Dòng sông Năm Căn hơn haitháng trước còn ồn ã khua động tiếng mái chèo xuôi ngược, giờ đã trở nên lạnhngắt, vắng teo. Thuyền bè rút mãi theo các đường kênh rạch nhỏ, chạy sâu vàorừng cho dễ đánh du kích, tiêu hao sinh lực địch. Quán lều dỡ đi theo, lùi vàotận trong "đớn". Lò than bỏ cho các loại dây rừng bò kín nóc. Cáo cầytha hồ dắt nhau làm tổ trong những đống củi gỗ đước cao như núi chất ngoài sânlò, mọc đầy nấm dại.

- Hừ! Thằng Tây mới tới Năm Căn hơn hai thángthôi. Vậy mà gần chục mạng người đã hy sinh! Hai anh du kích diệt được khánhiều Tây và lính ngụy vừa bị nó bắt và bắn chết, buộc xác phơi ở chỗ gốc câymắm gần bờ sông chiều hôm qua... Bà con trong chợ đến cướp xác hai anh em vềchôn, bị nó bắt đánh một trận gần chết, bữa nay còn giam trong đồn!

Ông già thợ đốn củi nói đến đây ngập ngừngcúi xuống cời lại đống hun. Khói cay nồng, đặc sệt từ đống hun ngùn ngụt bốclên, tỏa trắng khắp gian lều. Bầu không khí ẩm ướt từ trong ngôi lều của chúngtôi như quánh lại, ngột ngạt đến tức thở. ông lại ngẩng nhìn tía nuôi tôi, nóitiếp.

- Như vậy là hết đất rồi. Chỗ nào cũng cóthằng giặc. Chí như cái Hòn Khoai ngoài biển kia mà nó còn mò tới đóng đồn! Vậythì mình cũng phải làm thế nào chứ, anh Hai? Tía nuôi tôi cứ gật gù im lặng ngồi nghe. Khiông già đốn củi ngừng nói, với tay rứt một dúm thuốc trong cái ống bơ nhồi vàotẩu, tía nuôi tôi bèn cầm chai rót thêm rượu vào bát:

- Uống đi, ông bạn!

- Trời ơi, bộ anh Hai muốn tôi "mượn tửubinh giải phá thành sầu à?"

Ông già nhếch nụ cười móm mém, đưa tay đỡ bátrượu.

- Chẳng qua đó là cái thói tật không bỏ đượccủa anh em bọn mình đấy thôi! Chỉ có chúng ta mới giải phá được thành sầu này,chứ cái thứ tửu binh... thì nó chỉ quật cho mình say mèm, nằm đó đợi giặc đếntrói cổ dắt về đồn thôi.

Đôi bạn già ngồi xếp bằng trên một tấm đăngtrải giữa nhà cùng cười lên mấy tiếng và chuyển bát rượu cho nhau mỗi người tợpmột ngụm. Tiếng cười khành khạch gượng gạo của ông già đốn củi có lẽ cũng làmlây đôi chút buồn sang cho tía nuôi tôi. Cả hai người cùng im lặng, đưa mắt ngóra ngoài. ánh nắng trời chiều xuyên qua những tầng lá đước rậm rạp, chiếu xuốngmặt đất lầy ngoài bờ bên kia con rạch nhỏ một màu xanh tai tái. Gió từ biểnkhơi thổi tới, hun hút lùa qua những vòm lá đước tối om, thốc mạnh vào lều làmcho mái lá rung lên và ngọn lửa cháy lép bép trong đống củi hun bỗng phụt sángđỏ ngòm... Cứ vài hôm lại có một ông khách tạt vào lều uống vài chén rượu vớitía nuôi tôi. Có người tôi quen, có người tôi chỉ biết mặt chứ không rõ tên.Đôi khi cũng có một vài người lạ mà tôi đoán chừng là bị giặc càn chạy tới đây.

Những lần đầu, tôi còn thường la cà bên tíanuôi tôi, lắng nghe câu chuyện giữa những ông già trao đổi với nhau qua chénrượu suông, nhưng mãi rồi tôi cũng không chú ý nữa. Quanh đi quẩn lại, vẫn làchuyện bọn giặc ruồng bố, càn quét. Họ rất căm thù bọn giặc ở đồn Năm Căn,nhưng nghe cái giọng rượu lè nhè của họ, tôi biết rằng họ chỉ có thể mượn rượuđể nói ra cho hả một lúc vậy thôi. Thậm chí có một ông nom còn trẻ tráng, gọitâng tía nuôi tôi là bác, mà cũng thở ra cái giọng bạc nhược của những lão giàcổ hủ, một hai tin rằng sự xuất hiện con kỳ đà kinh khủng nơi đồng mả mấy thángtrước là điềm trời giáng tai họa cho dân xứ này. Sau những bữa rượu như vậy,tiễn khách đi rồi, tía nuôi tôi thường đứng rất lâu một mình ngoài bờ cỏ. ônglắng nghe tiếng ca-nô giặc chạy tận ngoài sông Cửa Lớn, hay nghĩ gì về nhữngcâu chuyện của các ông bạn già thì không rõ, nhưng tôi thường thấy ông khoátkhoát tay làm những cử chỉ bực tức khó chịu. Mỗi ngày tía nuôi tôi lại một thêmlầm lì, ít nói.

Có khi ông ngồi lặng lẽ hàng giờ bên đống củihun, như một gốc cây khô giữa rừng, đến nỗi tôi và thằng Cò đứa nào cũng lenlét không dám đi mạnh chân. ông thường bỏ nhà đi luôn. Chẳng rõ đi đâu. Nhiềulúc đi hai ba hôm mới về. Má nuôi tôi rất lo. Cơ sự này thì ông lão đến quẫnchí mất. Nhưng mỗi lần tía nuôi tôi trở về, tôi lại thấy ông tỉnh táo và vui vẻhơn trước. Có khi ông còn cầm về cho tôi và thằng Cò một vài thứ quả lạ, màu đỏóng, có những chấm li ti xam xám rất đẹp mà ông bảo là chỉ để cầm chơi chứkhông ăn được. Chà, có thứ quả rừng nào mọc ngoài bờ sông và trong những khurừng chung quanh đây lại có thể lọt khỏi con mắt của tôi và thằng Cò? Thế mà cảhai đứa chúng tôi đều chưa hề trông thấy những thứ quả tía nuôi tôi cầm về.

- Tía lấy quả này ở đâu vậy, tía?

- Ngoài xóm kia thôi...

- Xóm nào vậy tía?

- Xóm ngoài chứ xóm nào. Con sao cứ lục vấnmãi...

Tôi lặng im không hỏi nữa. Thằng Cò tưởng ôngmệt mà tôi cứ đeo hỏi mãi làm ông bực, nó bèn lôi tôi đi bắt mồi câu cá. Ở nhàđược vài hôm, tía nuôi tôi lại sắm sửa đi. Ông soạn mấy bao diêm, một cái xoongnhôm và hơn chục lít gạo bỏ trong bao cà-roòng. Điều đó càng khêu gợi thêm sựtò mò trong tôi bấy nay một cách mãnh liệt, khiến tôi không nén được ý định:phải dò xem tía nuôi tôi đi đâu và làm gì? Cũng như mấy bận vừa rồi, tía nuôitôi lấy xích buộc con Luốc vào chân cột cẩn thận, rồi sai bảo tôi và thằng Còđi làm một công việc gì đó, hoặc chờ đúng lúc chúng tôi vắng mặt, ông mới đi.Tía nuôi tôi đã sắm sửa xong rồi. Chẳng đợi ông bảo, tôi cầm con dao bước racửa, còn quay lại nói vọng vào bếp:

- Má ơi, con ra ngoài bờ sông chẻ mớ lạt dừanghe má!

Tía nuôi tôi "ừ" đáp thay cho mánuôi tôi, ông còn cười cười nhìn tôi bằng con mắt khuyến khích. Tôi cầm dao mentheo bờ rạch, đi tới một chỗ ngoặt bèn chui ngay vào núp trong một bụi sậy umtùm. Từ nơi trú ẩn này, tôi có thể nhìn rõ mọi hướng chung quanh. Ngồi chưa yênchỗ, tôi đã thấy tía nuôi tôi quẩy bao cà-roòng lên vai lững thững bước ra sân.ông còn đứng giữa sân giũ chiếc khăn rằn bịt lên đầu, quay qua quay lại chungquanh rồi mới lẩn ra bờ rạch. Tôi nén thở, cúi thấp đầu xuống gối, không dámđộng cựa. Lâu lắm mà vẫn không thấy ông đi qua chỗ tôi. Như thế này thì dứtkhoát là tía nuôi tôi đi vào hướng rừng trong kia rồi. Tôi nhảy ra khỏi bụi,chạy về. Chưa vào tới cửa, tôi đã hỏi giật giọng:

- Má ơi, tía con đâu? Ông đi rồi hở má?

Má nuôi tôi bước ra, "ừ" một tiếng:

- Mày hỏi ổng có việc gì? Sao hồi ổng còn ởnhà mày không hỏi, để cho ổng đi rồi mới chạy tìm cuống lên vậy?

- Tía có nói đi đâu không, má?

- Không. Mày còn lạ gì tính của tía mày nữa. Ổngđã không muốn nói thì hỏi ổng làm gì, hở con?

Má nuôi tôi nói giọng buồn buồn, có hơi giậndỗi. Tôi chạy vào mở xích thả con Luốc ra sân. Rồi tôi bước đến, cầm tay mánuôi tôi:

- Con đi theo tía đây. Theo coi tía đi đâu.

- Ổng đập mày chết đấy. Ổng đi đâu mặc ổng,theo làm gì? Đến như tao mà ổng còn giấu, không nói thay...

- Đúng rồi! Như vậy là đúng rồi. Con đã biếtđúng là tía con đi đâu rồi!

- Ổng đi đâu?

Tôi ghé vào tai má nuôi tôi, thấp giọng:

- Ổng đi vô chơi với mấy anh du kích trongrừng! Má không thấy tía con mang theo nào diêm, nào gạo, cả cái nồi nữa đấysao?

Má nuôi tôi lùi lại một bước, tròn xoe mắtnhìn tôi:

- Ai nói với mày vậy?

- Con đoán vậy thì biết chớ đợi gì phải nghe ainói!

- Ờ, mày nói không chừng phải đấy. Tao cũngnghĩ mang máng như vậy. Từ hôm ổng nhặt cái quả gì ở đâu về cho chúng mày đấy.Bà Tám ngoài xóm có bảo nhỏ với tao rằng: nghe đâu anh em bộ đội đằng mình cònẩn trong rừng. Bả còn nói họ rách lắm. Nghe vậy, thì để bụng thôi, đừng có hởra cho ai nghe con!

- Má còn phải dặn! Thôi, để con vào gọi thằngCò dậy đi với con.

Má nuôi tôi nắm tay tôi, lôi lại:

- Không được! Không được đâu. Con đi một mìnhthôi. Có con Luốc theo con là đủrồi. Cái miệng thằng Cò hay bép xép lắm!

Mánuôi tôi vội vã quay vào, soạn trong rổ may lấy một ống kim khâu và mấy cuộnchỉ, gói vào mảnh giấy nhật trình cũ, nhét vào túi áo tôi:

- Nhànghèo chẳng có gì... Con vào gặp các ảnh, nói là của má gởi biếu... Đi cẩn thậnnghe con.

Tôigật đầu, huýt sáo một tiếng. Con Luốc nhảy phóc theo chân tôi, chạy dọc theo bờrạch ăn sâu vào rừng. Cứ men theo dấu chân tía nuôi tôi, tôi vừa đi vừa dắt conLuốc chạy ộp oạp trên bờ đất sình lút ngang ống chân. Đi độ hai ngàn thước thìmất dấu. ở đây, hãy còn có nhiều vết chân của những người lội vào rừng bắt cua,bắt vọp. Những vết cũ lội từ trên bờ xuống rạch đã được phủ một lượt phù samỏng khi triều xuống rất dễ phân biệt với dấu chân mới của tía nuôi tôi. Tôilội ngay xuống rạch, ngược theo dòng nước gợn bùn vẩn đục ngầu từ trong rừngchảy ra, mải miết bươn ra. Con Luốc cứ kêu ư... ử... trong cổ, dường như muốngọi tôi lên mà mãi không thấy tôi lên, nó bèn co giò phóng tùm xuống nước, lộixộn xộn sát theo tôi.

Càngđi sâu vào rừng, lòng rạch càng hẹp lại. Nhiều quãng bị cành lá rậm rạp trêncây che phủ, bóng nắng không lọt xuống tới, khiến cho dòng nước tối om om,trông rất dễ sợ. Tôi vẫn mải miết đi tới. Chừng nửa giờ sau thì thấy mất nhữnggợn nước vẩn bùn, mà trông hai bên bờ lại chẳng có một vết chân nào lội lên.Nhìn những cánh tay đước từ trên bờ tua tủa thò xuống lòng rạch, tôi nghĩ có lẽtía nuôi tôi đã lợi dụng những cái rễ to lớn này làm cầu trèo lên cây, đi lênbờ rồi. Quả nhiên con Luốc vẫy đuôi lia lịa, làm bùn và nước bắn tung tóe vàomặt tôi. Lập tức tôi bám theo cái rễ ấy, trèo ngay lên cây. Nhìn xuống phíadưới chân, chỉ thấy những cọng rễ đước xám ngắt chung quanh tua tủa cắm xuốngmặt bùn phẳng lì. Con Luốc cứ đứng dưới gốc cây ngửa cổ lên chực sủa. Tôi phảisuỵt suỵt luôn mồm, nó mới chịu im. Không lẽ tía nuôi tôi đến đây biến thànhchim bay mất hay sao?

Màlại không có vết chân tụt xuống chung quanh gốc. Vậy thì dứt khoát là ông đãlần theo những cái rễ đước to lớn, xỏ rễ vào nhau này mà lần đi trên cao thôi.Sau khi đã đoán vậy, tôi bèn đưa mắt quan sát từng cái rễ một, và chỉ một chốcsau, khi đã tìm thấy một cái rễ có lớp da bên ngoài bị đạp tróc xước những mảnhvỏ con để lộ ra một vết xanh còn mới, thế là tôi đã nắm được đầu mối con đườngbí mật đã đưa tía nuôi tôi đi về hướng nào rồi. Trên khoảng tầm cao quá đầungười, tôi như con vượn, cứ dò theo dấu vỏ rễ xước, chuyển từ cây này sang câykhác đi tới mãi. Con Luốc trung thành vẫn bám theo sát phía dưới chân tôi.Chiều ở rừng bao giờ cũng xuống rất mau, chẳng mấy chốc mà trời đã gần tối. Vếtvỏ cây tróc dẫn đường còn tìm thấy lờ mờ được một lúc, rồi sau đó tôi không cònnhìn ra được một dấu nào nữa. Ngồi trên một cái rễ cao, tựa người vào thân cây,ngơ ngẩn nhìn ra màu xanh trùng điệp quanh mình đang chìm dần vào bóng tối, tôicảm thấy tay chân mình bủn rủn, nhấc không muốn nổi. Một con chim hồng hoàng tonhư con ngỗng, sắc lông đen, vỗ cánh phành phạch bay vút qua bên trên đầu tôi.Chiếc mỏ cong to tướng và những rìa lông màu trắng ở chót cánh mất hút trongbóng tối lờ mờ.

Tiếng"các các" kêu vang rừng của con chim đen to tướng tan dần trong mênhmang vắng lặng, khiến tôi rùng mình nhớ tới con kỳ đà kinh khủng đã đào mộngười chết nơi đồng mả. Tôi phải tự động viên mình luôn và chật vật lắm mớitrèo lên tận ngọn một cây đước cao. Nguồn hy vọng tìm thấy vệt khói bốc ở mộtnơi nào đó giờ đây hoàn toàn tan rã trong tôi. Mặt trời đã xuống khuất mất rồi.Và bây giờ màn đêm cũng đã bao trùm mỗi lúc một dày đặc trên những ngọn cây."Trời tối thì tối chứ sợ gì? Mình sẽ dễ dàng nhận ra ánh lửa của họ. Có aiở thầm giữa rừng đâu mà lo". Nghĩ như vậy, tôi lại phấn khởi mừng thầm.Nguồn hy vọng mới làm tôi phấn chấn trở lại rất mau. Tôi kiên nhẫn ngồi trênmột nhánh cây, phóng tầm mắt nhìn xuyên qua màn đêm, mặc kệ cho bầy muỗi đói vove kêu dậy bên tai và không ngớt đáp vào đốt khắp mặt mũi chân tay. Tôi khôngbiết mình ngồi như vậy đã bao lâu. Nhiều lúc tôi có cảm giác như mắt mình bịmù, vì nhìn vào màu đen lâu quá. Con Luốc cũng kiên nhẫn đứng dưới gốc cây chờtôi, thỉnh thoảng lại hực lên một tiếng. Không biết là nó muốn báo cho tôi biếtrằng nó hãy còn đứng đấy, hay nó dọa một con chồn con cáo nào đang mon men tớigần. Gió bắt đầu nổi lên. Rừng đêm khua xào xạc.

Mùibùn lạnh và mùi rêu đóng trên vỏ cây nhạt nhạt mốc mốc xộc đầy vào mũi tôi. Giữalúc không còn trông cậy vào tai, vào mắt mình nữa thì khứu giác lại báo ngaycho tôi biết rằng tôi đã đi đến gần một chỗ có người. Trong những luồng gió từmàn đêm thăm thẳm thổi tới, lâu lâu tôi lại ngửi thấy có mùi khói và mùi cákho, cháy nồi... Bấy giờ, tôi mới nhớ ra là mình chưa có gì cho vào bụng, vàbắt đầu thấy đói cồn cào. Tôi tụt ngay xuống gốc cây, đạp trúng lên lưng conLuốc. Lần theo mùi cá kho cháy, tôi dắt con Luốc càn rừng, đi tới. Nói chođúng, thì chính con Luốc dắt tôi đi. Nhiều lúc tôi loạng choạng vấp vào nhữngrễ cây, ngã sõng soài vào bùn, con Luốc đã nhanh nhẹn, cắn áo tôi lôi dậy và nóluôn luôn đi trước chân tôi chừng một bước. Tôi và con Luốc mò mẫm dắt nhau lộiđi từng bước như vậy rất lâu. Kia rồi! ánh lửa tôi đang tìm bỗng hiện ra thấpthoáng sau những thân cây, như một vầng mặt trời nhỏ từ dưới mọc lên. Tôi phảitúm chặt chòm lông gáy trên cổ con Luốc, giữ nó lại và khẽ suỵt mấy tiếng,không thì nó sủa váng lên và bỏ tôi chạy vụt tới đấy ngay. Tim tôi đập rộn lên.ánh lửa mỗi lúc một gần.

Đãtrông thấy rõ hình một cái bếp cháy trong gian chòi nhỏ, dưới một gốc cây rậm.Bùn ngập ngang ống chân tôi cứ tụt xuống dần. Bàn chân tôi giẫm lần lần lên mặtđất rắn hơn và đạp phải một bụi cỏ. Bỗng nhiên, con Luốc vùng ra khỏi tay tôi vàchồm lên sủa oang oang. Đồng thời, một tiếng quát: "Ai?" vang lênrùng rợn trong tối, rất gần: tiếng lên cò súng đánh rốp và tiếng quát liềntheo, nghe càng dữ dội hơn trước: “Đứng lại! Ai? Đứng lại".

- Đằngmình! Người đằng mình! -Tôi cuống quít kêu lên. Rồi tôi tuôn luôn mộthơi :

- Tôilà thằng An, con ông Hai ngoài xóm Lá. Tôi đi vô tìm tía tôi!

Tiếngchân nhiều người chạy thình thịch trên gò đất. Luồng ánh sáng từ một chiếc đènpin chiếu thẳng vào mặt tôi khiến tôi bị lóa mắt, phải quay nghiêng mặt tránhra một bên.

- Còncó đi với ai nữa không?

Tiếngmột người nào từ trong tối, sau một gốc cây hỏi vọng ra. Tôi chưa kịp đáp, bỗngnghe tía nuôi tôi kêu "Trời!" một tiếng. Hình như ông đang nói vớingười cầm chiếc đèn pin chiếu vào tôi. ông nói:“Đúng nó là con tôi. Nó mò theotôi đấy. Thật là hết chỗ nói cho cái thằng bé này!".

- Thôi,vào đây chú em!

Ngườicầm đèn pin vừa nói vừa hạ luồng sáng thấp xuống ngọn cỏ, cho tôi thấy lối đivào. Tiếng người vừa nói đó, sao nghe quen quen. Hình như tôi đã có gặp ngườiđó và nghe cái giọng nói ấy ở đâu một lần rồi thì phải? Tía nuôi tôi cầm khúcđèn chai bước ra đón, cốc vào đầu tôi một cái đau điếng.

- Aibảo mày lội vô đây? Rồi tao sẽ bảo cho má mày biết để bả dần cho mày một trận.Thôi, bước xuống cái vũng bên phía trái ấy, rửa mình ngay đi. Y như là thằng mòbùn bắt cá cạn.

Tôicởi quần áo giặt giũ qua loa rồi máng lên nhánh đước, tắm vội tắm vàng một chốclà xong ngay. Con Luốc cũng nhảy phốc xuống vũng nước, bì bõm sán vào bên tôi,đòi tôi cọ bùn tắm cho nó. Một anh đứng bên mé vũng nước với tía nuôi tôi,giọng nói nghe còn trẻ lắm, hỏi tía nuôi tôi tới bằng lối nào mà để tôi dò theovào được. Tía nuôi tôi không đáp, chỉ lắc đầu nói:

- Thậtlà hết biết! Tôi cũng chịu cái thằng bé này!

Anhđứng bên mé vũng nước trao cho tôi một bộ quần áo, bảo tôi mặc tạm vào cho ấm,chứ nó "không được vừa và đẹp lắm đâu"... Tôi như bơi trong bộ quầnáo rộng thùng thình, dày cộp vì muối nhiều nước mặn và vá không biết bao nhiêulà mụn vải. Khi tôi bước vào lều của những người du kích, người đầu tiên tôinhận ra ngay là thầy giáo Bảy, kế đó là ông già đốn củi. Còn người cầm chiếcđèn pin, mặc bộ quần áo bà ba rách nhiều chỗ, mặt xương xương, râu mọc tua tủaxung quanh cằm vì lâu ngày không cạo, đang ngồi trên bộ vạt lót bằng cọng sốnglá kia thì tôi trông quen lắm. Tôi đã gặp ông ấy ở đâu một lần rồi. Chắc chắnlà tôi không nhầm, từ khi nghe giọng nói nhanh nhảu của ông ban nãy. Trongthoáng chớp, có rất nhiều gương mặt quen quen hiện nhanh ra trong đầu tôi. Vừaở ngã ba sông này có một gương mặt người dân quân tự vệ hiện ra cười với tôi,thì trong ngôi miếu tận một nơi xa kia, gương mặt những người thương binh lặnglẽ cúi xuống nhìn tôi chợt hiện lên và biến đi. Một bộ mặt xương xương toétmiệng cười bỗng hiện ra giữa quán rượu dì Tư Béo... cái bóng người cao lêunghêu, mặc bộ quân phục màu rêu, thắt lưng da rộng bản, khẩu súng poọc hoọc đeotrễ bên đùi... Đúng là ông ấy rồi! Tôi vụt kêu lên:

- ChúHuỳnh Tấn!

Ngườiấy buông chiếc đèn pin ra, nhổm lên, nhảy xuống khỏi bộ vạt, đứng sững nhìn vàomắt tôi. Tất cả những người chung quanh đều trố mắt ngạc nhiên. Ông ta nghiêngđầu, nheo mắt:

- Trờiơi! Chú em này sao lại biết mà gọi đúng tên cúng cơm của mỗ vậy kìa?

- Đêmđó, chú đi với anh Sáu tuyên truyền ghé quán dì Tư Béo, chú có gặp anh phân độitrưởng... Cháu làm hầu bàn ở đó mà!

Cuộcgặp gỡ bất ngờ giữa tôi và người chỉ huy du kích đã làm tiêu tan bầu không khíim lặng trong ngôi lều khi tôi mới bước vào... Các anh du kích bỏ củi vào đốnghun quạt lên, bảo tôi ngồi xuống hong cho ấm. Tôi vừa ngồi xuống một khúc gỗ,chưa kịp xòe bàn tay móp cóng ra hong trên lửa thì đã có anh bưng vào cho tôimột tô cơm kèm hai khúc cá kho khô và một đôi đũa. Đúng là mùi cá kho cháy nồimà tôi đã bắt gặp lúc nãy đây! Tôi chẳng khách sáo gì cả, cũng chẳng kịp nóihai tiếng "cám ơn" cho phải phép, đỡ ngay lấy tô cơm, và ngốn và ngấugần như không kịp nhai. Con Luốc cũng có phần một miếng cháy, ve vẩy đuôi ngồinhá tóp tép bên đống hun cạnh tôi. Qua làn khói củi hun bọ mắt tỏa trắng, tôibiết có những đôi mắt cười nheo nheo trong ánh lửa của những người du kích ngồitựa lưng vào vách đang nhìn tôi. "Cà, gói giấy nhật trình của má gói đãướt sũng cả rồi... Lúc nãy mình dại quá. Sao không dám cầm vào đây mà hong chokhô, cứ giấu nó trong cái túi áo ướt". Tôi và nốt miếng cơm trong tô, rồiđứng dậy cầm tô đi ra rửa ngoài vũng nước. Lúc vào, tôi không quên cầm vào góiquà của má nuôi gởi cho các anh du kích:

- Cáinày... là cái má tôi gởi cho các chú, các anh đấy!

Nóixong, tôi mở năm đầu ngón tay xòe đưa gói giấy ướt sũng ra, trao cho chú HuỳnhTấn. Tía nuôi tôi đang đứng xem một anh du kích lau khẩu súng trường ở chỗ góclều, vội ngẩng lên:

- Hóara má mày bảo mày vô đây à? - Rồi tía nuôi tôi dang cánh tay ra, nói như phânbua.

- Lạquá! Tôi có hề nói với bả lần nào đâu? Sao mà hai mẹ con bả thính đến vậy!

ChúHuỳnh Tấn không cần biết có lời phân trần của tía nuôi tôi. Chú cứ thận trọngbóc từng mảnh giấy ướt nhàu ra, cầm nắm chỉ và ống kim giơ lên:

- Quàcủa chúng ta đây rồi!

Tiếngcười vui vẻ của nhiều người dậy lên. Chú Huỳnh Tấn quay sang bảo tía nuôi tôi:

- Bàgià tâm lý lắm! Biết anh em rách, gởi cho ngay cái thứ mình cần mới thích chứ!

Thầygiáo Bảy ngồi cầm cái cuống quài dừa nước đã đập tơi dùng làm phất trần xuamuỗi quơ qua quơ lại, mỉm cười nói thong thả:

- Đồngbào đều biết chúng ta ở đây mà anh em chúng ta có người nào hở môi chỉ chỗ chohọ biết đâu! Như vậy thì... khu rừng này đâu có thể chắc chắn bảo đảm che giấuđược những cái lều này...

Chú Huỳnh Tấn nhướng mắt cười hì... hì...

- Chemắt địch thôi! Chúng ta làm sao che giấu được với đồng bào!

- Anhnói có lý! -Thầy giáo Bảy gật gù tiếp.

- Mọingười đều biết hoặc có thể biết có du kích ở đây, nhưng bọn địch thì hoàn toànkhông hay biết... Như vậy thì... chỉ có rừng nhân dân mới bảo đảm che giấu đượcmọi hoạt động của chúng ta thôi!

Nhiềutiếng cười tán thưởng từ chỗ góc lều tối vọng ra:

- Đồngchí Bảy nói nghe sâu sắc lắm!

Thầygiáo Bảy sửa giọng nghiêm trang, nói:

- Khôngphải là ý kiến của tôi đâu. Vừa rồi, được đồng chí Hoài dắt vào gặp anh Tư ThượngVũ, tôi đã nghe anh Tư bảo như thế đấy! Một anh nào đó đang đi qua đi lại ngoàisân, hát se sẽ giọng trầm buồn: “Thần dân nghe chăng... sơn hà nguy biến! Hậnthù đằng đằng... biên thùy rung chuyển...". Tiếng hát nhỏ dần, tắt mấttrong bóng đêm.

Rồi một lúc sau, cái giọng trầm buồn ban nãybỗng bật lên sang sảng: "Trước nhục nước nên hòa hay nên chiến?". Ônggià đốn củi nói tướng lên, cắt ngang: "Chiến" chứ "hòa" làhòa làm sao? Đất của mình nó tới nó đánh chiếm, mà còn vớ vẩn hỏi"chiến" hay "hòa"! Còn người nào, đánh người ấy. Tới ngườicuối cùng cũng đánh mà! Tôi cúi xuống nhìn vào ngọn lửa cháy rực trong đốngcủi. Nhưng tôi biết rõ là ông già đốn củi đang rướn người lên đằng sau các anhdu kích, và ông đang vung tay, xúc động đến rung rung cả chòm râu. Giọng sôinổi đầy nhiệt tình vừa thốt ra của ông làm tôi không muốn nhớ tới tiếng cườikhành khạch đầy gượng gạo của ông và cái dáng người còm cõi, rầu rĩ cầm bátrượu thở dài nơi nhà chúng tôi chiều nọ.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện