“Vào một mùa đông băng giá. Khi những cơn bão tuyết vần vũ nơi bầu trời phương bắc. Những con sóng dữ ở mặt biển phía đông và những mùa hoa lụi tàn trên vùng đất phía nam.”

Gần một thôn trang hẻo lánh ở phía bắc Ngạn Tây. Sau một trận bão tuyết, trời cứ mưa rả rích, cả thôn chìm trong giá rét giữa mùa đông. Mấy người đàn ông tổ chức vào rừng săn thú để duy trì nguồn thức ăn khan hiếm. Họ đi vào rừng mất ba ngày đặt bẫy và chờ đợi, cuối cùng săn được vài con thỏ và một con hươu xám lớn. Họ phải ghép mấy nhánh cây lại để chất đám thú săn được và cùng nhau kéo về. Ông lão chịu trách nhiệm mang giỏ đựng ít lương thực còn sót lại và mấy bình rượu sắp cạn theo sau. Nhóm người đi săn vội vã quay về khi một cơn bão khác sắp kéo đến. Ông lão đi thong dong giữa rừng cây thâm u, không hối hả gì vì chỉ còn băng qua một con suối cạn sẽ về đến nhà, có lẽ đến nơi thì bọn người kia đang xẻ thịt chia phần. Ông đi dọc theo một nhánh sông nhỏ rẽ từ dòng sông Liêu Chuỷ, bước qua khỏi một mô đất cao thì khựng lại vì cảm thấy có gì đó đang động đậy gần bờ đá. Nghĩ là một con cá lớn mắc cạn, ông lão đặt giỏ xách xuống rồi rón rén đi lại, xắn tay áo lên chuẩn bị chụp lấy con cá to kia. Đang chuẩn bị vồ tới thì lại bật ngửa ra khi nhìn thấy thứ đang động đậy. Một tảng băng dày có lẽ trôi từ phía bắc vì dòng Liêu Chuỷ bắt nguồn từ dãy núi Đọ Nẫm ở Lãnh Bắc giáp biên giới Ngạn Tây, nơi đó là núi tuyết phủ quanh năm nên mới có thể tạo nên một mảng băng dày cứng như thế này. Tảng băng do bị những gợn sóng tác động nên cứ chuyển động tới lui chạm vào bờ. Bên trên tảng băng là một đứa trẻ sơ sinh cả người trắng toát, hai bàn tay bé xíu ôm ngực, mắt nhắm nghiền nổi bật hai hàng mi đen nhánh. Giữa trời tuyết thế này và nằm trên tảng băng kia có lẽ đứa bé đã chết, trông nó thật tội nghiệp, nếu còn sống nó sẽ là một đứa trẻ xinh xắn. Ông lão buồn rầu nhìn đứa bé rồi đưa hai tay ra đón lấy nó, tay chạm vào người đứa bé lạnh toát như chạm vào băng tuyết. Chạy lại rút tấm vải thô lót giỏ xách quấn đứa nhỏ lại như cuộn một gói hành trang, ông lão nghĩ sẽ đưa đi thiêu để đứa bé có thể kết thúc hành trình của nó trọn vẹn hơn là để bọn thú hoang xé xác nó ra mà gặm. Ông lão mang giỏ xách đã có thêm đứa bé đi vội về nhà, mở cửa bước vào rồi đặt cái giỏ lên bàn, chạy nhanh về phía cuối thôn chờ chia thịt. Lúc quay về thì cái giỏ vẫn còn nguyên vị trí, bà lão đang nhóm bếp nấu canh chờ ông lão mang thịt về. Ông lão lấy một cái chậu ra đựng thịt rồi ngồi xuống hơ tay bên bếp lửa sưởi ấm. Sực nhớ đến đứa bé bị đóng băng đang nằm trong giỏ, ông lão ngập ngừng nói:

- Một lát tôi và bà phải vào rừng cây cuối làng làm một việc.

- Việc gì? Bà lão đang cắt một mảng thịt hươu ra cái thớt gỗ và thái nhỏ, nồi canh trên bếp bắt đầu sôi lên, nghe ông lão nói thì ngớ người, dừng tay cắt thịt và ngước nhìn khuôn mặt nhăn nheo của ông lão. Ông lão quay mặt nhìn ra phía cửa nhà đã khép, quét mắt nhanh qua chiếc giỏ vẫn nằm yên trên bàn, đoạn lại ngập ngừng nói tiếp:

- Chuyện là tôi vớt được một đứa bé ở bờ sông, nhưng tiếc là nó đã chết cóng rồi. Tôi thấy tội nên mang về định hoả thiêu nó không muốn nó bị thú rừng gặm.

Bà lão kinh ngạc, đảo mắt nhìn quanh nhà để tìm đứa bé mà ông lão đang nói đến nhưng chẳng thấy đâu. Ông lão hiểu ý liền rón rén đưa ngón tay lên trỏ cái giỏ trên bàn rồi nhìn bà lão gật gật đầu xác nhận. Bà lão thở dài:

- Tội nghiệp thật! Đã vậy thì ăn tối xong chúng ta sẽ mang nó đi thiêu.

Bà lão cho chỗ thịt vào nồi rồi dùng một cái vá gỗ khuấy khuấy lên. Mùi canh thịt bốc lên quyện vào mùi khói bếp. Nhấc nồi canh xuống bếp, bà lão phủi phủi tay vào vạt áo và đi đến bên bàn, nhìn vào gối vải trong chiếc giỏ rồi nhìn ông lão cũng đang đứng bên cạnh. Bà lão tò mò cũng muốn nhìn đứa bé trông như thế nào nên lấy gối vải ra, cảm thấy nó đúng là rất lạnh. Đặt gối vải lên bàn rồi chầm chậm giở lớp vải ra. Gương mặt đứa bé lộ ra như đang ngủ, mắt vẫn nhắm nghiền, hai tay ôm ngực. Bà lão lắc đầu tiếc rẻ, định bụng sẽ mang nó đi hoả thiêu ngay không muốn phải đợi thêm nữa. Đột nhiên bà lão buông đứa bé lại trên bàn, kéo ông lão giật lùi về phía cửa ra vào khi nhìn thấy hai con ngươi của đứa bé chuyển động qua lại dưới lớp da mắt mỏng manh.

Một luồng ánh sáng màu đỏ lóe lên bao phủ cả thân người của đứa bé trai vừa mở mắt và cất lên những tiếng khóc đầu tiên. Vợ chồng già ôm riết lấy nhau kinh hãi đứng ở bậc cửa không dám tiến lại gần, càng không dám to tiếng cầu cứu, họ chỉ đứng đó như bị chôn chân, toàn thân bất động, duy chỉ có nỗi kinh hãi trên gương mặt là chuyển dần mỗi lúc một nhiều hơn. Trên ngực đứa bé hiện lên một hình dạng như vòng tròn với những hoa văn như tia sáng mặt trời cùng một đường tròn nhỏ hơn ở ngay tâm cứ xoay đều xoay đều theo tiếng khóc của đứa trẻ. Tất cả đều là một màu đỏ như máu vô cùng kỳ dị. Đôi vợ chồng già như sắp ngất đi vì kinh sợ thì ánh sáng màu đỏ kia lịm dần lịm dần và tắt hẳn, ngay cả hoa văn hình tròn kia cũng lặn đi đâu mất, chỉ có đứa bé là vẫn đang nằm đó vừa khóc vừa huơ đôi tay và đôi chân bé xíu như bao đứa trẻ khác cứ như chuyện vừa rồi chỉ là một giấc mơ kinh hoàng của đôi người già kia mà thôi. Họ bị tiếng khóc thôi thúc phải bước lại gần hơn xem xét. Đứa bé chừng vài ngày tuổi đang quẫy đạp, khuôn mặt bé xíu với đôi mắt đen thăm thẳm như màn đêm. Đứa bé ngừng tiếng khóc, giơ bàn tay bé nhỏ về phía bà lão. Người đàn bà đã nhiều năm không có được cơ hội ôm ấp đứa trẻ nào bất giác vui mừng, giơ tay định ôm lấy đứa nhỏ thì ông lão bên cạnh ngăn lại:

- Chuyện lúc nãy bà cũng thấy mà đúng không?

- Có thấy! Nhưng ông xem giờ trông nó có khác gì những đứa trẻ sơ sinh khác đâu.

Bà ra chiều trấn an ông.

- Nhưng mà đứa bé này lai lịch kỳ lạ, lúc tôi đem nó về như thế nào mà giờ nó lại thành ra thế này.

Ông lão ngờ vực chưa biết giải thích thế nào cho hợp lý về sự xuất hiện thứ ánh sáng màu đỏ và hoa văn ẩn kia. Ông cảm thấy có chút hối hận khi đã mang nó về nhà.

- Thế gian này chuyện kỳ lạ gì cũng có thể xảy ra, ông xem nếu nó muốn làm gì thì nãy giờ tôi và ông không phải đã chẳng còn đứng đây sao?

Bà lão lúc này tay đã chạm vào đứa bé, bàn tay bé xíu của nó cầm chặt lấy ngón tay của bà. Đứa bé đã ngừng khóc, mắt mở to nhìn ngó hai khuôn mặt người cũng đang kề sát ngắm nhìn nó. Hai kẻ già kia bắt đầu quên mất chuyện vừa rồi, bế đứa bé vào lòng nựng nịu.

- Thôi vậy, nếu đã đến đây thì con sẽ là con của chúng ta nhé!

Bà lão vừa ôm đứa bé vào lòng vừa nói với ông lão bên cạnh. Ông lão gật gù theo nhưng vẫn còn nghi ngại trong lòng. Trong căn nhà nhỏ khuất sau những rặng cây, tiếng đứa bé lại oe oe kêu đói, đôi vợ chồng đi đi lại lại trông đứa con nhỏ mà họ vô tình có được sau một cơn bão tuyết khiến những ngày đông giá ấm áp hơn.

*

Nhiều mùa đông lặng lẽ trôi qua, bấy giờ là tiết trời mùa hè trên thảo nguyên tây bắc Ngạn Tây. Ánh nắng mỗi ngày đều ấm áp, bầu trời như cao thêm xanh biếc. Đám trẻ đang thả bầy cừu của cả thôn tự do ăn cỏ rồi cùng nhau lấy nhánh cây làm kiếm đấu với nhau. Đấu kiếm và rượt đuổi nhau đến chán thì lại bày trò chọc ghẹo nhau. Đám trẻ thường hay đến chọc cậu bé lười chơi nhưng ham ngủ đang nằm dài trên một gò đất, hai tay ôm ngực, miệng còn ngậm một cọng cỏ xanh. Mấy đứa trẻ rón rén đến gần rồi xoe xoe cọng cỏ gần mũi cậu bé. Bị nhột nên cậu bé liền bật dậy nhảy mũi mấy cái lại quệt quệt tay qua lại cho đỡ ngứa, mắt cậu lờ đờ chưa qua cơn buồn ngủ nhìn thấy đám trẻ rối rít chạy đi, chốc chốc quay lại trêu cậu. Cậu bật dậy đuổi theo sau, đám trẻ kia vội vàng lẫn trốn, bỗng chốc trò trêu ghẹo chuyển thành trò trốn tìm. Cậu bé kia tay cầm một một cành cây đi tìm lũ trẻ. Bắt được đứa nào lại nói, “ta bắt được ngươi rồi!”. Đứa bị bắt sẽ đáp lại, “hiệp sĩ tha mạng!”, cho đến khi cả bọn bị áp giải về lại đồng cỏ thì trời cũng dần tối. Cả bọn lại ríu rít lùa đàn cừu về thôn.

Về đến đầu ngõ đã nghe mùi khét và khói toả từ phía rừng cây cuối thôn. Tiếng đám đông lao xao gần đám cháy. Thấy đám trẻ về đến, những người đàn bà trong thôn kéo con của họ về nhà và đóng cửa lại. Từ đó, chúng không được cho đi chăn cừu nữa và thôn xóm trở nên tiêu điều, đêm nào cũng nghe thấy nhiều tiếng ho tiếng nôn, ngày nào cũng có đám cháy phía cuối thôn, người trong thôn nhiều người không thấy đâu nữa.

Đến một ngày cha mẹ cậu bé cũng bắt đầu ho và nôn. Cậu bé chạy khắp nơi tìm người giúp nhưng chẳng tìm được ai, cuối cùng cậu lầm lũi quay về chăm sóc cho cha mẹ, khi họ cần gì cậu sẽ mang thứ đó đến cho họ vì họ giờ không đi đâu được nữa. Hàng ngày cậu ra giếng lấy nước mang về tắm rửa cho cha mẹ. Mấy con cừu của gia đình cậu cũng lần lượt mang ra giết lấy thịt ăn dần. Nhiều người đã bỏ đi nơi khác, bỏ lại những người bệnh không ai chăm lo. Công việc của cậu bé trở nên bận rộn hơn vì phải chăm sóc nhiều người cùng lúc. Để thuận tiện hơn cậu kéo tất cả họ đến tập trung trong một gian nhà. Mỗi ngày đều đặn các việc như lấy nước, nấu cháo, tắm rửa, đốt xác. Tối đến cậu lăn lóc trong rừng canh săn thú vì trong thôn sắp không còn gì để ăn. Cậu nằm ngửa nhìn ánh trăng lấp ló trên cao, nhớ lũ trẻ giờ không biết đã đi đâu, cậu chỉ nhớ có vài đứa đã nằm trong đám cháy. Thanh kiếm khá nặng với sức đứa bé mười tuổi như cậu nhưng cậu chẳng biết nên dùng thứ gì để đi săn. Cậu có mang theo cả cung tên mà cậu đã lấy được trong nhà của một người nào đó. Cậu đã đứng ở con đường lát đá duy nhất của thôn bắn liên tục lên một cây cột nhà, luyện tập được ít hôm thì cậu mang nó đến đây để dùng. Nằm chờ mãi vẫn không thấy con mồi nào đến, cậu mệt quá nên ngủ quên, lúc cảm thấy có gì ươn ướt, lành lạnh quấn lấy hai chân mình thì choàng tỉnh dậy và nhìn xuống. Cậu kinh người, hai tay dụi mắt nhìn lại lần nữa thì thấy một con trăn rất to đang quấn lấy chân cậu đến gối và đang trườn lên tiếp tục quấn lấy cậu. Cậu cử động, cố giằng ra khỏi con trăn thì nó cong cổ lên cao đang chuẩn bị vồ vào mặt cậu. Cậu trợn mắt thảng thốt nhìn lên, hai tay quơ dưới nền đất thì chạm đến chuôi kiếm. Con trăn hơi kéo đầu về phía sau trước khi vồ tới, hai con mắt vàng khè của nó chớp tắt trong đêm. ‘Bụp’, lúc con trăn ào đến thì thanh kiếm dưới đất chém qua còn nhanh hơn. Cái đầu của nó rớt xuống văng ra xa, đoạn thân của nó rơi lên người cậu bé nghe ‘huỵch’, máu văng lên mặt tanh tưởi và chảy ướt cả người cậu. Phần thân con trăn đang quấn chân cậu như siết lại chặt hơn, cái đuôi vẫn còn rung rung, phải một lúc sau mới giãn ra và chết hẳn. Cậu trân người, chỉ có nhịp thở dồn là sống động. Cậu đạp con trăn ra khỏi người rồi cuốn quýt chạy đi, chạy được một đoạn thì sực nhớ gì đó lại quay trở lại chỗ vừa nãy chụp lấy thanh kiếm và bộ cung tên mang về. Cậu múc từng gáo nước dội lên người để rửa hết máu, lột bỏ bộ y phục trên người, tồng ngồng chạy vào một ngôi nhà lấy một bộ y phục của đứa bé trai nào đó mặc vào, vẫn chưa hết sợ hãi thì lại nghe tiếng nôn ói của những người còn lại trong thôn. Cậu lại chạy ra giếng lấy nước lên và mang đến căn nhà kia. Cậu đã đốt xác mẹ của mình cách đây vài ngày cùng một số người khác, những cành cây khô của cánh rừng sắp bị cậu mang về đốt sạch, chỗ đốt xác giờ đã dày lên thành một đụn tro lớn. Cậu mở cửa đi vào, những người bên trong giờ còn lại vài người trong đó có cha của cậu. Cởi hết y phục của họ ra, cậu rửa qua một lượt rồi lấy vải khô lau cho họ trước khi mặc lại y phục. Đốt lại đống lửa cho họ sưởi ấm. Đã từ lâu họ chẳng còn nói chuyện được với nhau, chỉ có những tiếng rên, thứ ngôn ngữ duy nhất mà cậu bé còn nghe được và biết họ đang cần gì. Cậu đem gáo nước đến đút cho từng người một, cảm thấy tiếc vì khi nãy không cắt thịt con trăn mang về nấu cháo cho mọi người nhưng giờ cậu không còn can đảm đi vào rừng nữa vì có thể một con trăn khác đang chờ cậu ở đó. Cậu đến đỡ cha mình dậy, cho ông uống nước. Cha cậu run rẩy đưa tay lên ngực áo kéo ra một mảnh giấy ngả vàng gấp làm tư rồi lại run run đưa cho cậu, cái lưỡi như sắp rớt ra khỏi miệng cố nói mấy từ rời rạc:

- Ủ... ủ... ủ... ủa... o... o... on!

Cậu bé chẳng muốn dây dưa, chỉ sợ cha cậu sẽ mệt đến chết vì phải cố nói chuyện với cậu liền cầm lấy tờ giấy nhét vào ngực áo, đưa tay vuốt vuốt ngực ông và đỡ ông nằm xuống. Xong đâu đấy cậu ra ngoài khép cửa rồi nằm co gối bên thềm nhà, vẫn như mỗi đêm, cậu bắt đầu khóc thút thít.

Mấy ngày sau thì cậu đã chẳng còn xác để đốt mỗi ngày, đồng nghĩa những việc khác cậu cũng chẳng cần làm nữa. Cậu đi nhặt nhạnh những thứ ngũ cốc, bắp ngô khô còn sót lại để ăn hay ra suối bắt cá về. Cậu chẳng bao giờ dám vào rừng săn thú nữa. Có lúc cậu ngồi một mình bên miệng giếng giữa thôn. Có lúc cậu ngồi bên cột nhà của bất cứ căn nhà nào cậu muốn. Có lúc cậu ngồi hẳn ở giữa con đường lát đá, lúc xoay mặt về phía đầu thôn, lúc xoay về phía cuối thôn, lúc giấu đầu giữa hai gối nhìn chầm chầm một con bọ nằm ngửa dưới đất chưa lật người lại đi tiếp được. Có lúc cậu ngồi chỗ bìa rừng nơi đám cháy đã nguội lạnh từ lâu, nhiều mẫu xương trắng chưa thành tro lộ ra, cậu bèn đi lấy thêm cây khô về đốt và canh chừng để chắc rằng tất cả đã thành tro. Có lúc cậu về nhà ngồi bên chiếc bàn gỗ cũ kỹ nhìn xung quanh, nhìn bếp lửa mẹ cậu hay ngồi nấu ăn và vá áo lúc về đêm, chiếc ghế gỗ cha cậu hay ngồi kể những chuyện đó đây cho họ nghe, lúc đó, cậu hay gục đầu lên bàn lim dim ngủ chờ đến lúc ăn tối. Có lúc cậu đứng cả ngày ở ngõ vào thôn, nhìn ngó các hướng, nghĩ biết đâu những người rời đi sẽ lại trở về. Rất nhiều ngày như thế nhưng chẳng thấy ai về. Cậu nghĩ có lẽ giữa núi rừng thế này họ đã bị lạc mất hay đã gặp phải bầy trăn trong rừng. Buổi tối, cậu vẫn giữ thói quen nằm co gối bên thềm nhà vì nghĩ nếu có người trở lại mà không thấy có ai sẽ lại rời đi nên nếu nhìn thấy cậu họ sẽ ở lại.

Cây cối trong rừng bắt đầu chuyển đổi màu sắc lá cây thành các màu cam, vàng, đỏ chứ không còn là một màu xanh mướt thường thấy trước đó. Lúc này cậu bé đang canh bắt cá bên suối, trên bờ có một ít nấm cậu hái được trước đó. Bây giờ cậu đã bắt đầu đốt những căn nhà trong thôn, mỗi ngày một căn, chỉ còn một vài căn còn lại, khắp nơi toàn tro bụi. Cậu cũng không nằm ngủ ở thềm nhà nữa mà nằm cạnh miệng giếng ở giữa thôn vì ban đêm cậu hay khát nước.

Căn nhà cuối cùng cũng là nhà của cậu bé bốc cháy ngùn ngụt. Cậu ngồi bên giếng thẫn thờ nhìn, đang suy nghĩ chưa biết hôm sau sẽ đốt thứ gì, nhớ đến mảnh giấy mà cha cậu đã đưa cho cậu trước đó vẫn còn giữ trong ngực áo dù có đôi lần lấy ra xem nhưng chỉ thấy một hình vẽ nhiều đường nét nằm trong một đường tròn. Cậu lại giở nó ra nhìn một lúc rồi gấp lại cất vào ngực áo để hôm sau mang đi đốt.

*

Cậu bé đốt xong tờ giấy thì ngồi nhìn nhúm tro tàn trên đất. Đưa tay vuốt mặt mấy lần rồi chống cằm, đảo mắt nhìn xung quanh. Phía xa xuất hiện dáng một người ngồi trên lưng ngựa dừng lại ở lối vào. Cậu bé vẫn ngồi yên một chỗ nhìn ra. Người kia cũng ngồi trên lưng ngựa nhìn vào. Một lúc sau thì con ngựa từ từ bước lên mặt đường lát đá nghe lọc cọc, nó chậm rãi bước từng bước theo sự điều khiển của người ngồi trên nó. Người trên ngựa nhìn bên trái rồi bên phải, bên nào cũng chỉ là tro bụi. Con ngựa dừng lại cách cậu bé vài bước chân. Cậu bé ngước nhìn con ngựa cũng đang giương mắt nhìn cậu, miệng nó thở phì phì. Cậu ngẩng đầu cao hơn nhìn người kia cũng đang nhìn xuống cậu. Ông ta cao lớn, mặc một chiếc áo da màu đen bóng loáng lộ hai cánh tay đầy cơ bắp. Hai tay ông ấy mang bao tay da xỏ ngón đến một đốt tay và trùm một nửa cùm tay. Chiếc quần cũng bằng da và đôi giày cổ cao cũng bằng da nốt. Bên hông mang một thanh kiếm lớn. Mái tóc đen dài buộc túm phía sau lưng và tết lại thành một đuôi rết to để ra phía trước chỗ vai bên phải. Đôi mắt ông ấy rất sâu, đuôi mắt lại có một vết sẹo kéo dài đến mang tai. Bộ râu ngắn quanh hàm và mép miệng. Đôi môi dày cong lên. Cậu bé vẫn chống cằm nhìn người trên ngựa mà chẳng có chút phản ứng gì. Người kia bước xuống ngựa, lấy bình nước da dê treo bên hông ngựa rồi bước đến bên cái giếng. Đi ngang qua cậu bé thì liếc mắt nhìn xuống, lại liếc mắt nhìn về cuối thôn, cũng chỉ thấy tàn tro. Ông ấy cao như cái cột nhà, hơi cúi đầu nhìn xuống giếng để kiểm tra xem có nước không, nhìn xuống cậu bé đang ngồi tựa vào thành giếng, tay chống cằm. Ông ấy đưa chân đá đá vào chân cậu rồi nói:

- Cái giếng này là của cậu bé à?

Cậu bé nghe giọng nói của ông ấy như tiếng trống thùng thùng phát ra phía trên cao thì ngẩng mặt sang nhìn rồi gật gật nói:

- Dân làng chết hết rồi nên nó giờ đúng là của ta.

Ông ấy mím môi gật gật đầu, đoạn lại nói:

- Ta xin ít nước nhé? Con ngựa của ta cũng khát lắm rồi.

Cậu bé quay nhìn con ngựa, lại gật gật nói:

- Ông cứ lấy, một mình ta cũng không uống hết nước trong giếng.

Ông ấy quăng thùng gỗ xuống giếng lấy nước rồi kéo lên, cơ bắp trên tay ông ấy nổi lên từng thớ. Lấy được nước, ông ta đổ vào bình rồi vóc một ít rửa mặt, sau đó mang cả thùng lại cho con ngựa uống. Ông ấy đứng bên cạnh vuốt vuốt con ngựa rồi nhìn cậu bé, ngập ngừng hỏi:

- Họ chết cả rồi à? Dịch bệnh sao?

- Không phải! Nôn hết thức ăn nên chết đói.

- Ha! Ừ, hiểu rồi! Sao cậu còn đây?

Cậu bé nhún vai không trả lời, vẻ mặt tiu nghỉu vì không hiểu ông ấy muốn biết vì sao cậu ở lại đây hay vì sao cậu chưa chết. Ông ấy gãi gãi tai hỏi:

- Cậu không bị nôn giống họ à?

- Không! Ngày nào ta cũng đói, ăn vào vẫn thấy đói nên không còn gì để nôn cả.

- Ở đây không còn ai sao cậu còn ở lại?

- Ta cũng đang chuẩn bị đi đây. Lúc trước chưa đi là vì nếu ta đi rồi thì không có ai đốt xác cho họ cả.

Ông ấy đặt cái thùng gỗ lại bên miệng giếng rồi định lên ngựa rời đi.

- Cám ơn cậu nhé!

- Ông cho ta đi cùng được không? Thật ra ta cũng chưa biết nên đi đâu trước cả.

Cậu bé đứng lên khẩn khoản nhìn người đàn ông. Ông ấy hơi hếch mặt lên như để nghĩ ngợi rồi nói:

- Ta không thích đi cùng người khác, không cần bạn đồng hành.

- Người hầu thì sao? Ta làm được rất nhiều việc.

Ông ấy nhíu mày, hơi nghiêng đầu nhìn cậu bé, lại hỏi:

- Cậu ốm nhom như thế thì làm được gì?

- Ta có thể đốt lửa, nấu cháo, tắm rửa cho ông, nếu ông chết ta sẽ đốt xác cho ông.

Ông ấy ngớ người nhìn cậu bé, gương mặt méo xệch không biết nên khóc hay nên cười. Cậu bé đứng bên miệng giếng, hai tay túm lấy gấu quần, nín thở chờ đợi.

- Nghe cũng hay đấy! Nhưng phải nghe lời, nếu không thì ta sẽ bán cậu lấy tiền uống rượu.

Cậu bé gật gật đầu, đôi mắt sáng lên mừng rỡ.

- Lên đi!

Cậu bé chạy lại phía sau con ngựa, hai tay ôm lấy hông nó rồi nhảy nhảy lên nhưng không được. Cậu bặm môi, tập trung sức lực, cố nhảy lên lần nữa. Con ngựa rất kiên nhẫn đã không đá cho cậu cái nào. Người đàn ông lắc lắc đầu, khom người túm lấy áo cậu rồi kéo lên. Cậu lên được lưng ngựa và ngồi phía sau người đàn ông. Con ngựa bắt đầu bước đi hướng ra khỏi thôn.

- Ngồi cho chắc vào! Không được ôm ta!

- Nhưng ta sợ té!

- Còn ôm nữa là ta chặt tay ngươi!

Cậu bé rụt hai tay lại, kẹp hai chân thật chắc vào hông con ngựa, ngồi lắc lư lọt thỏm giữa tấm lưng lớn của người đàn ông. Trời cuối thu gió lạnh kéo về, vài giọt mưa lạc rơi trên mái đầu rối rắm.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện