Lưu Ly thoáng kinh ngạc, trong lòng suy nghĩ một hồi, mỉm cười cúi người: "Lưu Ly nào có ý này, chỉ là mẹ con vẫn thường nói thế sự vô thường, Phật có nói mọi thứ rồi sẽ hóa cát bụi, lại nói phú quý chẳng qua chỉ là hoa trong gương trăng trong nước mà thôi, thế nên trước cửa Phật môn nhìn thấy uy nghi vô biên thế này, khó tránh có chút cảm động." Ở thời đại này, nàng đương nhiên cũng muốn tìm một cây lớn để dựa dẫm, nhưng chỉ sợ lúc đó lại chuyển thành mưa gió không ngừng, từ xưa phú quý đều từ trong nguy hiểm mà có, với cá tính của nàng, không làm được thần, đành phải làm một quần chúng đứng xem thì tốt hơn.
Mặt của Dương lão phu nhân nhất thời kinh ngạc, "Cô nương đây tuổi còn nhỏ, sao lại có tâm tư thế này?"
Lưu Ly cười khổ, nàng còn nhỏ sao, sao nàng lại cảm thấy mình đã hơn một nghìn tuổi rồi vậy, già đến nổi không thể già hơn được nữa? Miệng vẫn mỉm cười nói, "Mười hai tuổi Lưu Ly đã mất mẹ, thế sự vô thường lòng người ấm lạnh thế nào, con đều đã trải qua."
Dương lão phu nhân gật đầu than rằng, " Nhân sinh không phải phúc thì là họa, cũng khó mà nói rõ được.
Cô nương tuổi trẻ xinh đẹp, cũng đừng nên quá chán nản mới được."
Lưu Ly cười gật đầu, "Lưu Ly xin nghe."
Dương lão phu nhân nhìn Lưu Ly thêm mấy lần, chỉ thấy cô nương trước mặt dung mạo xinh đẹp, thần thái trầm tĩnh, lại có chút ý vị lạnh nhạt xa xôi, thực sự không giống con gái nhà thương nhân, không khỏi có chút thắc mắc.
Lúc này đoàn người ngựa của Liễu thị cũng đã đi qua, mấy người Thạch thị cũng thu ánh mắt, bắt đầu cười nói.
Dương lão phu nhân khéo léo chuyển chủ đề, bắt đầu vô tình dò hỏi nhà họ An và lai lịch xuất thân của Lưu Ly, nghe thấy bác ruột của Cậu Hai An là ngũ phẩm Tán Kỵ thị lang do chính Cao Tổ năm đó sắc phong An Sất Nô, gật đầu, "Danh tiếng của An thị lang già này cũng có nghe qua." Rồi lại nghe thấy rằng Lưu Ly họ Khố Địch, suy nghĩ rất lâu mới nói, "Tiền triều có mấy vị vương hầu cũng là họ này, không biết..."
Liên quan đến tổ tiên, Lưu Ly chỉ có thể thẳng lưng, cung kính nói, "Hoa Dương Quận Công chính là tổ tiên của tiểu nữ."
Dương thị khẽ gật đầu, lúc này chủ để lại chuyển về hội hoa mẫu đơn ngày mùng năm tháng ba ở Đại Từ Ân tự, nghữ khí lại thân thiết hơn lúc nãy: bà ta là một người chú trọng đến thân phận, vốn nghĩ rằng ngồi cùng với nữ quyến thương nhân người Hồ cũng tốt hơn ngồi với thứ dân phức tạp dưới lầu, nhưng lại không ngờ rằng mấy người Hồ này lại có chút lai lịch, An Sất Nô thì cũng thôi, chẳng qua là nhờ tài ca múa mà được làm quan, dòng dõi Khố Địch cũng không tính là quá thấp, tiền triều nhà Tề cũng có mấy vị vương hầu, sau này có Khố Địch Sĩ Văn nổi tiếng gia phong nghiêm khắc.
Võ phu nhân cười bảo, "Nói về mẫu đơn, tôi vẫn chưa thấy tranh vẽ nào đẹp như của cô cả đây." Nàng ta và mẹ mình tính cách không giống nhau, tâm tư đơn giản, ngược lại cảm thấy mấy người Thạch thị này tốt hơn rất nhiều so với những người thấy sang bắt quàng làm họ khác.
Dương lão phu nhân quay đầu nhìn Lưu Ly, ánh mắt thâm sâu, "Cô cả đây cũng yêu thích mẩu đơn sao?"
Lưu Ly không dám sơ suất, nghĩ một lát mới đáp, "Cuộc đời của mẫu đơn vốn gian nan, hoa nở chậm chạp, nhưng một khi đã nở, tựa như cười ngạo nghễ giữa rừng hoa, tươi đẹp tuyệt trần.
Cái gọi là có tài thường thành đạt chậm, có lẽ chính là nói mẫu đơn."
Nếu nàng nhớ không nhầm, vị Dương lão phu nhân này xuất thân từ hoàng thất đời Tùy, bởi vì triều đại thay đổi, bốn mươi tuổi mới gả vào nhà họ Võ, sinh liên tiếp ba đứa con gái, nhưng mấy mẹ con lại bị những đưa con trai vợ trước khinh rẻ, Võ Tắc Thiên gặp phải vô vàn khó khăn trắc trở mới có thể lên đến vị trí cao nhất, tính cách của vị Dương lão phu nhân này còn không phải là kiên trì rồi mới được hưởng phúc cuối đời sao? Quả thật, lời nàng vừa nói ra, lão phu nhân im lặng không nói, lại có chút đăm chiêu, cuối cùng vẫn nở nụ cười, "Nói rất hay!"
Vì lúc này Liễu thị chỉ mới vào chùa, không biết đến khi nào mới ra, có rất nhiều người không đợi được nữa, hơn một nửa số khách ngồi trong nhã phòng quán rượu đã thanh toán rời đi, Dương thị và Võ thị bàn bạc một chút rồi quyết định đi Linh Cảm tự dâng hương, nói cảm ơn mấy lượt với Thạch thị rồi mới đi, Võ phu nhân còn cười nói thầm với Lưu Ly, "Khuôn in mẫu đơn của mẹ ta đành nhờ cô cả vậy." Lưu Ly cười gật đầu: "Phu nhân khách sáo quá, Lưu Ly nhất định cố gắng hết sức."
Dù sao cũng đã lãng phí cả buổi sáng, Thạch thị lại không gấp, dứt khoát bảo tiểu nhị bưng canh chay và mấy loại điểm tâm lên, ai nấy ăn no một nửa.
Mãi đến đầu giờ ngọ, đoàn người ngựa của Liễu thị mới xuất hiện lần nữa, Thạch thị lúc này mới thanh toán rời đi, ngồi xe đến cỗng Đại Từ Ân tự, đi thẳng từ cửa chùa vào chính điện.
Lưu Ly bèn đánh giá xung quanh một lượt, chỉ thấy trong chùa rải đá xanh, hai bên là cây tùng, kiến trúc đồ sộ trang trọng, phong cảnh trang nghiêm mỹ lệ, không khỏi gật đầu tán thưởng.
Thạch thị lại nói, những lầu đài này có là gì, Hạnh Lâm ở viện phía Nam mới là tuyệt đẹp, qua một tháng nữa, mấy nghìn cây hoa hạnh cùng nở rộ, từ Khúc Giang nhìn ra xa, lại càng tươi sáng rực rỡ.
Vừa đi vừa nói, đầu tiên là mợ Hai Thạch thị vì thân hình đẫy đà, bước chân cũng chậm chạp, đi xuống phía sau, làm Lưu Ly không dám di chuyển --------- đi đến cửa chùa thứ hai, trên vách hành lang vẽ đầy những bức bích họa, đa số là tượng Bồ Tát và tranh vẽ Phật, kết cấu chặt chẽ, đường nét cứng cáp, có mấy bức đặc biệt xuất sắc là của các vị học giả tiếng tăm như Diêm Lập Bản Uất Trì Ất Tăng.
Thạch thị Khang thị dù biết rằng nàng biết vẽ bản vẽ mẫu, nhưng thấy bộ dạng như si như mê của nàng khi nhìn những bức tường này, không khỏi bật cười, khó khăn lắm mới kéo được nàng đến đại điện.
Trong tay Lưu Ly đang cầm nhang đèn, trong lòng lại có chút ngẩn ngơ: những bút tích lừng danh trong truyền thuyết cứ thế mà từng cái từng cái một xuất hiện trước mắt nàng vậy sao?
Trước mặt nàng giờ là tượng Phật trang trọng uy nghiêm, bên cạnh là nhiều người đang thành tâm cầu khấn, kéo Lưu Ly từ trong si ngốc trở ra, nàng cũng âm thầm cầu nguyện, "Phật Tổ từ bi, người có thể mở đường cho con trở về được không..." Ba năm nay nàng đã học được cách không nhớ tới quá khứ, nhưng lúc này nhớ đến những người bạn thân thiết của ngàn năm sau, cuộc sống ngày càng mơ hồ này, nàng vẫn không nhịn được rơi lệ.
Thế nhưng tượng Phật không thể nói, chỉ có thể dùng đôi mắt hẹp dài lặng lẽ nhìn chúng sinh trước mắt.
Thắp hương xong thì đã là giữa trưa, mợ Hai nhìn thấy vệt nước mắt trên mặt Lưu Ly, sợ nàng nhớ đến người mẹ đã mất mà đau buồn, vội vã kéo nàng đi dạo các danh lam thắng cảnh trong chùa như Nam Trì, Tây Viên.
Cả đường đi cảnh đẹp lộng lẫy không nói, hai hành lang trên các cổng đều có những bức bích họa tuyệt diệu.
Nhìn một hồi, ngay cả Lưu Ly cũng mơ màng, nhưng lại đặc biệt chú ý đến tháp Đại Nhạn vẫn chưa sửa chữa xong, đó mới chính là nơi thờ phụng hàng ngàn viên xá lợi với kho tàng của vô số những bức bích họa kỹ thuật cao thời Đường...!
Sau giờ ngọ, người bên trong chùa chỉ có tăng không có giảm, Lưu Ly hỏi ra mới biết: Đa số họ đến là để xem hát! Kịch tuồng thời này đều tập trung ở chùa chiền, trong đó nổi tiếng nhất cũng chính là Đại Từ Ân tự này, mỗi ngày sau giờ ngọ bắt đầu diễn, hấp dẫn rất nhiều tín đồ và người rảnh rỗi.
Lưu Ly rất muốn thử cảm thụ cảm giác xem kịch tuồng ở trong chùa, mợ Hai chợt nhớ ra, hôm nay là mùng Một, có thuyết giảng rất hay.
Bà vừa nói xong, mấy người Khang thị liền hưng phấn, khí thế hừng hực đi vào trong viện.
Bên trong viện đã đứng đầy người, già trẻ trai gái có đủ, không ngừng rỉ tai nhau thì thầm.
Qua được một khắc, trong một nhóm hơn mười vị tăng nhân, có một vị sư phụ trung niên khoác áo cà sa thần sắc trang nghiêm đi lên giữa bục giảng, bên dưới lập tức lặng ngắt như tờ.
Mấy vị tăng nhân dài giọng ngâm vịnh, ngữ điệu có phần giống với hợp xướng trong giáo đường thời hiện đại, chờ cho tiếng tụng réo rắt tan đi, sư phụ mới mở miệng niệm kinh Phật, lại thêm mấy câu cổ văn, Lưu Ly thầm nghĩ xem sư thầy đang nói cái gì, lại nghe thấy giọng nói trong trẻo của sư thầy, "Nếu nói đến Phật pháp khoan dung, chính là kẻ cướp đồ tể cũng có thể thành Phật...." Đương nhiên là bắt đầu kể chuyện giảng kinh rồi! Đầu tiên là điển cố năm trăm tên cướp thành Phật, sau đó lại nói đến một hộ gia đình ở Lạc Dương vì tin Phật mà vượt qua kiếp nạn thế nào, ngôn ngữ phổ thông, tình tiết sinh động, chuyện lại đặc sắc, khiến Lưu Ly nghe đến trợn mắt há mồm, mà lâu lâu lại hát ngâm vài câu, lên xuống thành điệu, vô cùng sống động.
Thấy vị sư phụ khoác áo cà sa trên kia giảng rất nhập tâm, mà nam nữ tín đồ trong viện nghe đến say mê, lúc khóc lúc cười, Lưu Ly thật phục sát đất: đây mới chân chính là vui vẻ nghe giảng dạy đấy!
Có điều nàng không mấy hứng thú với việc nghe kể chuyện này, không bao lâu đã bắt đầu nhớ tới những bức tượng Bồ Tát lúc nãy nhìn thấy trên hành lang gấp khúc cách đây không xa, nghe đến đoạn sư phụ kể đến nhà xui xẻo kia ra khỏi nhà tù, liền nói một tiếng với mợ Hai muốn đi thay đồ.
Mợ Hai nghe đến xuất thần, chỉ gật gật đầu.
Lưu Ly yên lạng rời đi, nhanh chân chạy đến chỗ hành lang gấp khúc, bắt đầu nghiên cứu tỉ mỉ bức tượng Bồ Tát đó, cảm thấy động tác quay đầu nhìn của Bồ Tát có hơi giống với bức "Bồ Tát dẫn đường" được trưng bày trong bảo tàng Đại Anh, thần thái cũng được vẽ vô cùng sinh động.
Nàng càng xem càng thích, giơ ngón tay sờ nhẹ lên từng nét bút hoa văn trên bức tranh, sau lưng đột nhiên vang lên tiếng cười nhạo, "Kỳ lạ! Hồ cơ* giờ này không ở chợ Tây đón khách, mà lại vào chùa sờ tượng, chẳng lẽ thời thế sắp thay đổi rồi sao?"
(*Chỉ người Hồ, một cách gọi không mấy lịch sự)
Giọng nói vang dội ấy từ phía sau nàng phát ra, lời nói lại cay nghiệt như vậy, Lưu Ly ngẩn ra rồi liền tức giận, quay đầu nhìn, chỉ thấy trên hành lang gấp khúc không biết từ lúc nào xuất hiện sáu bảy nam nhân trẻ tuổi, mặc áo bào hoa tròn nhỏ màu đỏ tươi, thắt lưng đeo khóa vàng, nhìn khoảng chừng dưới hai mươi tuổi, da mặt trắng trẻo, sắc mặt tràn đầy nét khinh thường, thấy Lưu Ly quay đầu lại, nhướng mày, không nghiêm túc nhìn nàng chằm chằm.
Trong lòng Lưu Ly chán ngán, không nhịn được cười lạnh, "Kỳ lạ! Sĩ tử giờ này không đi thảo luận việc phúc lợi của muôn dân trăm họ, lại đến đây nhìn đàn bà con gái, chẳng lẽ thời thế sắp thay đổi rồi sao?"
Lời này vừa nói ra, tên công tử mặt trắng liền ngẩn người, mấy người bạn của hắn có tên cười nói,"Như Trác à Như Trác, cậu cũng có ngày này!"
Lưu Ly không muốn nhiều lời, xoay người định đi, tên nam nhân tên Như Trác đó lại bước đến gần, chắn trước mặt nàng..
Mặt của Dương lão phu nhân nhất thời kinh ngạc, "Cô nương đây tuổi còn nhỏ, sao lại có tâm tư thế này?"
Lưu Ly cười khổ, nàng còn nhỏ sao, sao nàng lại cảm thấy mình đã hơn một nghìn tuổi rồi vậy, già đến nổi không thể già hơn được nữa? Miệng vẫn mỉm cười nói, "Mười hai tuổi Lưu Ly đã mất mẹ, thế sự vô thường lòng người ấm lạnh thế nào, con đều đã trải qua."
Dương lão phu nhân gật đầu than rằng, " Nhân sinh không phải phúc thì là họa, cũng khó mà nói rõ được.
Cô nương tuổi trẻ xinh đẹp, cũng đừng nên quá chán nản mới được."
Lưu Ly cười gật đầu, "Lưu Ly xin nghe."
Dương lão phu nhân nhìn Lưu Ly thêm mấy lần, chỉ thấy cô nương trước mặt dung mạo xinh đẹp, thần thái trầm tĩnh, lại có chút ý vị lạnh nhạt xa xôi, thực sự không giống con gái nhà thương nhân, không khỏi có chút thắc mắc.
Lúc này đoàn người ngựa của Liễu thị cũng đã đi qua, mấy người Thạch thị cũng thu ánh mắt, bắt đầu cười nói.
Dương lão phu nhân khéo léo chuyển chủ đề, bắt đầu vô tình dò hỏi nhà họ An và lai lịch xuất thân của Lưu Ly, nghe thấy bác ruột của Cậu Hai An là ngũ phẩm Tán Kỵ thị lang do chính Cao Tổ năm đó sắc phong An Sất Nô, gật đầu, "Danh tiếng của An thị lang già này cũng có nghe qua." Rồi lại nghe thấy rằng Lưu Ly họ Khố Địch, suy nghĩ rất lâu mới nói, "Tiền triều có mấy vị vương hầu cũng là họ này, không biết..."
Liên quan đến tổ tiên, Lưu Ly chỉ có thể thẳng lưng, cung kính nói, "Hoa Dương Quận Công chính là tổ tiên của tiểu nữ."
Dương thị khẽ gật đầu, lúc này chủ để lại chuyển về hội hoa mẫu đơn ngày mùng năm tháng ba ở Đại Từ Ân tự, nghữ khí lại thân thiết hơn lúc nãy: bà ta là một người chú trọng đến thân phận, vốn nghĩ rằng ngồi cùng với nữ quyến thương nhân người Hồ cũng tốt hơn ngồi với thứ dân phức tạp dưới lầu, nhưng lại không ngờ rằng mấy người Hồ này lại có chút lai lịch, An Sất Nô thì cũng thôi, chẳng qua là nhờ tài ca múa mà được làm quan, dòng dõi Khố Địch cũng không tính là quá thấp, tiền triều nhà Tề cũng có mấy vị vương hầu, sau này có Khố Địch Sĩ Văn nổi tiếng gia phong nghiêm khắc.
Võ phu nhân cười bảo, "Nói về mẫu đơn, tôi vẫn chưa thấy tranh vẽ nào đẹp như của cô cả đây." Nàng ta và mẹ mình tính cách không giống nhau, tâm tư đơn giản, ngược lại cảm thấy mấy người Thạch thị này tốt hơn rất nhiều so với những người thấy sang bắt quàng làm họ khác.
Dương lão phu nhân quay đầu nhìn Lưu Ly, ánh mắt thâm sâu, "Cô cả đây cũng yêu thích mẩu đơn sao?"
Lưu Ly không dám sơ suất, nghĩ một lát mới đáp, "Cuộc đời của mẫu đơn vốn gian nan, hoa nở chậm chạp, nhưng một khi đã nở, tựa như cười ngạo nghễ giữa rừng hoa, tươi đẹp tuyệt trần.
Cái gọi là có tài thường thành đạt chậm, có lẽ chính là nói mẫu đơn."
Nếu nàng nhớ không nhầm, vị Dương lão phu nhân này xuất thân từ hoàng thất đời Tùy, bởi vì triều đại thay đổi, bốn mươi tuổi mới gả vào nhà họ Võ, sinh liên tiếp ba đứa con gái, nhưng mấy mẹ con lại bị những đưa con trai vợ trước khinh rẻ, Võ Tắc Thiên gặp phải vô vàn khó khăn trắc trở mới có thể lên đến vị trí cao nhất, tính cách của vị Dương lão phu nhân này còn không phải là kiên trì rồi mới được hưởng phúc cuối đời sao? Quả thật, lời nàng vừa nói ra, lão phu nhân im lặng không nói, lại có chút đăm chiêu, cuối cùng vẫn nở nụ cười, "Nói rất hay!"
Vì lúc này Liễu thị chỉ mới vào chùa, không biết đến khi nào mới ra, có rất nhiều người không đợi được nữa, hơn một nửa số khách ngồi trong nhã phòng quán rượu đã thanh toán rời đi, Dương thị và Võ thị bàn bạc một chút rồi quyết định đi Linh Cảm tự dâng hương, nói cảm ơn mấy lượt với Thạch thị rồi mới đi, Võ phu nhân còn cười nói thầm với Lưu Ly, "Khuôn in mẫu đơn của mẹ ta đành nhờ cô cả vậy." Lưu Ly cười gật đầu: "Phu nhân khách sáo quá, Lưu Ly nhất định cố gắng hết sức."
Dù sao cũng đã lãng phí cả buổi sáng, Thạch thị lại không gấp, dứt khoát bảo tiểu nhị bưng canh chay và mấy loại điểm tâm lên, ai nấy ăn no một nửa.
Mãi đến đầu giờ ngọ, đoàn người ngựa của Liễu thị mới xuất hiện lần nữa, Thạch thị lúc này mới thanh toán rời đi, ngồi xe đến cỗng Đại Từ Ân tự, đi thẳng từ cửa chùa vào chính điện.
Lưu Ly bèn đánh giá xung quanh một lượt, chỉ thấy trong chùa rải đá xanh, hai bên là cây tùng, kiến trúc đồ sộ trang trọng, phong cảnh trang nghiêm mỹ lệ, không khỏi gật đầu tán thưởng.
Thạch thị lại nói, những lầu đài này có là gì, Hạnh Lâm ở viện phía Nam mới là tuyệt đẹp, qua một tháng nữa, mấy nghìn cây hoa hạnh cùng nở rộ, từ Khúc Giang nhìn ra xa, lại càng tươi sáng rực rỡ.
Vừa đi vừa nói, đầu tiên là mợ Hai Thạch thị vì thân hình đẫy đà, bước chân cũng chậm chạp, đi xuống phía sau, làm Lưu Ly không dám di chuyển --------- đi đến cửa chùa thứ hai, trên vách hành lang vẽ đầy những bức bích họa, đa số là tượng Bồ Tát và tranh vẽ Phật, kết cấu chặt chẽ, đường nét cứng cáp, có mấy bức đặc biệt xuất sắc là của các vị học giả tiếng tăm như Diêm Lập Bản Uất Trì Ất Tăng.
Thạch thị Khang thị dù biết rằng nàng biết vẽ bản vẽ mẫu, nhưng thấy bộ dạng như si như mê của nàng khi nhìn những bức tường này, không khỏi bật cười, khó khăn lắm mới kéo được nàng đến đại điện.
Trong tay Lưu Ly đang cầm nhang đèn, trong lòng lại có chút ngẩn ngơ: những bút tích lừng danh trong truyền thuyết cứ thế mà từng cái từng cái một xuất hiện trước mắt nàng vậy sao?
Trước mặt nàng giờ là tượng Phật trang trọng uy nghiêm, bên cạnh là nhiều người đang thành tâm cầu khấn, kéo Lưu Ly từ trong si ngốc trở ra, nàng cũng âm thầm cầu nguyện, "Phật Tổ từ bi, người có thể mở đường cho con trở về được không..." Ba năm nay nàng đã học được cách không nhớ tới quá khứ, nhưng lúc này nhớ đến những người bạn thân thiết của ngàn năm sau, cuộc sống ngày càng mơ hồ này, nàng vẫn không nhịn được rơi lệ.
Thế nhưng tượng Phật không thể nói, chỉ có thể dùng đôi mắt hẹp dài lặng lẽ nhìn chúng sinh trước mắt.
Thắp hương xong thì đã là giữa trưa, mợ Hai nhìn thấy vệt nước mắt trên mặt Lưu Ly, sợ nàng nhớ đến người mẹ đã mất mà đau buồn, vội vã kéo nàng đi dạo các danh lam thắng cảnh trong chùa như Nam Trì, Tây Viên.
Cả đường đi cảnh đẹp lộng lẫy không nói, hai hành lang trên các cổng đều có những bức bích họa tuyệt diệu.
Nhìn một hồi, ngay cả Lưu Ly cũng mơ màng, nhưng lại đặc biệt chú ý đến tháp Đại Nhạn vẫn chưa sửa chữa xong, đó mới chính là nơi thờ phụng hàng ngàn viên xá lợi với kho tàng của vô số những bức bích họa kỹ thuật cao thời Đường...!
Sau giờ ngọ, người bên trong chùa chỉ có tăng không có giảm, Lưu Ly hỏi ra mới biết: Đa số họ đến là để xem hát! Kịch tuồng thời này đều tập trung ở chùa chiền, trong đó nổi tiếng nhất cũng chính là Đại Từ Ân tự này, mỗi ngày sau giờ ngọ bắt đầu diễn, hấp dẫn rất nhiều tín đồ và người rảnh rỗi.
Lưu Ly rất muốn thử cảm thụ cảm giác xem kịch tuồng ở trong chùa, mợ Hai chợt nhớ ra, hôm nay là mùng Một, có thuyết giảng rất hay.
Bà vừa nói xong, mấy người Khang thị liền hưng phấn, khí thế hừng hực đi vào trong viện.
Bên trong viện đã đứng đầy người, già trẻ trai gái có đủ, không ngừng rỉ tai nhau thì thầm.
Qua được một khắc, trong một nhóm hơn mười vị tăng nhân, có một vị sư phụ trung niên khoác áo cà sa thần sắc trang nghiêm đi lên giữa bục giảng, bên dưới lập tức lặng ngắt như tờ.
Mấy vị tăng nhân dài giọng ngâm vịnh, ngữ điệu có phần giống với hợp xướng trong giáo đường thời hiện đại, chờ cho tiếng tụng réo rắt tan đi, sư phụ mới mở miệng niệm kinh Phật, lại thêm mấy câu cổ văn, Lưu Ly thầm nghĩ xem sư thầy đang nói cái gì, lại nghe thấy giọng nói trong trẻo của sư thầy, "Nếu nói đến Phật pháp khoan dung, chính là kẻ cướp đồ tể cũng có thể thành Phật...." Đương nhiên là bắt đầu kể chuyện giảng kinh rồi! Đầu tiên là điển cố năm trăm tên cướp thành Phật, sau đó lại nói đến một hộ gia đình ở Lạc Dương vì tin Phật mà vượt qua kiếp nạn thế nào, ngôn ngữ phổ thông, tình tiết sinh động, chuyện lại đặc sắc, khiến Lưu Ly nghe đến trợn mắt há mồm, mà lâu lâu lại hát ngâm vài câu, lên xuống thành điệu, vô cùng sống động.
Thấy vị sư phụ khoác áo cà sa trên kia giảng rất nhập tâm, mà nam nữ tín đồ trong viện nghe đến say mê, lúc khóc lúc cười, Lưu Ly thật phục sát đất: đây mới chân chính là vui vẻ nghe giảng dạy đấy!
Có điều nàng không mấy hứng thú với việc nghe kể chuyện này, không bao lâu đã bắt đầu nhớ tới những bức tượng Bồ Tát lúc nãy nhìn thấy trên hành lang gấp khúc cách đây không xa, nghe đến đoạn sư phụ kể đến nhà xui xẻo kia ra khỏi nhà tù, liền nói một tiếng với mợ Hai muốn đi thay đồ.
Mợ Hai nghe đến xuất thần, chỉ gật gật đầu.
Lưu Ly yên lạng rời đi, nhanh chân chạy đến chỗ hành lang gấp khúc, bắt đầu nghiên cứu tỉ mỉ bức tượng Bồ Tát đó, cảm thấy động tác quay đầu nhìn của Bồ Tát có hơi giống với bức "Bồ Tát dẫn đường" được trưng bày trong bảo tàng Đại Anh, thần thái cũng được vẽ vô cùng sinh động.
Nàng càng xem càng thích, giơ ngón tay sờ nhẹ lên từng nét bút hoa văn trên bức tranh, sau lưng đột nhiên vang lên tiếng cười nhạo, "Kỳ lạ! Hồ cơ* giờ này không ở chợ Tây đón khách, mà lại vào chùa sờ tượng, chẳng lẽ thời thế sắp thay đổi rồi sao?"
(*Chỉ người Hồ, một cách gọi không mấy lịch sự)
Giọng nói vang dội ấy từ phía sau nàng phát ra, lời nói lại cay nghiệt như vậy, Lưu Ly ngẩn ra rồi liền tức giận, quay đầu nhìn, chỉ thấy trên hành lang gấp khúc không biết từ lúc nào xuất hiện sáu bảy nam nhân trẻ tuổi, mặc áo bào hoa tròn nhỏ màu đỏ tươi, thắt lưng đeo khóa vàng, nhìn khoảng chừng dưới hai mươi tuổi, da mặt trắng trẻo, sắc mặt tràn đầy nét khinh thường, thấy Lưu Ly quay đầu lại, nhướng mày, không nghiêm túc nhìn nàng chằm chằm.
Trong lòng Lưu Ly chán ngán, không nhịn được cười lạnh, "Kỳ lạ! Sĩ tử giờ này không đi thảo luận việc phúc lợi của muôn dân trăm họ, lại đến đây nhìn đàn bà con gái, chẳng lẽ thời thế sắp thay đổi rồi sao?"
Lời này vừa nói ra, tên công tử mặt trắng liền ngẩn người, mấy người bạn của hắn có tên cười nói,"Như Trác à Như Trác, cậu cũng có ngày này!"
Lưu Ly không muốn nhiều lời, xoay người định đi, tên nam nhân tên Như Trác đó lại bước đến gần, chắn trước mặt nàng..
Danh sách chương