtnhững đệ tử Lưu Linh của xóm chợ này. Nhưng trong đám người thường lui tới đây,tôi chỉ đặc biệt chú ý có hai người.
Mộtlà lão Ba Ngù. Dường như lúc nào cũng có lão túc trực trong quán. Nói cho đúngthì lão ta cũng không phải là tay mạnh rượu. Nhưng lão có thể lai rai uống đượcốt ngày. Những chuyện tiếu lâm, những chuyện giang hồ mã thượng lão kể đi kểlại với mọi người, tôi nghe đến thuộc làu những vẫn thích nghe. Bởi mỗi lần kể,lão thường hay thắt thêm vào những chi tiết bất ngờ khiến tôi phải cười bò ra;hoặc cũng có một đôi chỗ mà lần trước kể dài dòng, lão đã biết khéo léo thu vénbỏ đi cho câu chuyện thêm tròn trĩnh, dễ nghe hơn. Những lúc đông khách, lãođứng dậy nhường chỗ cho người mới tới. Đôi khi lão còn bưng hộ bát thừa giúp bàchủ quán.
DìTư béo mến lão vì cái tài đưa chuyện và giữ khách không công của lão, nên thỉnhthoảng bà ta cũng đãi lão cút rượu kèm theo một con khô cá lạt nướng. Ai mờirượu. lão đều uống, không từ chối. Nhưng chỉ uống một chén con cho vui bụngngươi ta thôi. Không bao giờ lão uống đến chén thứ hai. "Mình là ngườibiết tự trọng. Mình có phải là thằng già nát rượu đâu? " Lão thường lè nhènói một mình như vậy. Cứ mỗi người một chén rượu mời, mỗi ngày đêm lão Ba Ngùcó thể uống tính ra đến một, hai lít? Lão luôn luôn cởi trần, áo chỉ dể vắt hờbên vai, bảo: "Để vầy cho nó mát". Lão chỉ mặc độc chiếc quần đùi: damặt, da lưng đỏ như cua luộc. Dường như bấm vào bất cứ chỗ nào trong thân hìnhlão cũng có thể chảy rượu ra ngay được...
Đó là người thứ nhất.
Ngườithứ hai là Tư Mắm. Không biết y ở đâu, tên thật là gì. Chỉ biết rằng y thườngchở mắm lóc, mắm trê đôi khi chở cả dừa khô và bí rợ trong một chiếc ghe lườnbán dọc theo các xóm bờ kênh, nên đồng bào gọi y là Tư Mắm. Còn người đàn bàchạc ba mươi tuổi mà Tư Mắm bảo là vợ y không mấy khi bước lên bờ. Có lần, tôinghe thấy lão Ba Ngù che tay lên miệng bảo với dì Tư Béo: "Chà, bộ thằngTư Mắm có ngải hay sao mà nó chài được con nỡm đẹp quá. Không phải vợ hắn đâu.Dứt khoát là không phải bà chị ạ."
TưMắm ngươi dong dỏng cao nước xanh mét, tóc cắt bom-bê, mái tóc trước trán rủxuống tận gò má bên phải. Đôi mắt y rất bé và sắc lạ lùng, tròng mắt đảo đi đảolại rất nhanh và không hề nhìn thẳng vào ai bao giờ.
Mộtbuổi sáng, lúc tôi đang bưng rổ tôm càng xanh từ chợ về thì nghe tiếng tàu bayvè vè từ hướng Sóc Trăng lượn đến. Người trong chợ xô nhau nhạy toán loạn.
Chiếctàu bay đảo hai vòng trên xóm Ngã Ba Kênh, bay rất chậm nhưng thật cao, nghiêngqua nghiêng lại quan sát rồi thả xuống một đống truyền đơn. Những tờ truyền đơntủa ra, bị gió cuốn đi bay về mạn rừng tràm cách chợ có đến vài ngàn thước.Không biết bọn giặc nói gì trong ấy. Nhưng khi tôi về đến quán thì gặp ngay lãoBa Ngù đứng chửi oang oang:
-Tổ cha thằng Tây. Mày đánh thì xuống đây. Chứ bay trên trời thả giấy xuống thìcũng chưa gọi là bảnh.
Lãoníu rổ tôm của tôi lại, hỏi:
- Mày có nhặt được tờ nào đút trong này không?
- Không - tôi đáp.
- Truyền đơn nó kêu gọi Việt Minh đầu hàng đấy!
- Sao bác biết? Bác nhặt được à?
- Nhặtđâu mà nhặt. Thằng Tư Mắm nó vừa bảo đấy. Cái thằng coi vậy mà nhát. Nó mớinghe hơi tàu bay một chút, đã xuống ghe chèo đi tuốt rồi!
Từđó đến chiều, gặp ai lão Ba Ngù cũng nói đi nói lại có bao nhiêu chuyện đó. Vàchuyện giữa người trong quán cứ xoay quanh vấn đề: "Tây sắp tiến công vàođây? Liệu chúng ta có chặn nổi không."
Vàolúc chạng vạng, trời bỗng nổi gió to. Tiếng sấm nổ chát chúa trên những vầngmây đen sì mỗi lúc như muốn xà thấp xuống ngọn cây. Mưa bắt đầu rơi lộp độpnhững hạt to và nặng trên mái lá. Nhưng chỉ ào qua một loạt rồi tạnh ngay. LãoBa Ngù đứng trước quán, nhìn theo những làn chớp kêu:
-Mưa đi ông! Muốn mưa thì cứ mưa đi. Sao cứ làm khó khăn cho người ta vậy?
-Nếu mưa to thì Tây còn chưa dám vào đâu, phải không anh Ba?
DìTư Béo lạch bà- lạch bạch như con vịt mái xiêm, ra đứng bên cạnh lão, vừa thởdài vừa hỏi phụ họa:
-Dứt khoát là mưa thì nó không dám tiến công. Nó toàn đi giầy, gặp đất trơntrượt ngã bỏ mẹ đi. Hồi đằng cựu (thời cần vương, văn thân khởi nghĩa) các ôngrải quả mù trên lộ, Tây đi ngã lạch bạch. Thế là dao, mác, mã tấu mình cứ xôngra chém nó như chém chuối!
Tôidọn rửa bát đĩa xong, không còn việc gì làm cũng ra đứng hóng chuyện bên lão.Bỗng nghe dưới kênh có người hỏi:
-Quán dì Tư có gì nhậu không?
-À thằng Sáu tuyên truyền - lão Ba Ngù kêu khẽ.
DìTư Béo tức thời quát tôi:
- Vàonhóm bếp lên. Con nít mà biết cái gì, lúc nào cũng chực nghe. - Và bà ta đápvọng ra kênh: - Vô khối! Còn vô khối?
Tôingồi trong bếp vừa nhóm lửa, vừa đưa mắt nhìn ra. Nghe tiếng xuồng cập bến,khua lộp cộp. Dì Tư Béo chạy vào cầm cây phất trần bằng cuống quài dừa nước quétlạch xạch trên bàn rượu. Chắc là có khách sộp đây Tôi nghĩ thầm như vậy, vìnghe lão Ba Ngù dạ dạ hai ba tiếng, bộ kính cẩn lắm. Rồi thấy anh Sáu tuyêntruyền mồ hôi mồ kê nhễ nhại, tay xách một bao cà rồng công văn giấy tờ, khomngười bước qua mái giọt, vào đặt phịch cái bao lên bàn. Lão Ba Ngù khệ nệ ômmột chiếc ba-lô to tướng rằng rịt những dây da, lấm lem bùn đất, thận trọng đitừng bước vào và sẽ sàng đặt lên chiếc chõng tre, cạnh cửa ra vào bếp.
Mộtngười đàn ông chạc hăm sáu hăm bảy tuổi, cao lêu nghêu, mặc bộ quân phục ka-kimàu rêu, thắt lưng da rộng bản, khẩu súng poọc-hoọc đeo trễ bên hông, tay xáchđôi giày vải, tay cầm chiếc mũ vải kiểu hướng đạo bước vào đưa mắt ngắm nghíamột vòng trong quán rồi thong thả kéo ghế ngồi xuống.
AnhSáu tuyên truyền giới thiệu với dì Tư Béo:
-Đây là ông Huỳnh Tấn, đặc phái viên của Tổng hành dinh Ủy ban kháng chiến NamBộ, ở miền Đông mới tới!
DìTư Béo chắp hai tay trước bụng cúi đầu chào, nói gì lí nhí trong mồm không ngherõ, chỉ thấy dôi môi run run một cách cảm động. ông khách đứng dậy, toét miệngcười, khẽ nghiêng đầu chào đáp lễ rồi nói cách thân mật tự nhiên:
- Kiến cắn bụng dữ rồi đây? Dì có gì cho chúng tòilàm ba hột cho đỡ đói cái đã...
LãoBa Ngù buột miệng đáp ngay:
-Còn nửa rá bún tươi. Có thể ăn với thịt bò xào lá cách. Còn nhậu thì... đâu nhưnhà còn mấy con tôm càng nướng, phải không bà chị? Mà rượu hôm nay không đặng ngon?
DìTư Béo gật đầu lia lịa:
-Muốn ăn cơm cũng được. Tôi chịu khó nấu. Chẳng mấy thuở mà! Bắt gà làm xé phayăn thôi.
Anh Sáu tuyên truyền vừa lau mồ hôi vừa nuốt nướcbọt, giọng sốt ruột:
-Dì muốn cho ăn thức gì cũng được. Có bao nhiêu cứ dọn hết ra đây. Nhưng phảigấp lên!
LãoBa Ngù lăng xăng giúp bà chủ quán pha ấm trà, đặt lên bàn mời khách. Anh Sáutuyên truyền bảo tôi đem cho ảnh một ít bún tươi, rồi ảnh rút trong bao cà-ràngra một cuộn giấy nhặt lấy hai tờ rộng khổ nhất úp lên bàn, bảo tôi xếp bún vào.
-Chà, có khẩu hiệu gì mới hả chú Sáu? - lão Ba Ngù tò mò hỏi.
- Phải. Vừa lĩnh trên quận về đây. Bác kê giúp cáighế cho tôi dán lên vách đi.
AnhSáu tuyên truyền đứng lên ghế, đưa tờ khẩu hiệu ngắm nghía cho cân bằng hai đầurồi từ từ dán vô vách lá. Dán xong một tờ, anh thong thả dán nốt tờ thứ hai.
Tôicầm đèn soi lên, nhìn trân trân vào những dòng chữ khắc gỗ in mộc bản mà tôi đãđọc nhiều lần trên các tờ khẩu hiệu dán đầy ở những nẻo đường tôi đã vượt qua.
Độc lập hay là chết !
Nước Việt Nam của người Việt Nam!
AnhSáu tuyên truyền lại lôi ra một tờ giấy khổ nhỏ in chữ chì, còn thơm phức mùimực ty-phô, dán vào vách ngang tầm mắt người ngồi ở bàn. Lão Ba Ngù lẩm nhẩm đánhvần:
-Khờ... ông... không, đờ.. i đi... Khô.ng đi lính chờ... o cho... Khôngđi lính cho giặc!
Đôi mắt tròn ra, nét mặt trang nghiêm, lão BaNgù lần lượt vừa đánh vần vừa đọc hết những khẩu hiệu như những lời thề viếtlên bằng máu:
Không đi lính cho giặc!
Không bán lương thực chogiặc!
Không đưa đường chỉ lốicho giặc!
Ai có dao dùng dao, có mác dùng mác, mỗingười dân là một người lính, mỗi thước đất là một chiến hào, sẵn sàng hi sinhbảo vệ nền độc lập cho Tổ quốc!
Đọc xong rồi, lão Ba Ngù lẳng lặng bước đếnchỗ móc áo lấy cái áo bà ba đen của lão giũ giũ mấy cái. Đoạn lão mặc vào, càicả cúc cổ cẩn thận. Lão cứ đứng nhìn lên những dòng chữ đỏ chói như máu kia,hai bàn tay vuốt đi vuốt lại những nếp áo nhăn nheo đã lâu không mặc tới.
Không biết có phải vì cơn gió to lúc nãykhiến lão bị lạnh, hay bởi lẽ nào khác tôi không được rõ. Chỉ trông nét mặt imlặng và cử chỉ trang nghiêm của lão thì tôi thấy giống như lão đang đứng bêngiường một ngươi bệnh thập tử nhất sinh. Kinh nghiệm ở những nơi khác thì vớitình hình này, chắc chắn là chỉ trong vòng một tuần lễ nữa thôi, giặc Pháp sẽtiến tới đây...
- Trời ơi, mày có bưng đĩa thịt bò ra giùmtao một chút không. Làm gì mà đứng chết gí ngoài đó vậy? - dì Tư Béo trong bếpeo éo gọi vọng ra.
Tôi giật mình chạy vào, suýt nữa ngã bổ xuốngngạch cửa. Lão Ba Ngù không vào giúp tôi một tay như mọi khi, lão lặng lẽ rađứng trước bến hút thuốc lá một lúc rồi bỏ đi đâu mất. ông Huỳnh Tấn và anh Sáutuyên truyền đói dữ. Chẳng mấy chốc mà hai người đã làm sạch rá bún và hai đĩathịt bò xào to tướng. ông Huỳnh Tấn vươn vai đứng dậy, co chân duỗi tay, cườihì hì:
- Từ sáng đến giờ, hai anh em thay nhau chèomột mạch, chẳng có hột cơm bỏ bụng ăn bữa bún ngon quá. Ước chừng còn một ránữa, chúng tới cũng ních hết?
Anh Sáu tuyên truyền quay sang hỏi dì Tư Béođang chấp hai tay trước bụng, đứng bên góc bàn hầu khách:
- Độ mấy giờ thì liên lạcở Thới Bình lên tới?
- Sớm thì cùng chín mười giờ. Trời đất này,ngược nước ngược gió, họ có thể lên khuya hơn... Các ông cứ ở lại nghỉ cho đỡmệt - dì Tư Béo dáng thong thả, có ý muốn cầm khách.
- Có gì nhậu, dì mang ra vứt đó cho chúngtôi! ông Huỳnh Tấn nói cách vui vẻ - Dằn bụng rồi, bây giờ có thể lai rai đượcchứ hả, đồng chí Sáu?
Tôi quạt than hơ lại mấy con tôm càng nướngsẵn, to cỡ cổ tay người lớn mà dì Tư Béo còn cất trong chạn.
Trong khi đó, anh Sáu tuyên truyền cầm đèn rasau quán ngắt mấy ngọn rau răm, còn ông Huỳnh Tấn thì giành với dì Tư để tự ôngta giã bát muối ớt cho vui.
- Bác Ba Ngù đi đâu rồi hả dì Tư? - Anh Sáutuyên truyền chợt hỏi.
- Ối có trời biết ổng đi đâu? Muốn đến thìđến, muốn đi thì đi.
- Nhậu mà thiếu bác thì không vui?
- Có tôi đây, chú Sáu lão Ba Ngù từ ngoài nóivọng vào May quá, chỉ lo về không kịp? - Lão Ba Ngù bước vào, đặt một lít rượutrong như mắt mèo lên bàn, xoa xoa hai bàn tay rồi đan mười ngón tay vào nhau,nghiêng đầu ngắm chai rượu:
- Tôi chạy vào tận xóm Tràm, nài lại của họđây. Không mấy thuở... Để khách xa uống không đặng ngon sẽ mang tiếng đất RạchGiá, Bạc Liêu mình!
Khi ba người đã ngồi vào bàn,sắp sửa rót rượuthì có bóng một người mặc quân phục màu đen, khoác ca- pốt, lom khom bước theoánh sáng đèn, đi vào quán. Tôi nhận ra ngay đó là anh phân đội trưởng Cộng hòavệ binh vừa về đóng quân ở xóm trên đã mấy hôm nay.
Ông Huỳnh Tấn bỗng xô ghế đứng dậy, đôi mắttròn thao láo nhìn anh phân đội trưởng, còn anh phân đội trưởng thì đứng sữnglại ở chỗ ngạch cửa mồm há hốc ra.
Hai người im lặng nhìn nhau, rồi cả hai cùnglao tới ôm lấy nhau, tay đấm đấm vào lưng nhau thùm thụp:
- Trời ơi, tao tưởng màychết rồi?
- Tao cũng tưởng mày chết rồi?
- Vậy ra không thằng nào chết cả...
Hai người cùng tranh nhau nói. Không còn nghecâu nào là của người nào. Những tiếng nói bằng giọng cường tráng sôi nổi vồ vậptuôn ra cùng với những tiếng cười vui vẻ mừng rỡ của đôi bạn tình cờ gặp lại,cứ xoắn lấy nhau.
- Sao nghe mày chết ở mặt trận Gò Công rồi?Ngồi xuống đây? - ông Huỳnh Tấn kéo ghế mời anh phân đội trưởng.
- Chết thế nào được? Ờ mình có bị thương ởVàm láng, Gò Công anh phân đội trưởng lột áo ca-pốt ném lên chõng, mở cúc áotrỏ vào vết sẹo trên ngực. – Xuyên trước trổ ra sau lưng, thủng một lỗ phổi cầmchiếc đũa thọc qua được. Bọt cứ tuôn ra phì phì. Cả máu cả bọt. Vậy mà chỉ hơntháng sau mình đã dậy, ra chỉ huy chiến đấu.
- Sức mày canông bắn cũngkhông chết - ông Huỳnh Tấn cười hì hì.
Anh phân đội trưởng bấy giờ mới ngắm nhìn ông Huỳnh Tấn từ đầu đến chân:
- Mày vừa tới đây à? Bây giờ chắc làm to lắm hả? Nhưng chưa quân sự lắm! Hãy còn cái mã của anh sinh viên
Anh phân dội trưởng bỗng nhếch mép không nhìn vào ông Huỳnh Tấn nữamà chỉ ngó ra ngoài trời tối đen một lúc rồi từ từ quay lại, giọng trầmhẳn xuống, hơi buồn, pha đượm ít nhiều chua chát:
- Nghe anh em báo là cậu có theo phái đoàn anh Giàu đi hội kiến vớiGờ-ra-xây Thằng Gờ-ra-xây bắt bỏ cậu vào bao bố nhận xuống cống Sài Gòn - chợ lớn chết rã thây từ cuối tháng mười năm ngoái mà?
- Ối! Anh em ghét mình, họ bịa ra họ nói vậy, chứ mình có đi hội kiến hội mối bao giờ. Mà họ ghét mình cũng phải thôi. Ông Huỳnh Tấn nói chậm rãi. - Chuyện còn dài, hẵng uống một cốc rượu mừng cái đã.
Lão Ba Ngù đứng dậy, tay phải ngửa ra, tay trái cầm chai rượu nút láchuối cắn vào mỏm, đặt chai rượu nằm xuôi trên lòng bàn tay phải, từ từxoay bàn tay úp xuống rót rượu ra cốc; khi cốc vừa đầy, lão nhẹ nhànguốn ngửa bàn tay đưa cổ chai rượu xốc nghiêng lên. Dòng rượu nhỏ vàthanh như bị sợi chỉ cắt đứt khỏi miệng chai, tụt xuống mặt cốc đầy, làm sủi bồng mấy cái tăm nhỏ chạy vòng quanh...
Lão rót luôn bốn cốc, đều tăm tắp như vậy, không hề nhểu ra bàn một giọt rượu nào.
- Trời... ơi. Ông già róc rượu đẹp quá! Như nghệ sĩ biểu diễn ấy - ông Huỳnh Tấn kêu lên.
Lão Ba Ngù vuốt cặp ria, đặt chai rượu xuống bàn:
- Nói các đồng chí tha lỗi, chứ tôi khổ sở và hết nghiệp vì rượu mớichỉ học được cái trò này. Đã uống rượu thì phải biết rót rượu, sao đừngcho giọt phí giọt phạm nào rơi vãi xuống bàn. Cũng như người lính cầmsúng, phải bắn bách phát bách trúng, bắn sao cho đừng trật một viên. Chớ để một thằng Tây nào chạy. thoát!
Anh Sáu tuyên truyền cười ha hả:
- Bác Ba bữa nay xuất khẩu thành văn. Vô ban tuyên truyền công tácvới tôi đi, cha nội!... Các đồng chí thấy chưa, ngán dân đất. Chắc-băngnày chưa? Rượu chưa vào mà lời châu ngọc đã tuôn ra rồi!
Dì Tư Béo vừa cười múm mím vừa cắt chanh ra vắt rưới lên mấy con tôm càng nướng bóc vỏ.
- Bà chủ uống với chúng tôi một ly cho vui ông huỳnh Tấn hai tay bưng cốc rượu lên đưa sang mời dì Tư Béo.
Dì Tư Béo lắc đầu quầy quậy:
- Tôi xin vô phép các ông. Tôi không uống được mà. Để tôi đi lo chocác ông nồi cháo gà dằn bụng (ăn lót dạ). Để buổi khuya đi đường.
Bốn người chạm cốc, uống cạn. Họ hút thuốc lá và thổi khói ra um nhà. Rượu được vài tuần, ông Huỳnh tấn bắt đầu dặng hắng nói:
- Đây toàn đồng chí anh em cả thôi. Chẳng ai xa lạ gì mà phải giấu.Anh em họ không rõ, họ ghét mình là chuyện tất nhiên thôi. Mình chẳng có đi hội kiến với thằng ra-xây đâu, mình là cái thá gì! Vả lại, nói chođến cùng, nếu cần bảo vệ các anh lớn. thì dẫu vào hang cọp mình cũngchẳng từ nan... Mình có đi làm cận vệ, người cận vệ độc nhất, đưa anhGiàu đi gặp thằng đại tá Nhật ở đình An Lạc để bàn về các thể thức chuẩn bị gặp thằng ra-xây. Thằng giặc già này nó lập kế hoãn binh để chờ tiếp viện, trong khi các sư đoàn quân cách mạng của ta vẫn còn vây đặc chung quanh Sài Gòn-Chợ Lớn. Tất nhiên là sau đó cuộc hội đàm ở khu nhàHuibonhoa trong Chợ Lớn chẳng đem lại kết quả nào. Có thể nói anh em còn thật thà, chứ không phải ngán gì nó đâu.
Anh phân đội trưởng chành môi ra, không biết anh cười hay không cười, chỉ thấy đôi cầu vai rung rung.
- Không ngán mà lại toan đình chiến với chúng nó?
- Anh em nhiều người đã nói và nghi như cậu. Ông Huỳnh Tấnnói chậm rãi, giọng ôn tồn. - Trong lúc toàn thể dân chúng quyết xông ra bóp chết bọn giặt xâm lược mà nói đình chiến thì ai mà không ức? Có thể nói các tướng lãnh của mặt trận Sài Gòn - Chợ Lớn không ai chủ trươngvậy đâu!
- Không chủ trương, không tán thành mà có cuộc hội kiến ấy? - Anh phân đội trưởng nhỏm dậy, nói cắt ngang.
Ông Huỳnh Tấn lặng thinh, tự rót rượu cho mình, cầm cốc lên uống từng ngụm nhỏ. Nét mặt của ông trở nên đăm chiêu, rắn rỏi lạ. Dường như ôngkhông phải là con người liến thoắng vui tính như khi mới bước vào quánlúc chập tối. Ông nói:
- Nóng làm gì. Thong thả mình kể cho cậu nghe. Một lần nữa, mìnhkhẳng định không ai chủ trương đình chiến. Bằng cớ là trong hội nghị các tổng lãnh của mặt trận SÀI Gòn - Chợ Lớn tại Tổng hành dinh của Uỷ bankháng chiến Nam Bộ tại chợ Đệm...
- Có những ai nào - anh phân đội trưởng bấy giờ mới ngồi xuống ghế, chăm chú nghe.
- Đông lắm? Mình không nhớ hết... Tất nhiên là có anh Trần Văn Giàu,anh Huỳnh Văn Tiếng, anh Từ Văn Ri, anh Hai Râu, anh Nguyễn Lưu, anhMười Trí, anh Tư Tỵ và anh Ba Dương. Cậu nhớ Tư Tỵ không? Trời ơi, cóthể nói cha ấy là một ác-xơ nan(kho vũ khí), khắp người đeo đầy vũ khí.Nào dao găm, súng lục, nào gươm Nhật... lại đeo ống nhòm, đội nón sắt,mang ghệt, đi giày đinh. Tư Ty giữ mặt trận Bàn Cờ - Chợ Đủi ấy mà!
- Nhớ rồi Khi mình rút xuống Mỹ Tho, còn nghe nói anh Nguyễn Lưu lãnh đạo công đoàn nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn đánh nhiều trận sướng lắm,phải không?
- Ừ. Nguyễn Lưu nói làm gì nữa? Dân Côn Đảo về mà!
- Nói ngay chỗ cuộc hội nghị ấy nghe nào?
- Lúc đang họp anh Ba Dương đi một chiếc tàu sắt từ Bình Xuyên đitới. Cậu biết Ba Dương chứ? Xưa nay vẫn vậy Thủ lãnh Bình xuyên, dần anh chị mà lúc nào cũng khiêm tốn, ôn hòa, ít nói. Trong cuộc họp, Ba Dương chỉ lặng lẽ ngồi nghe, hai tay tì vào thành chiếc bàn tròn vòng gõ, mặt cẩm thạch, thứ mặt bàn lúc nào cũng lạnh như nước đá ấy. Mọi người bàncãi lung tung việc nên ngừng bắn hay không ngưng bắn. Đợi cho mọi ngườingớt tiếng, bấy giờ anh Ba Dương mới đứng dậy, thong thả rút trong túiáo bành tô ra một chai, đặt cộp xuống giữa mặt bàn. Biết gì không? Trờiơi, chai toàn là những ngón tay ngâm rượu. Anh nói: "Đây là ý kiến củaanh em Bình Xuyên phát biểu với hội nghị, khi nghe nói có lệnh đìnhchiến. Rồi anh nghiêm giọng, tiếp: "Họ chặt ngón tay thề trước bàn thờTổ quốc, trước ảnh Cụ Hồ là nhất định đánh đến cùng... Các anh ra ngoàikia mà coi chiếc tàu của tôi. Tụi Tây ở Rạch Kiến nó bắn tôi như vậyđó.”
- Thế còn đi hội nghị với Gờ-ra-xây làm chó gì nữa? - Anh phân đội trưởng vung tay, nói như quát.
- Đi thì đi, còn đánh là đánh. Hai vấn đề khác nhau. Vấn đề chủ yếulà đánh. Mình kể cho cậu nghe vừa rồi đó. Anh em có ai rút lui đâu? -Ông huỳnh tấn còn định nói điều gì nữa đó, chừng như sắp nói một câuquyết liệt lắm thì phải, nhưng ông lại thôi, mặt lầm lầm, móc thuốc lára đốt một cách bực dọc.
Anh phân đội trưởng chấm đầu ngón tay trỏ vào rượu vẽ vẽ lên mặt bàn. Còn anh Sáu tuyên truyền và lão Ba Ngù thì ngồi đưa mắt nhìn nhau. Tôithấy mọi người im lặng, tự nhiên mình cũng đứng ngây ra, không dám độngcựa. Trong quán chỉ còn nghe tiếng củi nổ lép bép và tiếng nước sôi reođều đều sau bếp. Lâu lâu, trời lại chớp lên một cái. Mặt nước dòng kênhsáng rực trong ánh chớp. Những đầu ngọn cây tràm và chiếc xuồng khôngđang buộc bên kia bờ hiện lên xanh biếc, dường như trời đất cỏ cây vànhững ngọn sóng lăn tăn không ngớt vỗ nhẹ đôi bờ kia thảy đều rung rungtrong sắc xanh kỳ ảo, mắt người chưa kịp trông rõ đã biến mất vào bóngtối.
Một giọng hát buồn của anh thanh niên nào đó, đang thả thuyền trôi theo dòng kênh, nghe mỗi lúc một gần.
Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi... Phòng vắng...
Lão Ba Ngù tức thời đứng dậy, bước thình thịnh ra ngoài.
- Ê ghe ai chèo lạc xạc đó. - Lão hỏi.
Dưới thuyền có tiếng đáp:
- Đi chở củi về đây, ông nội. Xét giấy hả?
- Dưới ghe có ai bệnh sắp chết phải không? - lão Ba Ngù lại hỏi, giọng cay độc.
- Có ai bệnh gì đâu! đừng có trù mạt.
- Hừ vậy mà tưởng thằng nào đang mắc dịch mắc gió gì dưới ghe đó chớ. Bộ sắp chết sao mà rên khừ khừ vậy? Bây giờ không phái là lúc hát cáigiọng mèo ướt đó nữa a, nghe chưa?
Không có tiếng trả lời. Tiếng chèo khua mỗi lúc một xa. Lão Ba Ngùthở phì phì, bước vào quán cởi áo ra ném bên chõng cái xoạch. Anh Sáutuyên truyền liếc sang ông Huỳnh Tấn và anh phân đội trưởng, cố níncười. Khi thấy hai người này cũng đang nhịn cười như mình, anh Sáu tuyên tuyền không nín nổi nữa, bèn phì một tiếng và một tràng cười ha hả vụtnổ ra.
- Chú Sáu, chú cười tôi cái gì? - lão Ba Ngù toan ngồi xuống ghế lạithôi, mắt lão dán vào đôi môi đang cười rung rung trong ánh đèn đỏ khécủa anh Sáu.
- Ha ha ha... Ai cười gì bác đâu?
- Bộ lão già này nói bậy à? Hừ, chú làm tuyên truyền chú há chẳngbiết "Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách" sao? Nước nhà còn mất, đến một thằng mẹ rượt (đồ bỏ đi) như lão đây cũng còn có trách nhiệm mà.
Bây giờ thì ông Huỳnh Tấn, anh phân đội trưởng và dì Tư Béo vừa ở bếp quệt mồ hôi trán bước ra cũng đều cười lên thành tiếng. Khi lão Ba Ngùhiểu ra rằng đó là những tràng cười tán thưởng, lão bèn vuốt ria quaymặt vào trong tối lảm nhảm một mình:
- Ờ có hơi lố bịch một chút! Nhung tôi già rồi, thấy đâu thì nói đó vậy thôi. Nào, bà chị đã cắt tiết gà chưa? Tôi giúp một tay.
- Thôi, cám ơn. Cháo sắp dọn ra được rồi đấy! - Dì Tư Béo nói bằnggiọng thanh thanh kéo dài làm duyên kiểu như còn trẻ. Bà ta sễ sàng xắntay áo lên, bàn tay béo núc cầm chai rượu róc liên tiếp ra bốn chiếccốc.
Bốn cốc rượu róc bồng mắt thỏ đều tăm tắp, xếp một hàng ngay ngắndưới ánh đèn lung linh, tưởng như rượu sắp tràn cả ra ngoài nhưng tuyệtnhiên không hề thấy có một giọt ướt nào rơi xuống mặt bàn...
Đêm hôm đó, mãi đến mười hai giờ khuya vẫn không thấy xuồng liên lạcdưới Thới Bình lên. Ông Huỳnh Tấn sốt ruột không chờ được nữa, bèn cậyanh Sáu tuyên truyền tìm người đưa ông đi. Lão Ba Ngù xung phong nhậnlãnh chiếc tam bản của anh Sáu tuyên truyền chèo đưa ông Huỳnh Tấn. Anhphân đội trưởng lâu ngày gặp bạn cũ, vẫn còn nấn ná ở lại hàn huyên mãicho đến lúc chia tay. Còn dì Tư Béo thì chẳng những dứt khoát không nhận món tiền bữa rượu, lại còn biếu ông Huỳnh Tấn và lão Ba Ngù mỗi ngườimột đòn bánh tét nhân tôm thịt mang theo lót dạ dọc đường.
Tôi thu dọn bát đĩa xong, vừa hạ cánh liếp xuống thì nghe tiếng Tư Mắm hỏi vọng từ dưới bến:
- Quán còn thức hả, chị Tư?
- Còn thức. Nhưng mà chẳng có gì ăn đâu. - dì Tư .
Tư Mắm đã lên bờ, tự tay chống cánh liếp cửa, vào quán cầm đèn ra soi xuống bến cho mụ vợ hắn bước lên.
- Chào dì Tư? Khuya rồi mà chúng tôi còn làm phiền dì quá - vợ Tư Mắm chúm chím cười, nói một câu lấy lòng bà chủ quán, đoạn từ tốn nhấc ghếra, rón rén ngồi xuống.
Đúng như lão Ba Ngù nói, cứ trông hai người này, khó ai tin rằng họlà một cặp vợ chồng. Tư Mắm thì vừa hôi vừa bẩn, vừa hà tiện lại vừa vũphu. Còn mụ vợ hắn tuy ăn vận mộc mạc ra vẻ một người lam lũ, nhưng từcách nói năng cho đến dáng đi, cách đứng thì rõ là người hạng phong lưuđài các. Thấy tôi che tay lên miệng ngáp, mụ ta vỗ vỗ nhẹ vào lưng tôi:
- Chịu khó thức một chút. Rồi qua cho tiền sáng mai ăn bánh.
Tư Mắm xuống thuyền xách lên một chai cột nhà vuông (Một loại rượumạnh của pháp) và một xâu cua biển. Hắn đi thẳng vào nhà bếp, vất xâucua xuống cạnh lò, mắt đảo một vòng ra tận sân sau. Tôi đi sau lưng hắn, thấy vậy bèn hỏi:
- Chú kiếm rổ hay cái gì, bảo tôi lấy cho.
- À Không - Tư Mắm giật mình quay lại. - Qua coi nhà còn gì nhậu được nữa không thôi mà - Rồi hắn cầm chai rượu ra, rủ rỉ với dì Tư Béo đangloay hoay cầm khăn lau cốc bên bàn: - Nấu nồi cháo cua ăn chơi đi, dìTư.
- Cháo cua làm gì. Nhà vừa nấu nồi cháo gà cho mấy ông khách. Họ chỉhúp mấy người vài muỗng, vì trước đó đã ních hết rá bún rồi, còn ăn uống gì nữa. Trời, nồi cháo gà nấu đậu xanh, ngọt lắm. Để hâm nóng lại thôi. - Dì Tư Béo miệng nói, tay khoát ra hiệu bảo tôi vào nhóm bếp lò.
- Vậy thì nướng vài con cua nhá chơi còn bao nhiêu biếu dì - Tư Mắm đảo mắt nói. Rồi hắn hỏi trống không:
- Chà khẩu hiệu ai mới dán đây nhỉ?
Dì Tư Béo không đáp. Tính bà ta vốn như vậy, ai hỏi riêng bà thì bànói, không thì thôi. Mụ vợ tên lái buôn cau mắt nhìn hắn một cái, từ hai trong con ngươi phát ra những tia sáng quắc, nhọn như những mũi kim.Nếu tôi không chú ý mụ từ trước, thì không thể nào bắt gặp cái lườm dữdội trong thoáng chớp ấy. Tư Mắm tức thời cười hề hề, nói lảng:
- Chèo rã cả tay mà bữa nay chẳng bán được mấy. Chỉ toàn bán chịu cho vài người mới quen.
Mụ vợ hắn hỏi xin quả chanh và một thìa đường trắng, rồi tự tay rótthứ rượu tây của mụ ra cốc, cho đường vào, hâm nóng cốc rượu trong bátnước. Rồi sau khi đã thả vào cốc một lát chanh rồi cầm cái đĩa đậy lên.
- Cháu không biết uống rượu đâu? Mụ cười chúm chím ngó dì Tư - Thuốcgiải cảm đấy. Đi nhiều, mệt, uống một cốc này nó ra mồ hôi, khỏe ngườilại ngay.
Tư Mắm ngồi hút thuốc phì phèo. hắn lại hỏi dì Tư:
- Ờ lúc nãy thấy bác Ba Ngù chèo tam bản đưa ông nào đi đâu vậy, hả dì?
Dì Tư Béo nhướng lông này, làm mặt quan trọng. Bà ta không nhìn TưMắm, nghiêng người xuống gần bên con mụ vợ hắn, ngón tay trỏ đặt ngangmồm:
- Đừng có lộ bí mật nhá. ông ấy lớn lắm đấy. Cấp Nam Bộ mà! Chà, ôngkhỉ gì, quên rồi. Đoạn bà ta quay vào cửa bếp hỏi tôi: - Ông hồi nãylàm chức gì, mày nhớ không?
Tôi không muốn trả lời, nhưng buộc lòng phải đáp cho có đáp: - Cháu không nghe nói.
- Ối! Nó con nít, biết cái gì mà gì hỏi nó - Tư Mắm cười hề hề, nhịp chân rung đùi.
Mụ vợ Tư Mắm ngó ra bến, liếc hắn một cái, thong thả đưa bàn tay ngón búp mang vén mớ tóc mai:
- Bán mấy chỗ mà không ghi chép cả. Mai mốt đây quên đi, làm sao đòi được. Khó quá?
Mụ móc trong túi ra quyển sổ con và cây bút máy, đặt lên bàn. Tư Mắm rời ghế đứng dậy, bước ra ngoài tối.
Nghe hắn nói vọng vào: "Khuya rồi mà không mưa được oi bức quá. Đứngđây một chốc cho mát. Dì Tư, hễ được cháo thì dì nhấc ra, nướng luôn vài con cua, nghe dì!
Thấy tôi lại ngáp, dì Tư Béo bèn bảo tôi xuống chiếc thuyền mui ốngcủa dì vẫn đậu trong mương, đi ngủ trước đi. Mụ vợ Tư Mắm vẫy tôi đến,giúi vào tay tôi tờ giấy bạc năm hào. Tôi không lấy, đặt trả lên bàn...
- Cầm đi mà? - con mụ cười cười, nhìn tôi có hơi ngạc nhiên.
- Ối! Nó không lấy thì thôi, kệ nó? Thằng này có phải như người ta đâu? - dì Tư Béo nói có ý bực tức vì tiếc hộ cho tôi.
Tôi bước ra ngoài, không nghe bà ta nói gì về mình nữa bèn đi thẳngra mương chui xuống thuyền, rúc vào nóp (Một loại bao đan bằng cỏ bàng,một loại cỏ có nhiều ở đồng tháp dùng tránh muỗi thay màn). Muỗi vo vekêu dậy trong những lùm cỏ rũ ngọn xuống hai bờ mương. Tôi tưởng nằmxuống là đánh một giấc thẳng cẳng, hóa ra lại không ngủ được.
Không hiểu sao cái lườm của mụ vợ Tư Mắm cứ như xoáy vào óc tôi,khiến tôi sờ sợ. Chưa bao giờ tôi thấy một người đàn bà nói năng mềmmỏng, nhỏ nhẹ mà lại có đôi mắt lạ lùng, vừa đẹp, vừa đáng sợ như vậy.Các bà bán cá trong chợ cãi nhau nhưng lúc giận dữ, mắt long lên sòngsọc vẫn không có nét gì đáng sợ như mắt con mụ này....
Độc lập hay là chết!
Nước Việt Nam của người Việt Nam !
Những dòng chữ rắn rỏi khắc gỗ in mộc bản trên các tờ khẩu hiệu màanh Sáu tuyên truyền vừa dán vào vách từ chập tối bỗng lại hiện ra, nhảy múa trước mắt tôi.
Trong tai tôi nghe mơ hồ nhạc điệu buồn buồn của tiếng gió phẩy độngngọn dừa nơi một làng quê xa nào đó ở tận Tiền Giang mà tôi không cònnhớ rõ... Tôi lại thấy ông Huỳnh Tấn toét miệng ra cười. Gương mặt ôngđang cười bỗng tối sầm lại. "Anh em có ai rút lui đâu? Tiếng muỗi vo vemỗi lúc một xa dần. Tôi thiếp đi lúc nào cũng không hay biết nữa.
Đó là một ngôi quán nhỏ xệch xạc, trống trướctrống sau, cất dựa bên bờ kênh dưới bóng một cây gáo cổ thụ.
Mái lá rách thủng lô chỗ, ban ngày nắng soixuống mặt chiếc bàn dài, thả những bóng trứng vịt xuống bên mâm người ngồinhậu, và ban đêm, người ta có thể uống cả một vì sao xanh rơi trong lòng cốc.
Quán rượu dì Tư Béo nối tiếng về thứ rượu tămngọt giọng, phảng phất mùi cháy khê nồi mà không nhà nào cất được, về tài xàonấu các món thịt rừng mà các lão già cũng hay bông phèng đã nức nở khen rằng"nhắm xong một miếng, thấy người phấn hứng, trẻ tráng ra ngay".
Nhiều người tin như vậy. Chứ như tôi, tôinghĩ rằng những người lui tới nơi đây là bởi tự thói quen cố hữu của họ. Mà bàchủ quán vốn là một người đãi bôi xởi lởi, không bao giờ để phật lòng bất cứmột ông khách nào dù khó tính đến đâu. Duy chỉ có một điều mà ai cũng biếtnhưng cũng chẳng ai nói ra, là trong sự dễ dãi hào phóng của bà ta, dù thế nàothì thế, một đồng xu cũng không lọt được qua cánh tay nhờn nhầy bóng mỡ của bà,vì bà không để mình chịu thiệt với ai bao giờ. Chẳng vậy mà một hôm, bà ta đãbảo tôi: "Tao thấy mày sống hổm rày ở chợ này như con chó hoang. Tội quá!về đây mà ở, tiếp giúp tao việc vặt trong quán. Mày sẽ tha hồ ăn, tha hồ uống.Còn như công xá". Bà ta im lặng một lúc, sụt sịt mũi; "Nói chuyệncông xá, hóa ra cháu ở đợ cho dì sao? Dì có một thân một mình. Dì coi cháu nhưcon thôi. Mẹ con mà tính chuyện tiền bạc thì còn ra cái nghĩa gì."
Tôi đứng lặng đi một lúc lâu, bàng hoàngkhông biết đáp ra sao. Trước mắt tôi, dòng kênh xanh ngắt lặng lẽ chạy hút vàochân trời. Một cánh buồm nhỏ xíu bồng bềnh trên khói nước, ở một nơi nào xalắm, đôi khi không trông rõ, dường nửa thực nửa hư. Quay nhìn về hướng quê nhà,chỉ thấy mây trời đùn cao như núi. Ngày mai tôi sẽ đi về đâu sống ra sao, tôichưa biết. Tôi chẳng ở đây thì còn đi đâu nữa? Tôi gật đầu, chẳng nghĩ ngợi gì.
- Vâng. Cháu sẽ ở đây với dì!
Tôi trở thành thằng nhỏhầu rượu trong quán dì Tư Béo bắt đầu từ hôm đó.
- Cầm hào bạc đây, ra chợ mà cắt tóc ngay đi- bà ta vừa truyền lệnh cho tôi, vừa tháo mấy cây kim băng cài miệng túi áochích đưa lên ngậm ngang mồm, và móc từ trong miệng túi thâm đen vì bẩn mỡ ramột nắm giấy bạc, nhặt một tờ hào dúi vào tay tôi.
Khi tôi cắt tóc xong, trởvề quán thì thấy bà ta lúi húi ngồi khâu bên rổ may.
- Lại ướm thử cái quầnđùi coi nào. Dì khâu cho mày đấy.
Bà ta đứng dậy, cầm mảnh lụa đen vừa cắt từống quần dài cũ của bà chỉ cần khâu một đường lưng và một đường khoét đáy làthành một chiếc quần đùi. Tôi mặc thử, thấy hãy còn quá rộng.
- Cầm bánh xà phòng thơm của dì, xuống bếntắm đi. Rồi lên mà mặc quần mới, con? - bà ta ngọt ngào bảo tôi.
Bà ta nói với tôi rất ít, lời lẽ dịu dàng,nhưng mỗi câu là một mệnh lệnh. Sau khi tắm rửa xong, tôi vội mặc chiếc quầnlụa đen ngắn vào. Bà ta ngồi nheo mắt, cười làm rung rung hai tảng mỡ của đôigò má bóng nhẫy, ngắm tôi hồi lâu.
- Tươm da! Sạch sẽ thơm tho như vậy mới cóthể hầu khách được. Chứ đứng gần người ta mà hôi như cú thì họ gõ chai lên đầubiết không" Mà trông mày mặt mũi cũng sáng láng đấy. Có chữ nghĩa gì bỏtúi không? - Dạ, cháu đã đỗ xép-phi-ca(tiểu học) tháng sáu năm ngoái.
- Thiệt chứ? Trời, thằng này giỏi đa? Mớimười bốn mười lăm tuổi mà đã dỗ phi-ca thì giỏi lắm. Ờ, hồi tao còn con gái, cómột ông giáo phica chú ý đến tao, nhưng duyên trời không định: Chà, ngày xưa đỗphi-ca là đã nên ông nọ ông kia rồi. Khổ cho mày, gặp thời buổi loạn ly!... Thếba má cháu đâu?
- Dạ, ở xa lắm! - tôi đáp một cách miễncưỡng..
Thấy tôi không muốn nói, bà ta cũng thôikhông hỏi. Bà ta vốn là người khôn ngoan, lịch thiệp và từng trải, luôn luônđoán trước ý mọi người, biết lúc nào nên nói, lúc nào nên không và nên chấm dútcâu chuyện ở chỗ nào. Điều này, tôi nhận ra trong những đặc tính của bà ta chỉqua vài ngày sau thôi.
Kể ra thì khách rượu của quán rượu dì Tư Béokhông thiếu hạng nào. Những tay vô công rồi nghề, la cà ngồi tán dóc ốt ngàycũng có. Những người tản cư, cắm thuyền tạt lên uống chén rượu rồi quảy qua đingay cũng có. Bọn con buôn vào ngồi chỉ cốt lấy chỗ gặp gỡ, trao đổi luồng hàngđương khan hiếm và để kiếm món xào nướng khoái khẩu hơn là vì cần nên đôi khi,một vài người lính Cộng hòa vệ binh có tuổi lén rời chỗ trú quân vào làm mộtcốc rượu khan, trước khi ra khỏi quán cứ đưa ống tay áo chùi ria mép và dặn đidặn lại tôi: "Này, chú em, hễ có ban chỉ huy đến hỏi thì nói không có aitới uống rượn đây cả nhé! Nhớ nhé".
Chỉ trong vài hôm, tôi đã quen mặt hầu hếtnhững đệ tử Lưu Linh của xóm chợ này. Nhưng trong đám người thường lui tới đây,tôi chỉ đặc biệt chú ý có hai người.
Mộtlà lão Ba Ngù. Dường như lúc nào cũng có lão túc trực trong quán. Nói cho đúngthì lão ta cũng không phải là tay mạnh rượu. Nhưng lão có thể lai rai uống đượcốt ngày. Những chuyện tiếu lâm, những chuyện giang hồ mã thượng lão kể đi kểlại với mọi người, tôi nghe đến thuộc làu những vẫn thích nghe. Bởi mỗi lần kể,lão thường hay thắt thêm vào những chi tiết bất ngờ khiến tôi phải cười bò ra;hoặc cũng có một đôi chỗ mà lần trước kể dài dòng, lão đã biết khéo léo thu vénbỏ đi cho câu chuyện thêm tròn trĩnh, dễ nghe hơn. Những lúc đông khách, lãođứng dậy nhường chỗ cho người mới tới. Đôi khi lão còn bưng hộ bát thừa giúp bàchủ quán.
DìTư béo mến lão vì cái tài đưa chuyện và giữ khách không công của lão, nên thỉnhthoảng bà ta cũng đãi lão cút rượu kèm theo một con khô cá lạt nướng. Ai mờirượu. lão đều uống, không từ chối. Nhưng chỉ uống một chén con cho vui bụngngươi ta thôi. Không bao giờ lão uống đến chén thứ hai. "Mình là ngườibiết tự trọng. Mình có phải là thằng già nát rượu đâu? " Lão thường lè nhènói một mình như vậy. Cứ mỗi người một chén rượu mời, mỗi ngày đêm lão Ba Ngùcó thể uống tính ra đến một, hai lít? Lão luôn luôn cởi trần, áo chỉ dể vắt hờbên vai, bảo: "Để vầy cho nó mát". Lão chỉ mặc độc chiếc quần đùi: damặt, da lưng đỏ như cua luộc. Dường như bấm vào bất cứ chỗ nào trong thân hìnhlão cũng có thể chảy rượu ra ngay được...
Đó là người thứ nhất.
Ngườithứ hai là Tư Mắm. Không biết y ở đâu, tên thật là gì. Chỉ biết rằng y thườngchở mắm lóc, mắm trê đôi khi chở cả dừa khô và bí rợ trong một chiếc ghe lườnbán dọc theo các xóm bờ kênh, nên đồng bào gọi y là Tư Mắm. Còn người đàn bàchạc ba mươi tuổi mà Tư Mắm bảo là vợ y không mấy khi bước lên bờ. Có lần, tôinghe thấy lão Ba Ngù che tay lên miệng bảo với dì Tư Béo: "Chà, bộ thằngTư Mắm có ngải hay sao mà nó chài được con nỡm đẹp quá. Không phải vợ hắn đâu.Dứt khoát là không phải bà chị ạ."
TưMắm ngươi dong dỏng cao nước xanh mét, tóc cắt bom-bê, mái tóc trước trán rủxuống tận gò má bên phải. Đôi mắt y rất bé và sắc lạ lùng, tròng mắt đảo đi đảolại rất nhanh và không hề nhìn thẳng vào ai bao giờ.
Mộtbuổi sáng, lúc tôi đang bưng rổ tôm càng xanh từ chợ về thì nghe tiếng tàu bayvè vè từ hướng Sóc Trăng lượn đến. Người trong chợ xô nhau nhạy toán loạn.
Chiếctàu bay đảo hai vòng trên xóm Ngã Ba Kênh, bay rất chậm nhưng thật cao, nghiêngqua nghiêng lại quan sát rồi thả xuống một đống truyền đơn. Những tờ truyền đơntủa ra, bị gió cuốn đi bay về mạn rừng tràm cách chợ có đến vài ngàn thước.Không biết bọn giặc nói gì trong ấy. Nhưng khi tôi về đến quán thì gặp ngay lãoBa Ngù đứng chửi oang oang:
-Tổ cha thằng Tây. Mày đánh thì xuống đây. Chứ bay trên trời thả giấy xuống thìcũng chưa gọi là bảnh.
Lãoníu rổ tôm của tôi lại, hỏi:
- Mày có nhặt được tờ nào đút trong này không?
- Không - tôi đáp.
- Truyền đơn nó kêu gọi Việt Minh đầu hàng đấy!
- Sao bác biết? Bác nhặt được à?
- Nhặtđâu mà nhặt. Thằng Tư Mắm nó vừa bảo đấy. Cái thằng coi vậy mà nhát. Nó mớinghe hơi tàu bay một chút, đã xuống ghe chèo đi tuốt rồi!
Từđó đến chiều, gặp ai lão Ba Ngù cũng nói đi nói lại có bao nhiêu chuyện đó. Vàchuyện giữa người trong quán cứ xoay quanh vấn đề: "Tây sắp tiến công vàođây? Liệu chúng ta có chặn nổi không."
Vàolúc chạng vạng, trời bỗng nổi gió to. Tiếng sấm nổ chát chúa trên những vầngmây đen sì mỗi lúc như muốn xà thấp xuống ngọn cây. Mưa bắt đầu rơi lộp độpnhững hạt to và nặng trên mái lá. Nhưng chỉ ào qua một loạt rồi tạnh ngay. LãoBa Ngù đứng trước quán, nhìn theo những làn chớp kêu:
-Mưa đi ông! Muốn mưa thì cứ mưa đi. Sao cứ làm khó khăn cho người ta vậy?
-Nếu mưa to thì Tây còn chưa dám vào đâu, phải không anh Ba?
DìTư Béo lạch bà- lạch bạch như con vịt mái xiêm, ra đứng bên cạnh lão, vừa thởdài vừa hỏi phụ họa:
-Dứt khoát là mưa thì nó không dám tiến công. Nó toàn đi giầy, gặp đất trơntrượt ngã bỏ mẹ đi. Hồi đằng cựu (thời cần vương, văn thân khởi nghĩa) các ôngrải quả mù trên lộ, Tây đi ngã lạch bạch. Thế là dao, mác, mã tấu mình cứ xôngra chém nó như chém chuối!
Tôidọn rửa bát đĩa xong, không còn việc gì làm cũng ra đứng hóng chuyện bên lão.Bỗng nghe dưới kênh có người hỏi:
-Quán dì Tư có gì nhậu không?
-À thằng Sáu tuyên truyền - lão Ba Ngù kêu khẽ.
DìTư Béo tức thời quát tôi:
- Vàonhóm bếp lên. Con nít mà biết cái gì, lúc nào cũng chực nghe. - Và bà ta đápvọng ra kênh: - Vô khối! Còn vô khối?
Tôingồi trong bếp vừa nhóm lửa, vừa đưa mắt nhìn ra. Nghe tiếng xuồng cập bến,khua lộp cộp. Dì Tư Béo chạy vào cầm cây phất trần bằng cuống quài dừa nước quétlạch xạch trên bàn rượu. Chắc là có khách sộp đây Tôi nghĩ thầm như vậy, vìnghe lão Ba Ngù dạ dạ hai ba tiếng, bộ kính cẩn lắm. Rồi thấy anh Sáu tuyêntruyền mồ hôi mồ kê nhễ nhại, tay xách một bao cà rồng công văn giấy tờ, khomngười bước qua mái giọt, vào đặt phịch cái bao lên bàn. Lão Ba Ngù khệ nệ ômmột chiếc ba-lô to tướng rằng rịt những dây da, lấm lem bùn đất, thận trọng đitừng bước vào và sẽ sàng đặt lên chiếc chõng tre, cạnh cửa ra vào bếp.
Mộtngười đàn ông chạc hăm sáu hăm bảy tuổi, cao lêu nghêu, mặc bộ quân phục ka-kimàu rêu, thắt lưng da rộng bản, khẩu súng poọc-hoọc đeo trễ bên hông, tay xáchđôi giày vải, tay cầm chiếc mũ vải kiểu hướng đạo bước vào đưa mắt ngắm nghíamột vòng trong quán rồi thong thả kéo ghế ngồi xuống.
AnhSáu tuyên truyền giới thiệu với dì Tư Béo:
-Đây là ông Huỳnh Tấn, đặc phái viên của Tổng hành dinh Ủy ban kháng chiến NamBộ, ở miền Đông mới tới!
DìTư Béo chắp hai tay trước bụng cúi đầu chào, nói gì lí nhí trong mồm không ngherõ, chỉ thấy dôi môi run run một cách cảm động. ông khách đứng dậy, toét miệngcười, khẽ nghiêng đầu chào đáp lễ rồi nói cách thân mật tự nhiên:
- Kiến cắn bụng dữ rồi đây? Dì có gì cho chúng tòilàm ba hột cho đỡ đói cái đã...
LãoBa Ngù buột miệng đáp ngay:
-Còn nửa rá bún tươi. Có thể ăn với thịt bò xào lá cách. Còn nhậu thì... đâu nhưnhà còn mấy con tôm càng nướng, phải không bà chị? Mà rượu hôm nay không đặng ngon?
DìTư Béo gật đầu lia lịa:
-Muốn ăn cơm cũng được. Tôi chịu khó nấu. Chẳng mấy thuở mà! Bắt gà làm xé phayăn thôi.
Anh Sáu tuyên truyền vừa lau mồ hôi vừa nuốt nướcbọt, giọng sốt ruột:
-Dì muốn cho ăn thức gì cũng được. Có bao nhiêu cứ dọn hết ra đây. Nhưng phảigấp lên!
LãoBa Ngù lăng xăng giúp bà chủ quán pha ấm trà, đặt lên bàn mời khách. Anh Sáutuyên truyền bảo tôi đem cho ảnh một ít bún tươi, rồi ảnh rút trong bao cà-ràngra một cuộn giấy nhặt lấy hai tờ rộng khổ nhất úp lên bàn, bảo tôi xếp bún vào.
-Chà, có khẩu hiệu gì mới hả chú Sáu? - lão Ba Ngù tò mò hỏi.
- Phải. Vừa lĩnh trên quận về đây. Bác kê giúp cáighế cho tôi dán lên vách đi.
AnhSáu tuyên truyền đứng lên ghế, đưa tờ khẩu hiệu ngắm nghía cho cân bằng hai đầurồi từ từ dán vô vách lá. Dán xong một tờ, anh thong thả dán nốt tờ thứ hai.
Tôicầm đèn soi lên, nhìn trân trân vào những dòng chữ khắc gỗ in mộc bản mà tôi đãđọc nhiều lần trên các tờ khẩu hiệu dán đầy ở những nẻo đường tôi đã vượt qua.
Độc lập hay là chết !
Nước Việt Nam của người Việt Nam!
AnhSáu tuyên truyền lại lôi ra một tờ giấy khổ nhỏ in chữ chì, còn thơm phức mùimực ty-phô, dán vào vách ngang tầm mắt người ngồi ở bàn. Lão Ba Ngù lẩm nhẩm đánhvần:
-Khờ... ông... không, đờ.. i đi... Khô.ng đi lính chờ... o cho... Khôngđi lính cho giặc!
Đôi mắt tròn ra, nét mặt trang nghiêm, lão BaNgù lần lượt vừa đánh vần vừa đọc hết những khẩu hiệu như những lời thề viếtlên bằng máu:
Không đi lính cho giặc!
Không bán lương thực chogiặc!
Không đưa đường chỉ lốicho giặc!
Ai có dao dùng dao, có mác dùng mác, mỗingười dân là một người lính, mỗi thước đất là một chiến hào, sẵn sàng hi sinhbảo vệ nền độc lập cho Tổ quốc!
Đọc xong rồi, lão Ba Ngù lẳng lặng bước đếnchỗ móc áo lấy cái áo bà ba đen của lão giũ giũ mấy cái. Đoạn lão mặc vào, càicả cúc cổ cẩn thận. Lão cứ đứng nhìn lên những dòng chữ đỏ chói như máu kia,hai bàn tay vuốt đi vuốt lại những nếp áo nhăn nheo đã lâu không mặc tới.
Không biết có phải vì cơn gió to lúc nãykhiến lão bị lạnh, hay bởi lẽ nào khác tôi không được rõ. Chỉ trông nét mặt imlặng và cử chỉ trang nghiêm của lão thì tôi thấy giống như lão đang đứng bêngiường một ngươi bệnh thập tử nhất sinh. Kinh nghiệm ở những nơi khác thì vớitình hình này, chắc chắn là chỉ trong vòng một tuần lễ nữa thôi, giặc Pháp sẽtiến tới đây...
- Trời ơi, mày có bưng đĩa thịt bò ra giùmtao một chút không. Làm gì mà đứng chết gí ngoài đó vậy? - dì Tư Béo trong bếpeo éo gọi vọng ra.
Tôi giật mình chạy vào, suýt nữa ngã bổ xuốngngạch cửa. Lão Ba Ngù không vào giúp tôi một tay như mọi khi, lão lặng lẽ rađứng trước bến hút thuốc lá một lúc rồi bỏ đi đâu mất. ông Huỳnh Tấn và anh Sáutuyên truyền đói dữ. Chẳng mấy chốc mà hai người đã làm sạch rá bún và hai đĩathịt bò xào to tướng. ông Huỳnh Tấn vươn vai đứng dậy, co chân duỗi tay, cườihì hì:
- Từ sáng đến giờ, hai anh em thay nhau chèomột mạch, chẳng có hột cơm bỏ bụng ăn bữa bún ngon quá. Ước chừng còn một ránữa, chúng tới cũng ních hết?
Anh Sáu tuyên truyền quay sang hỏi dì Tư Béođang chấp hai tay trước bụng, đứng bên góc bàn hầu khách:
- Độ mấy giờ thì liên lạcở Thới Bình lên tới?
- Sớm thì cùng chín mười giờ. Trời đất này,ngược nước ngược gió, họ có thể lên khuya hơn... Các ông cứ ở lại nghỉ cho đỡmệt - dì Tư Béo dáng thong thả, có ý muốn cầm khách.
- Có gì nhậu, dì mang ra vứt đó cho chúngtôi! ông Huỳnh Tấn nói cách vui vẻ - Dằn bụng rồi, bây giờ có thể lai rai đượcchứ hả, đồng chí Sáu?
Tôi quạt than hơ lại mấy con tôm càng nướngsẵn, to cỡ cổ tay người lớn mà dì Tư Béo còn cất trong chạn.
Trong khi đó, anh Sáu tuyên truyền cầm đèn rasau quán ngắt mấy ngọn rau răm, còn ông Huỳnh Tấn thì giành với dì Tư để tự ôngta giã bát muối ớt cho vui.
- Bác Ba Ngù đi đâu rồi hả dì Tư? - Anh Sáutuyên truyền chợt hỏi.
- Ối có trời biết ổng đi đâu? Muốn đến thìđến, muốn đi thì đi.
- Nhậu mà thiếu bác thì không vui?
- Có tôi đây, chú Sáu lão Ba Ngù từ ngoài nóivọng vào May quá, chỉ lo về không kịp? - Lão Ba Ngù bước vào, đặt một lít rượutrong như mắt mèo lên bàn, xoa xoa hai bàn tay rồi đan mười ngón tay vào nhau,nghiêng đầu ngắm chai rượu:
- Tôi chạy vào tận xóm Tràm, nài lại của họđây. Không mấy thuở... Để khách xa uống không đặng ngon sẽ mang tiếng đất RạchGiá, Bạc Liêu mình!
Khi ba người đã ngồi vào bàn,sắp sửa rót rượuthì có bóng một người mặc quân phục màu đen, khoác ca- pốt, lom khom bước theoánh sáng đèn, đi vào quán. Tôi nhận ra ngay đó là anh phân đội trưởng Cộng hòavệ binh vừa về đóng quân ở xóm trên đã mấy hôm nay.
Ông Huỳnh Tấn bỗng xô ghế đứng dậy, đôi mắttròn thao láo nhìn anh phân đội trưởng, còn anh phân đội trưởng thì đứng sữnglại ở chỗ ngạch cửa mồm há hốc ra.
Hai người im lặng nhìn nhau, rồi cả hai cùnglao tới ôm lấy nhau, tay đấm đấm vào lưng nhau thùm thụp:
- Trời ơi, tao tưởng màychết rồi?
- Tao cũng tưởng mày chết rồi?
- Vậy ra không thằng nào chết cả...
Hai người cùng tranh nhau nói. Không còn nghecâu nào là của người nào. Những tiếng nói bằng giọng cường tráng sôi nổi vồ vậptuôn ra cùng với những tiếng cười vui vẻ mừng rỡ của đôi bạn tình cờ gặp lại,cứ xoắn lấy nhau.
- Sao nghe mày chết ở mặt trận Gò Công rồi?Ngồi xuống đây? - ông Huỳnh Tấn kéo ghế mời anh phân đội trưởng.
- Chết thế nào được? Ờ mình có bị thương ởVàm láng, Gò Công anh phân đội trưởng lột áo ca-pốt ném lên chõng, mở cúc áotrỏ vào vết sẹo trên ngực. – Xuyên trước trổ ra sau lưng, thủng một lỗ phổi cầmchiếc đũa thọc qua được. Bọt cứ tuôn ra phì phì. Cả máu cả bọt. Vậy mà chỉ hơntháng sau mình đã dậy, ra chỉ huy chiến đấu.
- Sức mày canông bắn cũngkhông chết - ông Huỳnh Tấn cười hì hì.
Anh phân đội trưởng bấy giờ mới ngắm nhìn ông Huỳnh Tấn từ đầu đến chân:
- Mày vừa tới đây à? Bây giờ chắc làm to lắm hả? Nhưng chưa quân sự lắm! Hãy còn cái mã của anh sinh viên
Anh phân dội trưởng bỗng nhếch mép không nhìn vào ông Huỳnh Tấn nữamà chỉ ngó ra ngoài trời tối đen một lúc rồi từ từ quay lại, giọng trầmhẳn xuống, hơi buồn, pha đượm ít nhiều chua chát:
- Nghe anh em báo là cậu có theo phái đoàn anh Giàu đi hội kiến vớiGờ-ra-xây Thằng Gờ-ra-xây bắt bỏ cậu vào bao bố nhận xuống cống Sài Gòn - chợ lớn chết rã thây từ cuối tháng mười năm ngoái mà?
- Ối! Anh em ghét mình, họ bịa ra họ nói vậy, chứ mình có đi hội kiến hội mối bao giờ. Mà họ ghét mình cũng phải thôi. Ông Huỳnh Tấn nói chậm rãi. - Chuyện còn dài, hẵng uống một cốc rượu mừng cái đã.
Lão Ba Ngù đứng dậy, tay phải ngửa ra, tay trái cầm chai rượu nút láchuối cắn vào mỏm, đặt chai rượu nằm xuôi trên lòng bàn tay phải, từ từxoay bàn tay úp xuống rót rượu ra cốc; khi cốc vừa đầy, lão nhẹ nhànguốn ngửa bàn tay đưa cổ chai rượu xốc nghiêng lên. Dòng rượu nhỏ vàthanh như bị sợi chỉ cắt đứt khỏi miệng chai, tụt xuống mặt cốc đầy, làm sủi bồng mấy cái tăm nhỏ chạy vòng quanh...
Lão rót luôn bốn cốc, đều tăm tắp như vậy, không hề nhểu ra bàn một giọt rượu nào.
- Trời... ơi. Ông già róc rượu đẹp quá! Như nghệ sĩ biểu diễn ấy - ông Huỳnh Tấn kêu lên.
Lão Ba Ngù vuốt cặp ria, đặt chai rượu xuống bàn:
- Nói các đồng chí tha lỗi, chứ tôi khổ sở và hết nghiệp vì rượu mớichỉ học được cái trò này. Đã uống rượu thì phải biết rót rượu, sao đừngcho giọt phí giọt phạm nào rơi vãi xuống bàn. Cũng như người lính cầmsúng, phải bắn bách phát bách trúng, bắn sao cho đừng trật một viên. Chớ để một thằng Tây nào chạy. thoát!
Anh Sáu tuyên truyền cười ha hả:
- Bác Ba bữa nay xuất khẩu thành văn. Vô ban tuyên truyền công tácvới tôi đi, cha nội!... Các đồng chí thấy chưa, ngán dân đất. Chắc-băngnày chưa? Rượu chưa vào mà lời châu ngọc đã tuôn ra rồi!
Dì Tư Béo vừa cười múm mím vừa cắt chanh ra vắt rưới lên mấy con tôm càng nướng bóc vỏ.
- Bà chủ uống với chúng tôi một ly cho vui ông huỳnh Tấn hai tay bưng cốc rượu lên đưa sang mời dì Tư Béo.
Dì Tư Béo lắc đầu quầy quậy:
- Tôi xin vô phép các ông. Tôi không uống được mà. Để tôi đi lo chocác ông nồi cháo gà dằn bụng (ăn lót dạ). Để buổi khuya đi đường.
Bốn người chạm cốc, uống cạn. Họ hút thuốc lá và thổi khói ra um nhà. Rượu được vài tuần, ông Huỳnh tấn bắt đầu dặng hắng nói:
- Đây toàn đồng chí anh em cả thôi. Chẳng ai xa lạ gì mà phải giấu.Anh em họ không rõ, họ ghét mình là chuyện tất nhiên thôi. Mình chẳng có đi hội kiến với thằng ra-xây đâu, mình là cái thá gì! Vả lại, nói chođến cùng, nếu cần bảo vệ các anh lớn. thì dẫu vào hang cọp mình cũngchẳng từ nan... Mình có đi làm cận vệ, người cận vệ độc nhất, đưa anhGiàu đi gặp thằng đại tá Nhật ở đình An Lạc để bàn về các thể thức chuẩn bị gặp thằng ra-xây. Thằng giặc già này nó lập kế hoãn binh để chờ tiếp viện, trong khi các sư đoàn quân cách mạng của ta vẫn còn vây đặc chung quanh Sài Gòn-Chợ Lớn. Tất nhiên là sau đó cuộc hội đàm ở khu nhàHuibonhoa trong Chợ Lớn chẳng đem lại kết quả nào. Có thể nói anh em còn thật thà, chứ không phải ngán gì nó đâu.
Anh phân đội trưởng chành môi ra, không biết anh cười hay không cười, chỉ thấy đôi cầu vai rung rung.
- Không ngán mà lại toan đình chiến với chúng nó?
- Anh em nhiều người đã nói và nghi như cậu. Ông Huỳnh Tấnnói chậm rãi, giọng ôn tồn. - Trong lúc toàn thể dân chúng quyết xông ra bóp chết bọn giặt xâm lược mà nói đình chiến thì ai mà không ức? Có thể nói các tướng lãnh của mặt trận Sài Gòn - Chợ Lớn không ai chủ trươngvậy đâu!
- Không chủ trương, không tán thành mà có cuộc hội kiến ấy? - Anh phân đội trưởng nhỏm dậy, nói cắt ngang.
Ông Huỳnh Tấn lặng thinh, tự rót rượu cho mình, cầm cốc lên uống từng ngụm nhỏ. Nét mặt của ông trở nên đăm chiêu, rắn rỏi lạ. Dường như ôngkhông phải là con người liến thoắng vui tính như khi mới bước vào quánlúc chập tối. Ông nói:
- Nóng làm gì. Thong thả mình kể cho cậu nghe. Một lần nữa, mìnhkhẳng định không ai chủ trương đình chiến. Bằng cớ là trong hội nghị các tổng lãnh của mặt trận SÀI Gòn - Chợ Lớn tại Tổng hành dinh của Uỷ bankháng chiến Nam Bộ tại chợ Đệm...
- Có những ai nào - anh phân đội trưởng bấy giờ mới ngồi xuống ghế, chăm chú nghe.
- Đông lắm? Mình không nhớ hết... Tất nhiên là có anh Trần Văn Giàu,anh Huỳnh Văn Tiếng, anh Từ Văn Ri, anh Hai Râu, anh Nguyễn Lưu, anhMười Trí, anh Tư Tỵ và anh Ba Dương. Cậu nhớ Tư Tỵ không? Trời ơi, cóthể nói cha ấy là một ác-xơ nan(kho vũ khí), khắp người đeo đầy vũ khí.Nào dao găm, súng lục, nào gươm Nhật... lại đeo ống nhòm, đội nón sắt,mang ghệt, đi giày đinh. Tư Ty giữ mặt trận Bàn Cờ - Chợ Đủi ấy mà!
- Nhớ rồi Khi mình rút xuống Mỹ Tho, còn nghe nói anh Nguyễn Lưu lãnh đạo công đoàn nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn đánh nhiều trận sướng lắm,phải không?
- Ừ. Nguyễn Lưu nói làm gì nữa? Dân Côn Đảo về mà!
- Nói ngay chỗ cuộc hội nghị ấy nghe nào?
- Lúc đang họp anh Ba Dương đi một chiếc tàu sắt từ Bình Xuyên đitới. Cậu biết Ba Dương chứ? Xưa nay vẫn vậy Thủ lãnh Bình xuyên, dần anh chị mà lúc nào cũng khiêm tốn, ôn hòa, ít nói. Trong cuộc họp, Ba Dương chỉ lặng lẽ ngồi nghe, hai tay tì vào thành chiếc bàn tròn vòng gõ, mặt cẩm thạch, thứ mặt bàn lúc nào cũng lạnh như nước đá ấy. Mọi người bàncãi lung tung việc nên ngừng bắn hay không ngưng bắn. Đợi cho mọi ngườingớt tiếng, bấy giờ anh Ba Dương mới đứng dậy, thong thả rút trong túiáo bành tô ra một chai, đặt cộp xuống giữa mặt bàn. Biết gì không? Trờiơi, chai toàn là những ngón tay ngâm rượu. Anh nói: "Đây là ý kiến củaanh em Bình Xuyên phát biểu với hội nghị, khi nghe nói có lệnh đìnhchiến. Rồi anh nghiêm giọng, tiếp: "Họ chặt ngón tay thề trước bàn thờTổ quốc, trước ảnh Cụ Hồ là nhất định đánh đến cùng... Các anh ra ngoàikia mà coi chiếc tàu của tôi. Tụi Tây ở Rạch Kiến nó bắn tôi như vậyđó.”
- Thế còn đi hội nghị với Gờ-ra-xây làm chó gì nữa? - Anh phân đội trưởng vung tay, nói như quát.
- Đi thì đi, còn đánh là đánh. Hai vấn đề khác nhau. Vấn đề chủ yếulà đánh. Mình kể cho cậu nghe vừa rồi đó. Anh em có ai rút lui đâu? -Ông huỳnh tấn còn định nói điều gì nữa đó, chừng như sắp nói một câuquyết liệt lắm thì phải, nhưng ông lại thôi, mặt lầm lầm, móc thuốc lára đốt một cách bực dọc.
Anh phân đội trưởng chấm đầu ngón tay trỏ vào rượu vẽ vẽ lên mặt bàn. Còn anh Sáu tuyên truyền và lão Ba Ngù thì ngồi đưa mắt nhìn nhau. Tôithấy mọi người im lặng, tự nhiên mình cũng đứng ngây ra, không dám độngcựa. Trong quán chỉ còn nghe tiếng củi nổ lép bép và tiếng nước sôi reođều đều sau bếp. Lâu lâu, trời lại chớp lên một cái. Mặt nước dòng kênhsáng rực trong ánh chớp. Những đầu ngọn cây tràm và chiếc xuồng khôngđang buộc bên kia bờ hiện lên xanh biếc, dường như trời đất cỏ cây vànhững ngọn sóng lăn tăn không ngớt vỗ nhẹ đôi bờ kia thảy đều rung rungtrong sắc xanh kỳ ảo, mắt người chưa kịp trông rõ đã biến mất vào bóngtối.
Một giọng hát buồn của anh thanh niên nào đó, đang thả thuyền trôi theo dòng kênh, nghe mỗi lúc một gần.
Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi... Phòng vắng...
Lão Ba Ngù tức thời đứng dậy, bước thình thịnh ra ngoài.
- Ê ghe ai chèo lạc xạc đó. - Lão hỏi.
Dưới thuyền có tiếng đáp:
- Đi chở củi về đây, ông nội. Xét giấy hả?
- Dưới ghe có ai bệnh sắp chết phải không? - lão Ba Ngù lại hỏi, giọng cay độc.
- Có ai bệnh gì đâu! đừng có trù mạt.
- Hừ vậy mà tưởng thằng nào đang mắc dịch mắc gió gì dưới ghe đó chớ. Bộ sắp chết sao mà rên khừ khừ vậy? Bây giờ không phái là lúc hát cáigiọng mèo ướt đó nữa a, nghe chưa?
Không có tiếng trả lời. Tiếng chèo khua mỗi lúc một xa. Lão Ba Ngùthở phì phì, bước vào quán cởi áo ra ném bên chõng cái xoạch. Anh Sáutuyên truyền liếc sang ông Huỳnh Tấn và anh phân đội trưởng, cố níncười. Khi thấy hai người này cũng đang nhịn cười như mình, anh Sáu tuyên tuyền không nín nổi nữa, bèn phì một tiếng và một tràng cười ha hả vụtnổ ra.
- Chú Sáu, chú cười tôi cái gì? - lão Ba Ngù toan ngồi xuống ghế lạithôi, mắt lão dán vào đôi môi đang cười rung rung trong ánh đèn đỏ khécủa anh Sáu.
- Ha ha ha... Ai cười gì bác đâu?
- Bộ lão già này nói bậy à? Hừ, chú làm tuyên truyền chú há chẳngbiết "Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách" sao? Nước nhà còn mất, đến một thằng mẹ rượt (đồ bỏ đi) như lão đây cũng còn có trách nhiệm mà.
Bây giờ thì ông Huỳnh Tấn, anh phân đội trưởng và dì Tư Béo vừa ở bếp quệt mồ hôi trán bước ra cũng đều cười lên thành tiếng. Khi lão Ba Ngùhiểu ra rằng đó là những tràng cười tán thưởng, lão bèn vuốt ria quaymặt vào trong tối lảm nhảm một mình:
- Ờ có hơi lố bịch một chút! Nhung tôi già rồi, thấy đâu thì nói đó vậy thôi. Nào, bà chị đã cắt tiết gà chưa? Tôi giúp một tay.
- Thôi, cám ơn. Cháo sắp dọn ra được rồi đấy! - Dì Tư Béo nói bằnggiọng thanh thanh kéo dài làm duyên kiểu như còn trẻ. Bà ta sễ sàng xắntay áo lên, bàn tay béo núc cầm chai rượu róc liên tiếp ra bốn chiếccốc.
Bốn cốc rượu róc bồng mắt thỏ đều tăm tắp, xếp một hàng ngay ngắndưới ánh đèn lung linh, tưởng như rượu sắp tràn cả ra ngoài nhưng tuyệtnhiên không hề thấy có một giọt ướt nào rơi xuống mặt bàn...
Đêm hôm đó, mãi đến mười hai giờ khuya vẫn không thấy xuồng liên lạcdưới Thới Bình lên. Ông Huỳnh Tấn sốt ruột không chờ được nữa, bèn cậyanh Sáu tuyên truyền tìm người đưa ông đi. Lão Ba Ngù xung phong nhậnlãnh chiếc tam bản của anh Sáu tuyên truyền chèo đưa ông Huỳnh Tấn. Anhphân đội trưởng lâu ngày gặp bạn cũ, vẫn còn nấn ná ở lại hàn huyên mãicho đến lúc chia tay. Còn dì Tư Béo thì chẳng những dứt khoát không nhận món tiền bữa rượu, lại còn biếu ông Huỳnh Tấn và lão Ba Ngù mỗi ngườimột đòn bánh tét nhân tôm thịt mang theo lót dạ dọc đường.
Tôi thu dọn bát đĩa xong, vừa hạ cánh liếp xuống thì nghe tiếng Tư Mắm hỏi vọng từ dưới bến:
- Quán còn thức hả, chị Tư?
- Còn thức. Nhưng mà chẳng có gì ăn đâu. - dì Tư .
Tư Mắm đã lên bờ, tự tay chống cánh liếp cửa, vào quán cầm đèn ra soi xuống bến cho mụ vợ hắn bước lên.
- Chào dì Tư? Khuya rồi mà chúng tôi còn làm phiền dì quá - vợ Tư Mắm chúm chím cười, nói một câu lấy lòng bà chủ quán, đoạn từ tốn nhấc ghếra, rón rén ngồi xuống.
Đúng như lão Ba Ngù nói, cứ trông hai người này, khó ai tin rằng họlà một cặp vợ chồng. Tư Mắm thì vừa hôi vừa bẩn, vừa hà tiện lại vừa vũphu. Còn mụ vợ hắn tuy ăn vận mộc mạc ra vẻ một người lam lũ, nhưng từcách nói năng cho đến dáng đi, cách đứng thì rõ là người hạng phong lưuđài các. Thấy tôi che tay lên miệng ngáp, mụ ta vỗ vỗ nhẹ vào lưng tôi:
- Chịu khó thức một chút. Rồi qua cho tiền sáng mai ăn bánh.
Tư Mắm xuống thuyền xách lên một chai cột nhà vuông (Một loại rượumạnh của pháp) và một xâu cua biển. Hắn đi thẳng vào nhà bếp, vất xâucua xuống cạnh lò, mắt đảo một vòng ra tận sân sau. Tôi đi sau lưng hắn, thấy vậy bèn hỏi:
- Chú kiếm rổ hay cái gì, bảo tôi lấy cho.
- À Không - Tư Mắm giật mình quay lại. - Qua coi nhà còn gì nhậu được nữa không thôi mà - Rồi hắn cầm chai rượu ra, rủ rỉ với dì Tư Béo đangloay hoay cầm khăn lau cốc bên bàn: - Nấu nồi cháo cua ăn chơi đi, dìTư.
- Cháo cua làm gì. Nhà vừa nấu nồi cháo gà cho mấy ông khách. Họ chỉhúp mấy người vài muỗng, vì trước đó đã ních hết rá bún rồi, còn ăn uống gì nữa. Trời, nồi cháo gà nấu đậu xanh, ngọt lắm. Để hâm nóng lại thôi. - Dì Tư Béo miệng nói, tay khoát ra hiệu bảo tôi vào nhóm bếp lò.
- Vậy thì nướng vài con cua nhá chơi còn bao nhiêu biếu dì - Tư Mắm đảo mắt nói. Rồi hắn hỏi trống không:
- Chà khẩu hiệu ai mới dán đây nhỉ?
Dì Tư Béo không đáp. Tính bà ta vốn như vậy, ai hỏi riêng bà thì bànói, không thì thôi. Mụ vợ tên lái buôn cau mắt nhìn hắn một cái, từ hai trong con ngươi phát ra những tia sáng quắc, nhọn như những mũi kim.Nếu tôi không chú ý mụ từ trước, thì không thể nào bắt gặp cái lườm dữdội trong thoáng chớp ấy. Tư Mắm tức thời cười hề hề, nói lảng:
- Chèo rã cả tay mà bữa nay chẳng bán được mấy. Chỉ toàn bán chịu cho vài người mới quen.
Mụ vợ hắn hỏi xin quả chanh và một thìa đường trắng, rồi tự tay rótthứ rượu tây của mụ ra cốc, cho đường vào, hâm nóng cốc rượu trong bátnước. Rồi sau khi đã thả vào cốc một lát chanh rồi cầm cái đĩa đậy lên.
- Cháu không biết uống rượu đâu? Mụ cười chúm chím ngó dì Tư - Thuốcgiải cảm đấy. Đi nhiều, mệt, uống một cốc này nó ra mồ hôi, khỏe ngườilại ngay.
Tư Mắm ngồi hút thuốc phì phèo. hắn lại hỏi dì Tư:
- Ờ lúc nãy thấy bác Ba Ngù chèo tam bản đưa ông nào đi đâu vậy, hả dì?
Dì Tư Béo nhướng lông này, làm mặt quan trọng. Bà ta không nhìn TưMắm, nghiêng người xuống gần bên con mụ vợ hắn, ngón tay trỏ đặt ngangmồm:
- Đừng có lộ bí mật nhá. ông ấy lớn lắm đấy. Cấp Nam Bộ mà! Chà, ôngkhỉ gì, quên rồi. Đoạn bà ta quay vào cửa bếp hỏi tôi: - Ông hồi nãylàm chức gì, mày nhớ không?
Tôi không muốn trả lời, nhưng buộc lòng phải đáp cho có đáp: - Cháu không nghe nói.
- Ối! Nó con nít, biết cái gì mà gì hỏi nó - Tư Mắm cười hề hề, nhịp chân rung đùi.
Mụ vợ Tư Mắm ngó ra bến, liếc hắn một cái, thong thả đưa bàn tay ngón búp mang vén mớ tóc mai:
- Bán mấy chỗ mà không ghi chép cả. Mai mốt đây quên đi, làm sao đòi được. Khó quá?
Mụ móc trong túi ra quyển sổ con và cây bút máy, đặt lên bàn. Tư Mắm rời ghế đứng dậy, bước ra ngoài tối.
Nghe hắn nói vọng vào: "Khuya rồi mà không mưa được oi bức quá. Đứngđây một chốc cho mát. Dì Tư, hễ được cháo thì dì nhấc ra, nướng luôn vài con cua, nghe dì!
Thấy tôi lại ngáp, dì Tư Béo bèn bảo tôi xuống chiếc thuyền mui ốngcủa dì vẫn đậu trong mương, đi ngủ trước đi. Mụ vợ Tư Mắm vẫy tôi đến,giúi vào tay tôi tờ giấy bạc năm hào. Tôi không lấy, đặt trả lên bàn...
- Cầm đi mà? - con mụ cười cười, nhìn tôi có hơi ngạc nhiên.
- Ối! Nó không lấy thì thôi, kệ nó? Thằng này có phải như người ta đâu? - dì Tư Béo nói có ý bực tức vì tiếc hộ cho tôi.
Tôi bước ra ngoài, không nghe bà ta nói gì về mình nữa bèn đi thẳngra mương chui xuống thuyền, rúc vào nóp (Một loại bao đan bằng cỏ bàng,một loại cỏ có nhiều ở đồng tháp dùng tránh muỗi thay màn). Muỗi vo vekêu dậy trong những lùm cỏ rũ ngọn xuống hai bờ mương. Tôi tưởng nằmxuống là đánh một giấc thẳng cẳng, hóa ra lại không ngủ được.
Không hiểu sao cái lườm của mụ vợ Tư Mắm cứ như xoáy vào óc tôi,khiến tôi sờ sợ. Chưa bao giờ tôi thấy một người đàn bà nói năng mềmmỏng, nhỏ nhẹ mà lại có đôi mắt lạ lùng, vừa đẹp, vừa đáng sợ như vậy.Các bà bán cá trong chợ cãi nhau nhưng lúc giận dữ, mắt long lên sòngsọc vẫn không có nét gì đáng sợ như mắt con mụ này....
Độc lập hay là chết!
Nước Việt Nam của người Việt Nam !
Những dòng chữ rắn rỏi khắc gỗ in mộc bản trên các tờ khẩu hiệu màanh Sáu tuyên truyền vừa dán vào vách từ chập tối bỗng lại hiện ra, nhảy múa trước mắt tôi.
Trong tai tôi nghe mơ hồ nhạc điệu buồn buồn của tiếng gió phẩy độngngọn dừa nơi một làng quê xa nào đó ở tận Tiền Giang mà tôi không cònnhớ rõ... Tôi lại thấy ông Huỳnh Tấn toét miệng ra cười. Gương mặt ôngđang cười bỗng tối sầm lại. "Anh em có ai rút lui đâu? Tiếng muỗi vo vemỗi lúc một xa dần. Tôi thiếp đi lúc nào cũng không hay biết nữa.
Danh sách chương