1
Cả đêm im lặng, khi Đường Phong tỉnh lại, ngoài cửa sổ đã là một thế giới trắng muốt. Đường Phong giật mình đẩy cửa phòng thì nhìn thấy Hàn Giang và Makarov đang đứng trước khoảnh sân của căn nhà gỗ ngắm nhìn tuyết trắng.
Hàn Giang quay lại nhìn thấy Đường Phong liền hỏi: “Sao rồi? Nghỉ ngơi khỏe chưa?”
Đường Phong thẫn thờ gật gật đầu, coi như trả lời Hàn Giang, nhưng vẻ mặt đầy kinh ngạc: “Thật là quá đẹp! Đây...” Đường Phong há nửa miệng, ngạc nhiên nhìn chăm chăm về cảnh vật bọc trong tuyết trắng, hồ nước trắng, những rặng núi tuyết trắng, đại tuyết sơn phía xa xa càng thêm trang nghiêm tĩnh mịch…
“Không ngờ nửa đêm tuyết lại rơi nhiều như vậy, đây có lẽ là trận tuyết đầu mùa ở đây năm nay.” Hàn Giang nhìn về phía tuyết sơn xa xa, tự mình lẩm bẩm.
“Đúng vậy! Quả là một trận tuyết to.” Makarov nói.
“Mọi người xem...” Đường Phong đột nhiên chỉ về ngọn núi tuyết phía xa xa, thốt lên kinh ngạc. Hàn Giang và Makarov nhìn theo hướng ngón tay Đường Phong chỉ: “Mọi người nhìn, nhìn thấy chưa?”
“Nhìn thấy gì?” Makarov không hiểu hỏi.
“Tuyết sơn, đỉnh đại tuyết sơn, đỉnh tuyết sơn rút cuộc cũng lộ ra rồi.” Đường Phong phấn khích hét lên kinh ngạc.
Hàn Giang và Makarov gần như cùng lúc cũng đã nhìn thấy, đỉnh núi tuyết vốn luôn bị mây khói bao phủ, không chịu lộ diện, rốt cuộc cũng đã lộ ra diện mạo của nó.
“Hùng vĩ quá, ngọn núi tuyết này tên là gì nhỉ?” Hàn Giang không thể không thốt ra lời ca ngợi.
“Nó tên là A Ni Mã Khanh!” Phía sau lưng mọi người bỗng nhiên vang lên giọng nói dịu dàng của Hắc Vân. Mọi người quay đầu lại nhìn thì thấy Hắc Vân đang chầm chậm bước tới. Đường Phong càng thêm kinh ngạc: “Cô nói ngọn núi tuyết này tên là gì cơ?”
“A Ni Mã Khanh!” Hắc Vân nhắc lại lần nữa.
“A Ni Mã Khanh? Cô nói là A Ni Mã Khanh! Ở đây có thể nhìn thấy núi tuyết A Ni Mã Khanh? Thật là không thể tưởng tượng được!” Đường Phong lập tức nghĩ ngay tới núi tuyết A Ni Mã Khanh ở mãi tận trong lãnh thổ Thanh Hải.
Hắc Vân thấy vẻ kinh ngạc của Đường Phong liền cười hinh híc đáp: “Tuy ở đây anh có thể nhìn thấy núi tuyết A Ni Mã Khanh, nhưng thật ra núi tuyết cách đây rất rất xa.” Hắc Vân dừng lại một lúc rồi tự thốt lên: “Đây là một ngọn núi thần, mỗi khi có ai nhìn thấy ngọn núi tuyết này thì sẽ bị sự thanh khiết, diễm lệ của nó chinh phục. Theo như những bậc cao tuổi nói lại thì, người nào có thể nhìn thấy toàn bộ diện mạo của A Ni Mã Khanh, họ sẽ hạnh phúc một đời, vận may sẽ thường ở bên người đó. Vậy nên những người thành kính thường đứng đó rất lâu, chờ đợi mây khói tản đi, hy vọng có thể nhìn được dung mạo thật sự của A Ni Mã Khanh. Vậy mà, mọi người đều hết lần này đến lần khác thất vọng, bởi vì A Ni Mã Khanh giống như một thiếu nữ tính khí đỏng đảnh, những lúc tức giận đều trốn nấp trong mây khói…”
“Nói như vậy thì chúng tôi may mắn quá rồi!” Đường Phong ngắt lời Hắc Vân.
“Đúng vậy, các anh rất may mắn, vừa mới tới đây mà đã có thể nhìn thấy diện mạo thật sự của A Ni Mã Khanh.” Hắc Vân gật gật đầu đáp.
“May mắn? Khà khà, kể từ sau khi tôi bị cuốn vào sự việc này, cái từ may mắn đã rời bỏ tôi ra đi rồi; gặp phải trận tuyết to thế này, tôi thấy chỉ khiến chúng ta càng thêm đen đủi.” Makarov vốn im lặng hồi lâu giờ đã cất lời.
“Ý ông nói tuyết lớn phong tỏa núi, chúng ta càng không dễ để ra ngoài đúng không?” Đường Phong nghi hoặc nhìn Makarov.
Makarov nặng nề gật gật đầu, lòng Đường Phong và Hàn Giang cũng trĩu nặng.
Ba người quay vào trong căn nhà gỗ. Khi đi qua cửa gian Phật đường, Đường Phong phát hiện, cửa chính phật đường vẫn đang đóng im ỉm, Đại Lạt ma đâu? Ông ấy còn ở trong đó không? Đường Phong trong lòng đầy nghi ngờ cố ăn hết bữa sáng mà Hắc Vân chuẩn bị cho họ, sau đó đến phòng của Lương Viện. Thuốc mà Đại Lạt ma hôm qua cho Lương Viện uống quả nhiên công hiệu, cô đã hết sốt, chỉ có điều là vẫn hôn mê bất tỉnh.
Đường Phong ở lại phòng Lương Viện, đợi cô gái tỉnh dậy. Nhưng anh chưa đợi được Lương Viện tỉnh lại thì đã nhận được lời triệu lên của Đại Lạt ma. Đường Phong thấp thỏm bất an đi theo Hắc Vân, rồi lại đi vào gian Phật đường bí ẩn đó. Trước gian thờ Phật, Đại Lạt ma vẫn ngồi khoanh chân như cũ, nhắm mắt tịnh tâm, phía bên kia, Hàn Giang và Makarov đã ngồi đó chờ đợi khá lâu rồi.
2
Đợi Đường Phong ngồi yên vị, Đại Lạt ma đột nhiên mở mắt, đôi mắt như hai ngọn đuốc, uy nghiêm nhìn khắp một lượt những người trong lễ đường. Sau đó ông lại cụp mắt xuống, xoay tràng hạt xương người, đọc một đoạn kinh văn. Đường Phong, Hàn Giang và Makarov nghi hoặc nhìn nhau, không biết Đại Lạt ma sẽ làm gì ngay sau đây? Đọc xong một đoạn kinh văn, Đại Lạt ma cuối cùng cũng mở miệng hỏi: “Các vị, có thể nói cho ta biết sự việc đêm qua không?”
“Cái gì?”, “Sự việc đêm qua?” Trong lòng Đường Phong, Hàn Giang và Makarov đều kinh ngạc. Đại Lạt ma ám chỉ việc ba người tranh giành kệ tranh ngọc trên vách núi đêm qua sao? Nhưng... nhưng ông luôn ở trong Phật đường đóng kín này thì sao lại biết về việc trên vách núi đó được?
Đường Phong định thần lại, thử hỏi thăm dò: “Việc đêm qua? Đêm qua xảy ra chuyện gì vậy? Tôi ngủ một mạch rất ngon mà.”
“Chàng thanh niên, lẽ nào còn cần tôi phải nhắc nhở cậu sao? Cậu phải biết rằng, ở đây, nhất cử nhất động của các cậu đều không lọt qua được mắt tôi đâu, đêm qua, trên vách núi...”
“Đúng! Tôi thừa nhận, đêm qua trên vách núi chúng tôi có xảy ra một chút hiểu lầm nho nhỏ, nhưng hiện giờ chúng tôi đều đã giải quyết xong rồi.” Đường Phong thấy Đại Lạt ma đã biết chuyện đêm qua, nên không đợi Đại Lạt ma nói xong liền cướp lời.
“Ba người các cậu không phải cùng một đường.” Giọng Đại Lạt ma sang sảng.
“Không sai, chúng tôi vốn không phải cùng một đường, nhưng hiện giờ chúng tôi đều đang bị người ta truy sát, thế nên...”
“Nói chính xác hơn, các người cùng vì một mục đích nên mới đi cùng nhau.” Giờ thì đến lượt Đại Lạt ma ngắt lời Đường Phong.
Ba người lại giật thót tim, Đường Phong nghĩ trong bụng: xem ra Đại Lạt ma đã nhìn thấu mọi chuyện, không cần thiết phải tiếp tục che giấu nữa, ngược lại còn khiến Đại Lạt ma nghi ngờ trong lòng, sẽ bất lợi cho mình. Nghĩ tới đây, anh nhìn nhìn Hàn Giang, Hàn Giang gật gật đầu với anh, vậy là, Đường Phong nói với Đại Lạt ma: “Không sai, chúng tôi cùng một mục đích, đến đây là vì một báu vật của vương triều Tây Hạ!”
Khi Đại Lạt ma nghe thấy hai từ “Tây Hạ”, lông mày ông khẽ động đậy. Đây là một cử động rất nhẹ nhưng đã bị Đường Phong nhìn thấy, tức khắc, anh gần như có thể đoán định, Đại Lạt ma chắc chắn biết chút gì đó? Và những gì Đại Lạt ma biết nhất định là thứ mà họ hứng thú.
Đường Phong tiếp tục nói: “Đó là một báu vật đến từ vương triều Tây Hạ một nghìn năm trước, kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu…”
Đường Phong nói tới đây, Đại Lạt ma lại lần nữa mở to đôi mắt như hai ngọn đuốc, nhìn thẳng vào con ngươi của Đường Phong, khiến Đường Phong sợ tới nỗi nuốt lời lại.
“Kệ tranh ngọc Tây Hạ? Nói như vậy thì các người bị truy sát cũng không có gì lạ. Nếu như ta nói không sai, thì trong ba lô của các người có một tấm kệ tranh ngọc phải không.” Đại Lạt ma vẫn nhìn Đường Phong chằm chằm như thế.
Đường Phong bất giác gật đầu, nói: “Đúng vậy, trong tay chúng tôi có một tấm.”
“Các người còn muốn đoạt được mấy tấm còn lại?” Đại Lạt ma nói một câu trúng phóc, khiến ba người kinh ngạc tới nỗi không thốt nên lời.
Đại Lạt ma lại nói tiếp: “Để ta nói, tấm kệ tranh ngọc mà các người có trong tay chính là tấm mà Kozlov đào được tại cổ thành Hắc Thủy. Trong bốn tấm kệ tranh ngọc thì chỉ có kệ tranh đó là có khả năng bị các người đoạt được.”
“Sao ông lại biết?” Đường Phong ngạc nhiên hỏi.
“Bởi vì chỉ có kệ tranh đó mới từng xuất hiện trên thế giới.”
“Nói như vậy thì ba tấm kệ tranh còn lại chưa từng rời khỏi vị trí mà chúng vốn được cất giấu ở đấy?” Đường Phong tò mò hỏi.
“Không! Theo như ta biết, còn có một tấm đã rời khỏi vị trí vốn cất giấu nó.”
“Ồ! Là tấm nào vậy?” Hàn Giang truy hỏi.
“Cụ thể là tấm nào ta không biết!” Đại Lạt ma nói tới đây, dừng lại một lúc, nhìn mọi người trong phòng một lượt, sau đó mới hạ giọng xuống nói: “Các người đã từng nghe tới Hắc Lạt ma chưa?”
“Hắc Lạt ma? Hắc Lạt ma nào? Lạt ma của các ông còn phân thành Hắc Lạt ma và Bạch Lạt ma ư?” Hàn Giang lắc đầu mụ mị nhìn Đại Lạt ma.
“Ý ông nói về Hắc Lạt ma, thủ lĩnh thổ phỉ từng uy danh thiên hạ vùng đại sa mạc Tây Bắc những năm 20, 30 thế kỷ trước?” Với học thức uyên bác của mình, Đường Phong đột nhiên nhớ lại Hắc Lạt ma được nhắc đến trong truyền thuyết cuộc thám hiểm miền tây của Marc Aurel Stein, Sven Anders Hedin... mà mình đã từng đọc.
“Không sai, người mà tôi nói chính là Hắc Lạt ma này. Nghe nói, vào những năm 20, 30 của thế kỷ trước. Tiếp theo nhà thám hiểm người Nga Kozlov sau khi phát hiện ra một kệ tranh ngọc tại thành cổ Hắc Thủy, lại có người phát hiện ra một tấm kệ tranh ngọc khác. Tấm kệ tranh ngọc đó được phát hiện ở đâu, phát hiện như thế nào, tình hình cụ thể hiện giờ vẫn chưa được khám phá, nhưng có truyền thuyết nói rằng, sau này kệ tranh ngọc đó đã rơi vào tay Hắc Lạt ma.”
“Rơi vào tay Hắc Lạt ma? Với thực lực của Hắc Lạt ma lúc đó, hoàn toàn có khả năng này? Nhưng, tôi còn nhớ, do luôn đối kháng với chính quyền ngoại Mông nên sau này Hắc Lạt ma đã bị chính quyền ngoại Mông và nhân viên đặc công, được Liên Xô phái tới, đánh chết rồi. Nếu như trong tay Hắc Lạt ma có tấm kệ tranh ngọc, vậy sau khi Hắc Lạt ma chết thì kệ tranh ngọc trong tay ông đi đâu mất?”
“Kệ tranh ngọc đó đi đâu mất không ai biết. Người thì nói nó bị thuộc hạ của Hắc Lạt ma lấy đi, cũng có người nói nó bị đặc công Liên Xô đoạt lấy, còn có người nói, kệ tranh ngọc đó đã bị Hắc Lạt ma cất giấu ở một nơi mà không ai biết, vì nơi cất giấu báu vật đó chỉ có một mình ông ta biết mà thôi. Sau khi ông ta chết đột ngột thì cũng không còn ai có thể biết được tung tích của kệ tranh ngọc đó nữa.”
“Nhưng có người cho rằng Hắc Lạt ma đó chưa chết, người mà bị chính quyền ngoại Mông đánh chết vốn không phải là Hắc Lạt ma thật, mà chỉ là thế thân của ông ta.” Đường Phong tiếp tục hỏi.
“Đúng vậy, hành động đột kích Hắc Lạt ma lần đó của chính quyền ngoại Mông tuy rất thành công, nhưng nhiều người vẫn tin rằng Hắc Lạt ma chưa chết, mà người bị đánh chết chỉ là một người thế thân. Nếu đúng như thế, vậy thì, rất có khả năng Hắc Lạt ma đã đem theo kệ tranh ngọc cao chạy xa bay, vĩnh viễn biến mất rồi. Tóm lại, kể từ đó trở đi, mọi tin tức và truyền thuyết của kệ tranh ngọc này đều chấm dứt tại đó.”
“Thật không ngờ lại phức tạp như vậy. Nhưng, điều mà tôi càng hứng thú hơn là, ông, một người xuất gia sao lại hiếu biết nhiều như vậy?” Hàn Giang đổi chủ đề câu chuyện, đột nhiên hỏi.
Đại Lạt ma bị Hàn Giang đột ngột hỏi vậy, sau chút sững sờ liền cười lớn, đáp: “Được rồi, đã nói đến đây rồi, vậy thì chúng ta hôm nay cũng không cần phải che giấu và sẽ nói hết ngọn nguồn đầu đuôi câu chuyện.”
3
Đại Lạt ma buông tràng hạt xương người trên tay xuống, thở dài, quay lại hỏi mọi người: “Trước khi tôi kể lại ngọn nguồn đầu đuôi toàn bộ câu truyện, tôi muốn hỏi các anh trước đã, các anh có biết những người chúng tôi là người gì không?”
“Người gì?” Đường Phong giật mình nhìn Đại Lạt ma, không hiểu ý của ông.
“Các ông là người dân tộc Tạng?” Đường Phong suy đoán. Đại Lạt ma lắc lắc đầu.
“Người dân tộc Khương?” Makarov cũng suy đoán. Đại Lạt ma vẫn lắc lắc đầu.
“Dân tộc Mông Cổ...” Hàn Giang càng đoán càng thiếu tự tin.
Đại Lạt ma bật cười. Ông cười vang, sau đó chậm rãi nói: “Thật ra, tiểu huynh đệ của các anh đã đoán gần đúng rồi.” Nói xong, Đại Lạt ma khẽ chỉ Đường Phong.
Đường Phong ngạc nhiên đến nỗi không khép được miệng, ấp úng thốt ra: “Các ông là người Đảng Hạng?”
“Đúng, người Đảng Hạng cuối cùng!” Đại Lạt ma trả lời rất nghiêm túc.
“Không! Thế này thì quá ly kỳ, dân tộc Đảng Hạng đã biến mất từ lâu rồi mà, tuy tôi có nhận ra tập tục của các ông, nhưng bất luận thế nào đi chăng nữa cũng không dám tin, các ông hóa ra... hóa ra là người Đảng Hạng?” Đường Phong không thể tin đây là sự thật.
“Chúng tôi chính là người Đảng Hạng di dân tới đây sau khi Tây Hạ bị diệt vong tám trăm năm trước, người Đảng Hạng cuối cùng. Là hậu duệ của người Đảng Hạng, tôi nghĩ tôi có quyền mời các anh đưa kệ tranh ngọc ra đây để tôi được tận mắt nhìn thấy diện mạo của nó.” Lời nói của Đại Lạt ma vô cùng khảng khái.
Đôi tay của Đường Phong giống như không còn thuộc về bản thân anh vậy. Mất tự chủ, anh lôi kệ tranh ngọc từ trong ba lô ra, cung kính đặt lên tấm phản trước mặt Đại Lạt ma. Hàn Giang nhìn ra, đôi tay Đại Lạt ma khi bưng kệ tranh ngọc lên khẽ run rẩy, ông cẩn thận tỉ mẩn nhìn ngắm hồi lâu, rồi lại rón rén đặt kệ tranh ngọc xuống phản. Thông qua hàng loạt động tác của Đại Lạt ma, Hàn Giang chẳng mấy chốc đi phán đoán ra, chắc là Đại Lạt ma cũng chưa từng nhìn thấy kệ tranh ngọc, ít nhất cũng chưa từng nhìn thấy kệ tranh ngọc này.
Đại Lạt ma đặt kệ tranh ngọc xuống, thở dài một cái tiếp tục nói: “Tôi đã sớm đoán được, cái ngày này nhất định sẽ đến trong cuộc đời, sau đây tôi sẽ nói về lịch sử của kệ tranh ngọc này. Tất cả những điều này đều phải bắt đầu kể từ lịch sử của dân tộc Đảng Hạng chúng tôi. Người Đảng Hạng chúng tôi đúng như những gì các anh đã biết, khởi nguồn từ khúc đầu sông Hoàng Hà, trong rừng rậm thảo nguyên ven sông Bạch Hà. Sau đó, người Đảng Hạng đã không chống lại được sự tấn công của người Thổ Phiên nên đã chọn lựa con đường di dân khó nhọc. Tổ tiên của chúng tôi đã vượt qua tuyết sơn A Ni Mã Khanh thánh khiết, hướng về phía bắc, đi mãi cho tới tận bình nguyên Ninh Hạ mới dừng chân, rồi dần dần định cư tại đây. Sau đó, dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh vĩ đại của dân tộc chúng tôi, thủ lĩnh Hạo Vương Suất, cũng chính là Nguyên Hạo mà các anh vốn đã biết tới, trải qua mấy đời đổ máu và hy sinh, cuối cùng đã xây dựng nên Bạch Cao Đại Hạ Quốc, uy chấn sa mạc phương bắc, cũng chính là Tây Hạ mà các anh thường nói.”
“Chúng tôi đều đã biết về những lịch sử này, ông hãy kể thẳng về kệ tranh ngọc này đi.” Hàn Giang có vẻ sốt ruột.
Đại Lạt ma căn bản không bận tâm tới lời Hàn Giang, vẫn kể lần lượt theo trình tự: “Tổ tiên của chúng tôi sinh sống giữa rất nhiều những bộ lạc dân tộc khác, tin thờ sói là phép tắc của những dân tộc sinh sống trên thảo nguyên và sa mạc; kẻ mạnh nuốt kẻ yếu, nếu anh không lớn mạnh thì sẽ bị người khác nuốt chửng. Vậy là, trong cuộc tranh đấu với các bộ lạc và các dân tộc khác, người Đảng Hạng đã hình thành nên tục tính anh dũng thiện chiến. Người Đảng Hạng nếu kết thù với ai, thì bắt buộc phải giết kẻ địch trả thù, nếu không thì sẽ không còn mặt mũi nào sống trên thế gian này nữa. Nhưng cũng chính vì người Đảng Hạng anh dũng thiện chiến nên đã khiến cho người Đảng Hạng luôn ở trong tình trạng rời rạc, không thống nhất, bị người ta lợi dụng, tự thảm sát lẫn nhau. Là Hạo Vương! Là Hạo Vương Suất đã lãnh đạo dũng sĩ Đảng Hạng chinh chiến tứ phương, không có đối thủ; dùng máu tươi để gắn kết người Đảng Hạng anh dũng thiện chiến lại với nhau, khiến người Đảng Hạng trở thành một dân tộc, một quả đấm đầy sức mạnh.
Người Đảng Hạng tác chiến, thường là toàn dân hòa cùng binh lính, chính một đội quân như vậy đã khiến cho Hạo Vương đánh bại quân Tống tại trận Hảo Thủy Xuyên và Tam Xuyên Khấu, rồi lại đánh lui quân Khiết Đan tại Địa Cân Trạch[8]. Uy danh đại chấn, khiến cho Tống - Liêu không dám coi thường Tây Hạ, nhưng đồng thời, do nhiều năm chinh chiến nên sức lực của đất nước Tây Hạ cũng hao tổn rất lớn. Vì vậy mà trong những năm cuối đời, Hạo Vương đã cải biến quốc sách, chấm dứt chiến tranh, nghỉ ngơi an dưỡng, tôn sùng Phật giáo. Bên cạnh đó, Hạo Vương đã lợi dụng việc nắm giữ sự lưu thông của con đường tơ lụa nên đã áp dụng sưu cao thuế nặng với những thương gia qua lại trên con đường đó. Hàng loạt những chính sách này, đã khiến cho Tây Hạ trong những năm cuối thời Vương Hạo cai trị trở nên giàu có sung túc, ngọc ngà châu báu khắp nơi đều hội tụ về đây. Người Đảng Hạng sau khi giàu có sung túc, đặc biệt là những công thần lập công lớn trong chiến trận, đã dần dần bắt đầu ham thú hưởng lạc, sự anh dũng thiện chiến ngày nào đã bị thay thế bằng thói ngạo mạn, xa xỉ, dâm loạn, trác táng.”
“Đúng vậy! Tất cả những dân tộc dũng mãnh quật khởi từ thảo nguyên, sa mạc, sau khi gây dựng giang sơn tại trung nguyên phía nam, đều đã mất đi sói tính anh dũng thiện chiến trong con người họ. Đây cũng chính là nguyên nhân tại sao các đế quốc đã từng huy hoàng lại đến và đi vội vàng như vậy.” Đường Phong không khỏi xót xa.
4
Đại Lạt ma mỉm cười gật đầu, dùng ánh mắt tán thưởng nhìn Đường Phong: “Không sai, đến cả con người của quân đội như Hạo Vương trong những năm cuối đời cũng bắt đầu trở nên ngạo mạn xa xỉ, và chính sự ngạo mạn xa xỉ của ông cũng là gốc rễ để ông bị chôn vùi trong trận bộc phát chính biến triều đình, sự cố đã cướp đi sinh mạng của ông những năm cuối đời. Nhưng Hạo Vương rút cuộc vẫn là Hạo Vương, theo như truyền thuyết mà đời đời tổ tiên của chúng tôi truyền lại, thì trong vài năm cuối cùng của đời mình, Hạo Vương hình như có dự cảm không lành, nhưng ông đã không còn sức để cải biến triệt để những quý tộc Đảng Hạng ngạo mạn xa xỉ đó. Vì sự lâu dài và yên ổn của vương triều, ông đã âm thầm sai đại cận thần Một Tạng Ngoa Bàng báo cáo rằng biên giới tây bắc có chiến sự, sau đó, Hạo Vương liền phái một viên đại tướng dân theo hàng vạn hùng binh được tuyển chọn kĩ lưỡng, khởi hành về phía tây bắc. Nhưng đội quân người ngựa này, ngoài những võ sỹ dũng mãnh thiện chiến ra, còn có cả một đoàn thợ từ tứ phương tập hợp lại cùng với rất nhiều gia quyến của tướng sỹ.”
“Biên giới tây bắc có chiến tranh sao? Theo như tôi biết lúc Hạo Vương còn trị vì, phía tây bắc của Tây Hạ tương đối ổn định, chưa từng nghe thấy có chiến tranh gì mà! Lúc đó, kẻ địch chủ yếu của Tây Hạ là Khiết Đan ở phía đông bắc, triều Tống ở phía đông nam, Thổ Phiên ở phía tây nam và Hồi Cốt ở phía tây, có thể coi là tứ trận bủa vây, nhưng rõ ràng là phía tây bắc không có kẻ địch nào cả.” Đường Phong nghi ngờ nói.
“Chàng thanh niên, đừng quên rằng tại sao Tây Hạ lại vong quốc?” Đại Lạt ma hỏi lại Đường Phong.
Đường Phong nghe thấy vậy, suy nghĩ một lúc, bỗng ngạc nhiên tới nỗi mắt trố ra, mồm há hốc: “Ý ông là... ý ông là người Mông Cổ. Tây Hạ cuối cùng là bị người Mông Cổ đến từ tây bắc đánh bại! Nhưng... nhưng sao lại như vậy được, thời Hạo Vương đó, trên thảo nguyên Mông Cổ vẫn chưa thống nhất, liên kết về một mối, cơ bản không có lực lượng để tấn công Tây Hạ, sao Hạo Vương lại có thể dự đoán việc của hơn một trăm năm sau được... Lẽ nào Hạo Vương có thể tiên đoán được trước tương lai?
Đại Lạt ma lắc lắc đầu: “Tình hình cụ thể tôi cũng không biết hết, tóm lại, câu chuyện truyền thuyết mà đời đời tổ tiên của chúng tôi truyền lại là như vậy. Lúc đó rất nhiều người đều cảm thấy kỳ lạ, vậy là có đủ loại truyền thuyết. Nghe nói, lúc đội người ngựa ra đi đã bí mật mang theo rất nhiều hòm lớn. Nhiều người cho rằng bên trong những chiếc hòm lớn đó đều đựng của cải của Hạo Vương. Đội người ngựa và đó cũng không phải là đi đánh trận mà là thay Hạo Vương bí mật xây dựng một thành phố mới tại một ốc đảo tít sâu trong sa mạc, trong thành phố này cất giấu châu báu của Hạo Vương. Đội người và ngựa đó sau này cũng không quay lại, họ đi đâu? Không ai biết, nhưng truyền thuyết này thì được lưu truyền mãi về sau.”
“Vậy kệ tranh ngọc thì sao?” Hàn Giang sốt ruột hỏi.
“Kệ tranh ngọc nghe nói là có bốn tấm. Năm đó, khi Hạo Vương nảy ra ý nghĩ kỳ lạ đó, vừa vặn lãnh thổ phía tây tiến tặng ông một tảng đá ngọc Hòa Điển to lớn, nguyên vẹn. Vậy là Hạo Vương hạ lệnh, mời thợ ngọc đệ nhất thiên hạ tới chế tác bốn kệ tranh ngọc. Đằng sau kệ tranh ngọc khắc lên một bản đồ hướng tới ốc đảo sa mạc - thành trì bí mật Hạn Hải, và chỉ khi nào bốn kệ tranh ngọc ghép lại với nhau thì mới có thể nhìn thấy toàn bộ diện mạo của bản đồ. Sau đó, trên mặt chính của mỗi kệ tranh ngọc, Hạo Vương đều ra lệnh khắc lên bốn mươi bốn chữ, cũng chính là phần chữ trên mặt chính của kệ tranh ngọc mà các anh có trong tay. Bốn mươi bốn chữ này tiết lộ ra một tin tức quan trọng, đó là: Hạo Vương đề phòng con cháu gặp nạn nên đã chuẩn bị trước một lượng của cái đáng để kinh ngạc, cất giấu ở mật thành trong sa mạc. Ngoài ra, còn có một đội quân dũng mãnh thiện chiến canh giữ ở đó.”
“Hạo Vương đã chôn giấu kho báu trong một thành trì bí mật, cái này thì dễ hiểu, nhưng một đội quân canh giữ ở đó, câu này thì tôi không sao có thể hiểu được!” Đường Phong hỏi.
“Cái này thì chỉ có ông trời mới biết được.” Đại Lạt ma bó tay than thở, nhưng lập tức lại nói với Đường Phong: “Nhưng, có một điều tôi có thể khẳng định: văn tự Đảng Hạng khắc trên mặt chính kệ tranh ngọc của các anh chắc chắn không phải là do Hạo Vương khắc lên năm nào.”
“Cái gì? Ý ông là... kệ tranh ngọc này là đồ giả?” Đường Phong ngạc nhiên đến nỗi trợn tròn mắt.
5
Đại Lạt ma lắc lắc đầu, chậm rãi nói: “Ý ta không phải vậy. Kệ tranh ngọc này là thật hay là giả, ta cũng không thể đoán định, bởi vì ta cũng chưa từng nhìn thấy kệ tranh ngọc thật sự. Ta nói văn tự Đảng Hạng trên kệ tranh ngọc này không phải là của Hạo Vương khắc ban đầu; là vì khi Hạo Vương hạ lệnh khắc lên bốn kệ tranh ngọc, ông ta vốn không hề đem chúng đi cất giấu tại bốn nơi khác nhau, mà luôn cất giữ chúng trong cung. Bởi vậy đương nhiên ông cũng không thể khắc tên nơi cất giấu của từng kệ tranh ngọc lên bề mặt của chúng. Còn một điều nữa, văn tự mà ban đầu Hạo Vương khắc cũng không phải là văn tự Đảng Hạng, mà là Hán tự.”
“Hán tự? Theo như ông thấy, phần chữ to hơn là văn tự Đảng Hạng trên kệ tranh ngọc rút cuộc nói lên điều gì? Có giống với phán đoán của chúng tôi, nói rõ nơi cất giấu của kệ tranh ngọc thứ hai?” Hàn Giang đứng bên cạnh nói xen vào.
Đại Lạt ma bưng kệ tranh ngọc lên, ngắm nghía hồi lâu, gật đầu nói: “Quan điểm của ta cũng giống như các cậu. Nếu như ta đoán không sai, trên mỗi kệ tranh ngọc đều lần lượt khắc tên vị trí cất giấu của kệ tranh ngọc tiếp theo. Kệ tranh ngọc trong tay các cậu chắc là kệ đầu tiên trong số bốn kệ tranh ngọc, phần văn tự trên mặt chính của nó tiết lộ vị trí cất giấu của kệ tranh ngọc thứ hai. Từ đó suy đoán, kệ tranh ngọc thứ hai chắc chắn có khắc tên vị trí cất giấu của kệ tranh ngọc thứ ba, chắc là như vậy.”
“Vậy theo như ý ông nói thì văn tự trên kệ tranh ngọc này được khắc vào thời nào và do ai khắc?” Đường Phong tiếp tục hỏi.
“Muốn làm sáng tỏ vấn đề này thì phải căn cứ theo lịch sử Tây Hạ mà tôi đã kể phía trước để nói tiếp. Vào năm cuối cùng của cuộc đời Hạo Vương, ông đã phạm phải một sai lầm lớn, ông đã cưỡng hôn chính con dâu của mình, cũng chính là vợ của thái tử vương triều Tây Hạ. Vốn dĩ, đối với người Đảng Hạng mà nói thì chuyện này cũng không có gì là to tát, người Đảng Hạng tính cách hào phóng, sùng bái tự do; nam nữ vui hoan yêu đương hoàn toàn tự do, không hề bị ràng buộc bởi bất cứ luân lý đạo đức nào. Trong huyết quản của Hạo Vương đang chảy dòng máu của người Đảng Hạng. Ông yêu cô gái đó, ông cho rằng không có thứ gì có thể cản trở tình cảm của mình, nhưng, thái tử Ninh Lệnh Ca ngay từ tấm bé đã được Nho giáo hun đúc mà trưởng thành. Ông ta không thể chấp nhận sự thật này. Ninh Lệnh Ca cho rằng đây là một sự đại sỉ nhục đối với bản thân, cũng là một sự đại sỉ nhục đối với toàn bộ vương triều, thù hận đã làm trí óc ông ta trở nên mụ mị. Và đúng lúc đó, một nhân vật luôn ẩn nấp phía sau, chờ đợi cơ hội đã xuất hiện, người này chính là tướng quốc thời đó - Một Tạng Ngoa Bàng. Ông ta là đại thần mà Hạo Vương tín nhiệm nhất trong những năm cuối đời. Ông ta đã chờ đợi thời cơ từ rất lâu rồi, thời cơ đó có thể khiến cho thế lực của gia tộc Một Tạng trở nên lớn mạnh. Giờ đây, ông ta cho rằng thời cơ tốt nhất đã đến, vậy là, Một Tạng Ngoa Bàng ra sức kích động thái tử Ninh Lệnh Ca, khiến cho Ninh Lệnh Ca vốn đã bị thù hận làm cho trí óc mụ mị càng không do dự gì hết. Một buổi tối, ông ta lẩn vào trong cung, ám sát Hạo Vương, còn bản thân ông ta sau đó đã bị Một Tạng Ngoa Bàng xử tử vì gán cho tội danh giết vua.” Đại Lạt ma kể liền một mạch về giai đoạn lịch sử rối ren hung hiểm này.
Đường Phong suýt xoa: “Hạo Vương đúng thật là gậy ông đập lưng ông. Bản thân ông không tôn sùng Nho giáo mà lại ngưỡng mộ văn minh trung nguyên, ra sức truyền bá Nho giáo trong nước, kết quả, rút cuộc lại bị chính con trai được Nho giáo hun đúc thành tài, trưởng thành từ chính trong môi trường đó giết chết. Xem ra, tất cả những dân tộc quật khởi từ thảo nguyên, sa mạc đều không thoát khỏi điều này. Họ ngưỡng mộ văn minh trung nguyên, học tập văn minh trung nguyên, nhưng văn minh trung nguyên lại làm phát sinh xung đột với phương thức sinh tồn cố hữu của họ, một khi họ hữu ý hay vô ý bị Hán hóa, thì sói tính vốn có trong con người họ cũng mất đi rất nhiều rồi.”
“Được rồi! Được rồi! Bài diễn thuyết dài thườn thượt của cậu để lại sau này hãy nói, bây giờ điều mà tôi quan tâm chính là lịch sử của kệ tranh ngọc.” Hàn Giang ngắt lời Đường Phong, rồi quay lại nhìn Đại Lạt ma hỏi: “Nguyên Hạo chết rồi, thái tử cũng chết rồi, sau đó thì ai là người kế tục ngôi vua?”
6
Đại Lạt ma tiếp tục kể: “Lượng Tộ! Ngôi Danh Lượng Tộ! Hoàng đế đời thứ hai của vương triều Tây Hạ, ngày chôn cất Hạo Vương, ông vẫn chỉ là một đứa trẻ bọc trong tã lót, ông có thể lên được ngôi vị hoàng đế hoàn toàn là do một người đàn bà, mẹ của ông, Một Tạng Thị. Nói về Một Tạng Thị, đây là một người đàn bà không đơn giản, bà ta là em gái của Một Tạng Ngoa Bàng, vốn là vợ của đại tướng Dã Lợi Ngộ Khất, thuộc hạ của Hạo Vương. Dã Lợi Ngộ Khất dũng mãnh thiện chiến, trong cuộc chiến tranh với nhà Tống, ông đã lập được vô số kỳ công, cộng thêm thế lực lớn mạnh của gia tộc Dã Lợi lúc đó. Thời gian qua đi, Dã Lợi Ngộ Khất lập công nhiều tới mức khiến chủ nhân cũng phải lo lắng và đã bị Hạo Vương nghi ngờ, đố kị, còn nhà Tống thì từ lâu đã muốn diệt trừ người này, nên phó soái nhà Tống là Phạm Trọng đã bày ra kế gian, phái người lấy trộm thanh đao quý của Dã Lợi Ngộ Khất: rồi tuyên bố Dã Lợi Ngộ Khất chuẩn bị đầu hàng nhà Tống, lấy đao đó làm chứng. Tin tức truyền đến Tây Hạ, Hạo Vương vốn đã không bằng lòng với Dã Lợi Ngộ Khất nay càng thêm phẫn nộ, mượn chuyện này giết chết Dã Lợi Ngộ Khất. Cũng trong lúc này, Hạo Vương phát hiện ra người vợ trẻ trung xinh đẹp của Dã Lợi Ngộ Khất - Một Tạng Thị. Để bịt tai che mắt mọi người, trước tiên, Hạo Vương đưa Một Tạng Thị vào chùa Giới Đàn xuống tóc làm ni cô. Sau đó, Hạo Vương thường xuyên lui tới chùa Giới Đàn để gặp gỡ riêng Một Tạng Thị. Chính trong chùa Giới Đàn, Một Tạng Thị đã sinh hạ Lượng Tộ. Lượng Tộ ra đời chưa được bao lâu thì xảy ra chuyện Một Tạng Ngoa Bàng xúi giục thái tử Ninh Lệnh Ca ám sát Hạo Vương, sau đó, Một Tạng Ngoa Bàng liền lập Lượng Tộ chưa đầy tuần tuổi làm vua, còn Một Tạng Thị - con gái của ông ta cũng trở thành hoàng thái hậu.”
“Hóa ra chuyện là như vậy, thảo nào Một Tạng Ngoa Bàng muốn xúi giục thái tử giết chết Hạo Vương, tất cả đều do sự cám dỗ quyền lực đáng sợ!” Makarov cũng hiểu ra một chút đầu đuôi câu chuyện.
“Đúng vậy, tất cả đều vì quyền lực! Sau đó, gia tộc Một Tạng liền độc quyền nắm giữ kỷ cương triều đình hơn mười năm, chính sách và pháp lệnh Tây Hạ đều do gia tộc Một Tạng ban hành, nhưng Lượng Tộ ngày một lớn lên, ông càng ngày càng bất mãn với quyền lợi vốn thuộc về mình nhưng lại rơi vào tay gia tộc Một Tạng. Vậy là, ông liên kết một số đại thần khác lại, diệt trừ Một Tạng Ngoa Bàng. Vốn tưởng Lượng Tộ làm nên lịch sử, nhưng không ngờ ông lại đoản mệnh, 20 tuổi đã qua đời, vậy là kế tục ngôi vua lại là một đứa trẻ - Ngôi Danh Bỉnh Thường, gia tộc Lương của thái hậu mẹ Bỉnh Thường nắm giữ triều chính. Kể từ sau khi Hạo Vương chết đi, Tây Hạ gần như rơi vào vòng can dự chính trị luẩn quẩn quái dị của họ ngoại, từ Một Tạng Thị tới Lương Thị, rồi tới Nhiệm Thị sau này, toàn là như vậy.”
“Sao đó thế nào?” Makarov hình như càng lúc càng hứng thú với lịch sử Tây Hạ.
“Cứ như vậy, mãi cho tới tận những năm cuối của Tây Hạ, người Mông Cổ trên thảo nguyên phương Bắc lớn mạnh, nhiều lần đến xâm lược Tây Hạ, kể từ lần đầu tiên tới lúc Tây Hạ vong quốc, tổng cộng là sáu lần, kéo dài hơn hai mươi năm. Trong những lần đó, đội quân Mông Cổ xâm nhập Tây Hạ lần đầu tiên là để truy kích bại quân của Tưởng Tang Côn, nhưng sự quấy nhiễu của Mông Cổ đối với Tây Hạ lần đó không nghiêm trọng, mà chỉ là gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh kẻ thống trị Tây Hạ. Lúc đó hoàng đế tại vị của Tây Hạ là Hoàn Tông, Ngôi Danh Thuần Hựu. Thuần Hựu đã ý thức được tính nghiêm trọng của vấn đề, nên đã hạ lệnh trùng tu thành quách nhưng vẫn bị kỵ binh Mông Cổ san bằng rồi, đại xá cả nước, đồng thời đổi tên đô thành Hưng Khánh Phủ thành Trung Hưng Phủ. Từ những sự kiện này có thể nhận thấy, Thuần Hựu vốn muốn chấn hưng lại kỷ cương triều đình, trở thành vua đầu tiên của Trung Hưng, nhưng người Đảng Hạng thời đó cũng không còn là người Đảng Hạng theo Hạo Vương đi khai hoang mở mang bờ cõi năm nào. Vì vậy, sự việc đã diễn ra trái với mong muốn của Thuần Hựu, bởi năm sau đó, em trai họ của Thuần Hựu là Ngôi Danh An Toàn đã hợp mưu với La thái hậu, phế truất Thuần Hựu, tự mình xưng đế. Chính lần chính biến cung đình lần này đã thay đổi hoàn toàn lịch sử Tây Hạ. Vì kể từ đó, Tây Hạ không thể đứng dậy được nữa, bởi trong cuộc chiến với người Mông Cổ, họ đánh trận nào bại trận nấy, cuối cùng mất nước.”
“Nhưng, những lịch sử Tây Hạ mà ông kể này thì có liên quan gì tới kệ tranh ngọc?” Hàn Giang nóng ruột muốn biết rút cuộc là người nào đã khắc những văn tự mà hiện giờ họ đang nhìn thấy trên kệ tranh ngọc.
7
Đại Lạt ma mỉm cười nói: “Đừng sốt ruột, tôi sắp kể tới nơi rồi. Chẳng bao lâu sau khi An Toàn phế truất Thuần Hựu, tự xưng đế thì chiến hỏa lại bốc lên ngùn ngụt từ thảo nguyên phương Bắc, đoàn kỵ binh Mông Cổ cuốn bụi quay lại, Thành Cát Tư Hãn lại lần nữa xuất quân đánh Tây Hạ, Ngôi Danh An Toàn đã liên kết với nước Kim để chống lại nước Mông, may mắn vượt qua được ải này. Nhưng năm sau, đại quân của Thành Cát Tư Hán lại xuất binh, và lần này thì Tây Hạ không còn may mắn như trước nữa. Dù người Đảng Hạng có liều chết chống lại, nhưng cũng không địch được kỵ binh của đại quân Mông Cổ. Kỵ binh Mông Cổ xông thẳng tới dưới đô thành Hưng Khánh Phủ, may mà năm đó Hạo Vương xây dựng Hưng Khánh Phủ vô cùng kiên cố. Thành Cát Tư Hãn tấn công mãi mà không được nên từ chỗ phiền muộn trở nên phẫn nộ, dẫn nước sông Hoàng Hà đổ vào Hưng Khánh Phủ. Nhưng ông trời che chở, nước sông Hoàng Hà không nhấn chìm nổi Hưng Khánh Phủ, ngược lại còn xém chút nữa nhấn chìm người Mông Cổ. Thành Cát Tư Hãn không còn cách nào khác, đành phải hạ lệnh rút quân. Trên đường rút quân, Thành Cát Tư Hãn lệnh cho tướng quân Ngoa Đáp đang bị bắt giữ quay về kêu gọi Ngôi Danh An Toàn chiêu hàng. Sau khi Ngoa Đáp trở về chiêu hàng, hôn quân Ngôi Danh An Toàn vốn đã bị đại quân của Mông Cổ dọa cho tới nỗi hồn xiêu phách lạc, nên đã lập tức đồng ý dâng tặng Thành Cát Tư Hãn con gái ruột của mình, tự xưng thần và định kỳ cống nạp cho Mông Cổ, đồng thời đoạn tuyệt với nước Kim, rồi quay lại thay Mông Cổ tấn công nước Kim. Một hôn quân vô dụng như vậy, trong lúc dân tộc gặp nạn, lại đột nhiên nhớ ra bốn kệ tranh ngọc mà Hạo Vương để lại, vậy là ông ta đã gửi gắm hết hy vọng của dân tộc lên bốn kệ tranh ngọc đó. Ngôi Danh An Toàn đã chuẩn bị kĩ lưỡng một đội ngũ hàng trăm người, chuẩn bị đi tìm kiếm mật thành trong sa mạc, đây là một lần xuất chinh bi tráng, những người được chọn đều là những dũng sĩ Đảng Hạng ưu tú nhất. Ngôi Danh An Toàn luôn lo lắng suy nghĩ xem ai sẽ là người lãnh đạo đội ngũ này, người bình thường thì ông ta không yên tâm, vì bốn kệ tranh ngọc này thậm chí còn khiến ông quan tâm lo lắng hơn cả ấn ngọc. Lúc ấy, những tôn thất quý tộc, cựu thân lập công lớn mà ông vốn tín nhiệm thì ai ai cũng đều tham sống sợ chết, không chịu đi. Đúng lúc này, trong tôn thất quý tộc có một người đứng lên, tự nguyện lãnh đạo đội quân này ra đi. Người này là Ngôi Danh Tuân Húc, là hậu duệ của Trung Vũ Vương trong tôn thất. Tuân Húc đã từng thi đỗ trạng nguyên, trong tôn thất cũng được coi là người có tài, rất được kỳ vọng. Con đường tiến lên ngôi vị hoàng đế của Ngôi Danh An Toàn vốn không chính nghĩa nên ông ta tất nhiên nghi ngờ Tuân Húc, người có tài trong tôn thất. Nhưng lúc này quả thật không có ai để phái đi, nên ông ta cũng đành phải lệnh cho Tuân Húc soái lĩnh đội quân này ra đi.”
“Sau đó họ có tìm thấy Hạn Hải Mật Thành không?” Đường Phong nói chen vào.
Đại Lạt ma lắc đầu nói: “Không ai biết họ có tìm thấy Hạn Hải Mật Thành hay không, nhưng đội quân này trước tiên tới thị trấn trọng điểm Hắc Thủy Thành tại phía bắc. Kể từ thời của Hạo Vương, đây vốn đã là vùng quân sự của Hắc Thủy trấn Yến, là thị trấn quản sự trọng điểm duy nhất của vương triều tại phía tây bắc. Khi đội quân của Tuân Húc đến đây, Hắc Thủy Thành vừa mới bị kỵ binh Mông Cổ cướp bóc sạch trơn, tan hoang thảm hại vô cùng. Họ nghỉ ngơi ở đây một lúc rồi rời khỏi Hắc Thủy Thành, tiếp tục tiến vào sâu trong sa mạc. Kể từ đó trở đi, không còn ai biết về tung tích của đội quân này nữa...”
“Không đúng! Tôi nhớ Ngôi Danh Tuân Húc sau này còn thay thế Ngôi Danh An Toàn trở thành hoàng đế của Tây Hạ mà!” Đường Phong hỏi lại Đại Lạt ma.
“Không sai, đội quân này có một người may mắn sống sót, đó chính là Ngôi Danh Tuân Húc, nhưng ông ta có thực sự tìm được Hạn Hải Mật Thành hay không thì không ai có thể khẳng định. Khi ông quay lại Hưng Khánh Phủ thì trên người có vô số mũi tên, sau lưng thì đang bị một đội kỵ binh Mông Cổ truy sát. Khi lao vào trong thành, Tuân Húc đã thở thoi thóp... cho tới khi tỉnh lại, ông đã tuyên bố với quan dân bách tính của Hưng Khánh Phủ là mình đã phát hiện ra Hạn Hải Mật Thành. Ở đó có vô số châu báu quý hiếm mà Hạo Vương để lại, đủ để giải quyết nguy cơ tài chính mà Tây Hạ đang đối mặt. Ở đó còn có một bộ lạc Đảng Hạng dũng mãnh thiện chiến, đủ để kháng cự sự xâm chiếm của đội quân kỵ binh Mông Cổ. Chỉ có điều, do đường đi xa xôi hiểm trở, trên đường đi không biết bao nhiêu lần bị người Mông Cổ truy sát, bởi vậy ông không thể đem những báu vật quý hiếm trở về. Cũng đã có một võ sỹ của bộ lạc bản địa trở về cùng ông, nhưng trên đường trở về đã bị kị binh Mông Cổ truy sát, nên võ sỹ đó và một số người khác đều đã tử trận, chỉ có mình ông thoát về được.”
8
“Những lời nói đó của ông ta cũng khiến cho người Đảng Hạng tin sao? Biết đâu là do ông ta bịa đặt ra!” Hàn Giang chất vấn.
“Ngôi Danh Tuân Húc đã lấy ra một tràng hạt xương người, ông nói rằng dũng sỹ đó trước khi chết đã giao cho ông tràng hạt này, để lấy đó làm bằng chứng. Quan dân bách tính của Hưng Khánh Phủ thấy rằng Tây Hạ lúc đó không có loại tràng hạt xương người này, vậy là ai cũng tin chắc và không chút nghi ngờ về những gì mà ông kể lại.”
“Tràng hạt xương người, chính là chuỗi hạt đang trên tay ngài sao?” Đường Phong đột nhiên hỏi.
Đại Lạt ma nghe thấy Đường Phong hỏi vậy, hay tay chắp vào nhau, nhìn chuỗi tràng hạt xương người trên tay, nói: “Không sai, tràng hạt xương người mà năm đó Ngôi Danh Tuân Húc mang về chính là tràng hạt trên tay tôi. Ông không chỉ mang về tràng hạt xương người này, mà còn cõng về bốn kệ tranh ngọc, cộng thêm những trải nghiệm thập tử nhất sinh của ông và tin tức làm hưng phấn lòng người mà ông mang về, đã khiến cho địa vị của Ngôi Danh Tuân Húc trong lòng quốc dân tăng lên rất nhanh. Ngôi Danh Tuân Húc cũng nhân cơ hội đó đã hứa với quốc dân: nếu như mọi người ủng hộ ông làm hoàng đế Tây Hạ, thì ông sẽ dẫn dắt quốc dân đi lấy kho báu ở Hạn Hải Mật Thành về, đánh bại quân xâm lược Mông Cổ. Người Đảng Hạng vốn dĩ đã bất mãn với Ngôi Danh An Toàn vô dụng, nên trước lời hứa ngon ngọt của Tuân Húc thì người Đảng Hạng không có lý do gì để không chọn ông. Vậy là, Tuân Húc đã truất ngôi Ngôi Danh An Toàn hết sức nhẹ nhàng, còn mình thì lên ngôi hoàng đế Tây Hạ.”
“Lại là một trận chính biến!” Makarov nhận xét.
“Vậy sau khi Tuân Húc lên ngôi hoàng đế, ông ta có thực hiện lời hứa ban đầu của mình không?” Hàn Giang hỏi.
“Sau khi Tuân Húc lên ngôi hoàng đế đã triệt để thay đổi phương châm liên minh với nước Kim để tấn công Mông Cổ của Ngôi Danh An Toàn, mà chủ động kết thân với Mông Cổ, nên ngược lại cũng đổi được vài năm sống yên ổn. Nhưng ông hiểu rằng sự hòa bình đó chỉ là ngắn ngủi, bởi vậy không lúc nào ông ngừng hành động tìm kiếm Hạn Hải Mật Thành. Nhưng mấy đoàn người và ngựa mà ông phái đi, đều không lập công quay về mà còn bặt vô âm tín, mất hút không hình không bóng. Chẳng bao lâu sau, người Mông Cổ cũng biết về bí mật của Hạn Hải Mật Thành, nên đã mấy lần phái sứ giả đến Hưng Khánh Phủ, một mặt yêu cầu Tây Hạ xuất binh đánh bại nước Kim, một mặt đòi lấy kệ tranh ngọc, khiến cho từ triều đình đến thường dân Tây Hạ đều lòng dạ bất an. Tuân Húc mấy lần cố kéo dài qua loa cho xong chuyện, nhưng, mâu thuẫn giữa Mông Cổ và Tây Hạ rút cuộc cũng bùng nổ. Thành Cát Tư Hãn trước khi chinh chiến phía tây đã sai sứ giả đến Tây Hạ đòi kệ tranh ngọc, đồng thời yêu cầu Tây Hạ phải phái binh trợ chiến. Tây Hạ đã không thể chấp nhận để Mông Cổ bắt nạt thêm, nên khi chưa kịp đợi Tuân Húc trả lời sứ giả của Mông Cổ, thì thuộc hạ của ông là đại thần A Sa Cảm đã trực tiếp từ chối thẳng thừng yêu cầu của người Mông Cổ. Sau khi sứ giả quay về phục lệnh, Thành Cát Tư Hãn nổi giận đùng đùng dẫn đại quân tiến đến. Tuân Húc không đủ sức để chống lại, đành phải cầu hòa. Thành Cát Tư Hãn lúc đó đang bận rộn chinh chiến phía tây nên đã đồng ý lời cầu hòa của Tây Hạ, dẫn quân rút về. Lần tiến quân này của người Mông Cổ đã tác động mạnh đến Tuân Húc, trong tình hình bế tắc, ông đành phải nhường ngôi cho con trai thứ là Ngôi Danh Đức Vượng. Đức Vượng trẻ trung tràn trề sức sống, lập tức liên minh với nước Kim, ý đồ đối kháng Mông Cổ. Sự việc này lại dẫn tới việc Mông Cổ lần thứ năm chinh phạt Tây Hạ. Lúc đó, Thành Cát Tư Hãn vẫn đang trên đường chinh chiến phía tây, bởi vậy, cuộc chinh phạt của người Mông Cổ lần này chẳng qua là để dạy dỗ Tây Hạ một chút mà thôi, còn sự trừng phạt thật sự thì vẫn ở phía sau, nhưng Tây Hạ vì thế cũng sống trong những ngày khó thở. Lúc này, toàn vương quốc trên dưới đều bao trùm trong không khí ngày tận thế, chẳng còn ai dám ôm ấp hy vọng về thành trì bí mật trong đại sa mạc mênh mông đó nữa, và trong không khí của ngày tận thế này, người Đảng Hạng đã chờ đợi ngày tận thế cuối cùng của mình.”
“Đó là lần chinh phạt Tây Hạ cuối cùng của Thành Cát Tư Hãn năm Công nguyên 1227?” Đường Phong hỏi.
“Ừm, đó là một chương đen tối nhất trong lịch sử dân tộc Đảng Hạng. Khi sứ giả Mông Cổ đến Hưng Khánh Phủ tuyên bố thông điệp cuối cùng, thì A Sa Cảm đã không thể thốt ra được lời nào nữa. Thành Cát Tư Hãn vô cùng phẫn nộ, ông ta đã đích thân chinh phạt Tây Hạ, đồng thời thề rằng: ‘Chết bằng sạch, diệt bằng sạch, tuyệt bằng sạch! Từ cha mẹ bách tính Đường Ngột Thích cho tới con cháu của tử tôn, giết sạch không trừ một ai!’. Đầu xuân năm cuối cùng của đế quốc màu trắng, đại quân Thành Cát Tư Hãn bao vây Hưng Khánh Phủ. Lúc này, Đức Vượng trẻ trung tràn trề sức sống đã đột tử. Cháu trai của ông là Ngôi Danh Hiển được quốc dân ủng hộ lập thành Hoàng đế cuối cùng của Tây Hạ. Lần này đô thành đã bị bủa vây từ nhiều phía, và ngoài Hưng Khánh Phủ, người Mông Cổ còn tấn công tất cả thành trấn Tây Hạ. Lực lượng của vương quốc vốn đã tổn thất cạn kiệt, nên trừ khi có thần binh từ trên trời giáng xuống trợ giúp, còn không thì Tây Hạ mất nước đã là điều không còn gì để hoài nghi. Toàn thành trên dưới, già trẻ gái trai đều biết rằng, sẽ không có một chiêu binh đến cứu họ nữa, trừ khi là đội nhân mã dưới sự chuẩn bị của Hạo Vương năm đó... Họ ngước mắt ngóng trông nhưng cũng không kịp đợi một binh lính nào tới. Tân vương Ngôi Danh Hiển lấy bốn tấm kệ tranh ngọc ra, ông mau chóng tính toán, ngộ nhỡ có vỡ thành thì cũng không thể để bốn kệ tranh ngọc này rơi vào tay người Mông Cổ. Vậy là, Ngôi Danh Hiển đã ra lệnh cho người tìm kiếm khắp toàn thành, mãi mới tìm thấy một thợ ngọc duy nhất còn sót lại. Ông sai người thợ ngọc đó xóa hết Hán tự vốn khắc trên mặt chính của kệ tranh ngọc trước đó và khắc lại bằng văn tự Đảng Hạng, hơn nữa còn dùng thể chữ Lệ Đảng Hạng rất ít dùng để khắc lại những lời của Hạo Vương lúc trước, ngoài ra còn khắc lên mỗi kệ tranh ngọc vị trí cất giấu của kệ tranh ngọc kế tiếp. Rồi ông bí mật phái bốn tốp người, mang bốn kệ tranh ngọc xông ra khỏi Hưng Khánh Phủ, hướng về nơi bí mật cất giấu bốn kệ tranh ngọc đó.”
“Dùng văn tự Đảng Hạng là để người khác không nhận biết được nội dung trên kệ tranh ngọc?” Đường Phong hỏi.
“Đúng vậy, ý của Ngôi Danh Hiển đúng là như vậy!”
“Vậy sau đó bốn tốp người này có đến được nơi mà họ định tới không?” Hàn Giang hỏi.
“Cái này thì không ai biết, bởi vì kể từ đó trở đi, bốn kệ tranh ngọc mỗi tấm một nơi, chưa từng tập hợp lại, cũng không có ai biết về nơi cất giữ bốn kệ tranh ngọc... Và như vậy, Hưng Khánh Phủ bị bao vây tới tận mùa hạ. Cũng vào mùa hạ năm đó, Thành Cát Tư Hãn dưỡng bệnh tại núi Lục Bàn, tình hình sức khỏe ngày càng xấu đi, cuối cùng ông ta đã qua đời tại núi Lục Bàn. Cũng có truyền thuyết nói rằng, Thành Cát Tư Hãn bị một thiếu niên Đảng Hạng mặc áo trắng đâm chết trong lều trại.”
“Cái gì? Thiếu niên Đảng Hạng mặc áo trắng?”
“Bất luận thế nào thì Thành Cát Tư Hãn, người chinh phục thế giới này, cuối cùng đã chết trên lãnh thổ Tây Hạ, đây là vận hạn đen đủi của người Đảng Hạng. Sau khi Thành Cát Tư Hãn chết, người Mông Cổ tuân theo di lệnh của Thành Cát Tư Hãn, bí mật không phát tang, chỉ đợi quân thần Tây Hạ đến đầu hàng trước rồi giết sạch người Đảng Hạng trong thành. Đó là một đêm đẫm máu trong lịch sử Hưng Khánh Phủ, một đêm đại thảm sát! Trong Hưng Khánh Phủ, bất luận già trẻ nam nữ, hầu hết đều bị giết, người Đảng Hạng may mắn sống sót chỉ còn lại lác đác vài người...” Nói tới đây, Đại Lạt ma dừng lại không kể tiếp nữa, miệng niệm một đoạn kinh văn mông lung khó hiểu.
Trong Phật đường, bỗng nhiên im lặng như tờ, mọi người đều trầm ngâm yên lặng.
Cả đêm im lặng, khi Đường Phong tỉnh lại, ngoài cửa sổ đã là một thế giới trắng muốt. Đường Phong giật mình đẩy cửa phòng thì nhìn thấy Hàn Giang và Makarov đang đứng trước khoảnh sân của căn nhà gỗ ngắm nhìn tuyết trắng.
Hàn Giang quay lại nhìn thấy Đường Phong liền hỏi: “Sao rồi? Nghỉ ngơi khỏe chưa?”
Đường Phong thẫn thờ gật gật đầu, coi như trả lời Hàn Giang, nhưng vẻ mặt đầy kinh ngạc: “Thật là quá đẹp! Đây...” Đường Phong há nửa miệng, ngạc nhiên nhìn chăm chăm về cảnh vật bọc trong tuyết trắng, hồ nước trắng, những rặng núi tuyết trắng, đại tuyết sơn phía xa xa càng thêm trang nghiêm tĩnh mịch…
“Không ngờ nửa đêm tuyết lại rơi nhiều như vậy, đây có lẽ là trận tuyết đầu mùa ở đây năm nay.” Hàn Giang nhìn về phía tuyết sơn xa xa, tự mình lẩm bẩm.
“Đúng vậy! Quả là một trận tuyết to.” Makarov nói.
“Mọi người xem...” Đường Phong đột nhiên chỉ về ngọn núi tuyết phía xa xa, thốt lên kinh ngạc. Hàn Giang và Makarov nhìn theo hướng ngón tay Đường Phong chỉ: “Mọi người nhìn, nhìn thấy chưa?”
“Nhìn thấy gì?” Makarov không hiểu hỏi.
“Tuyết sơn, đỉnh đại tuyết sơn, đỉnh tuyết sơn rút cuộc cũng lộ ra rồi.” Đường Phong phấn khích hét lên kinh ngạc.
Hàn Giang và Makarov gần như cùng lúc cũng đã nhìn thấy, đỉnh núi tuyết vốn luôn bị mây khói bao phủ, không chịu lộ diện, rốt cuộc cũng đã lộ ra diện mạo của nó.
“Hùng vĩ quá, ngọn núi tuyết này tên là gì nhỉ?” Hàn Giang không thể không thốt ra lời ca ngợi.
“Nó tên là A Ni Mã Khanh!” Phía sau lưng mọi người bỗng nhiên vang lên giọng nói dịu dàng của Hắc Vân. Mọi người quay đầu lại nhìn thì thấy Hắc Vân đang chầm chậm bước tới. Đường Phong càng thêm kinh ngạc: “Cô nói ngọn núi tuyết này tên là gì cơ?”
“A Ni Mã Khanh!” Hắc Vân nhắc lại lần nữa.
“A Ni Mã Khanh? Cô nói là A Ni Mã Khanh! Ở đây có thể nhìn thấy núi tuyết A Ni Mã Khanh? Thật là không thể tưởng tượng được!” Đường Phong lập tức nghĩ ngay tới núi tuyết A Ni Mã Khanh ở mãi tận trong lãnh thổ Thanh Hải.
Hắc Vân thấy vẻ kinh ngạc của Đường Phong liền cười hinh híc đáp: “Tuy ở đây anh có thể nhìn thấy núi tuyết A Ni Mã Khanh, nhưng thật ra núi tuyết cách đây rất rất xa.” Hắc Vân dừng lại một lúc rồi tự thốt lên: “Đây là một ngọn núi thần, mỗi khi có ai nhìn thấy ngọn núi tuyết này thì sẽ bị sự thanh khiết, diễm lệ của nó chinh phục. Theo như những bậc cao tuổi nói lại thì, người nào có thể nhìn thấy toàn bộ diện mạo của A Ni Mã Khanh, họ sẽ hạnh phúc một đời, vận may sẽ thường ở bên người đó. Vậy nên những người thành kính thường đứng đó rất lâu, chờ đợi mây khói tản đi, hy vọng có thể nhìn được dung mạo thật sự của A Ni Mã Khanh. Vậy mà, mọi người đều hết lần này đến lần khác thất vọng, bởi vì A Ni Mã Khanh giống như một thiếu nữ tính khí đỏng đảnh, những lúc tức giận đều trốn nấp trong mây khói…”
“Nói như vậy thì chúng tôi may mắn quá rồi!” Đường Phong ngắt lời Hắc Vân.
“Đúng vậy, các anh rất may mắn, vừa mới tới đây mà đã có thể nhìn thấy diện mạo thật sự của A Ni Mã Khanh.” Hắc Vân gật gật đầu đáp.
“May mắn? Khà khà, kể từ sau khi tôi bị cuốn vào sự việc này, cái từ may mắn đã rời bỏ tôi ra đi rồi; gặp phải trận tuyết to thế này, tôi thấy chỉ khiến chúng ta càng thêm đen đủi.” Makarov vốn im lặng hồi lâu giờ đã cất lời.
“Ý ông nói tuyết lớn phong tỏa núi, chúng ta càng không dễ để ra ngoài đúng không?” Đường Phong nghi hoặc nhìn Makarov.
Makarov nặng nề gật gật đầu, lòng Đường Phong và Hàn Giang cũng trĩu nặng.
Ba người quay vào trong căn nhà gỗ. Khi đi qua cửa gian Phật đường, Đường Phong phát hiện, cửa chính phật đường vẫn đang đóng im ỉm, Đại Lạt ma đâu? Ông ấy còn ở trong đó không? Đường Phong trong lòng đầy nghi ngờ cố ăn hết bữa sáng mà Hắc Vân chuẩn bị cho họ, sau đó đến phòng của Lương Viện. Thuốc mà Đại Lạt ma hôm qua cho Lương Viện uống quả nhiên công hiệu, cô đã hết sốt, chỉ có điều là vẫn hôn mê bất tỉnh.
Đường Phong ở lại phòng Lương Viện, đợi cô gái tỉnh dậy. Nhưng anh chưa đợi được Lương Viện tỉnh lại thì đã nhận được lời triệu lên của Đại Lạt ma. Đường Phong thấp thỏm bất an đi theo Hắc Vân, rồi lại đi vào gian Phật đường bí ẩn đó. Trước gian thờ Phật, Đại Lạt ma vẫn ngồi khoanh chân như cũ, nhắm mắt tịnh tâm, phía bên kia, Hàn Giang và Makarov đã ngồi đó chờ đợi khá lâu rồi.
2
Đợi Đường Phong ngồi yên vị, Đại Lạt ma đột nhiên mở mắt, đôi mắt như hai ngọn đuốc, uy nghiêm nhìn khắp một lượt những người trong lễ đường. Sau đó ông lại cụp mắt xuống, xoay tràng hạt xương người, đọc một đoạn kinh văn. Đường Phong, Hàn Giang và Makarov nghi hoặc nhìn nhau, không biết Đại Lạt ma sẽ làm gì ngay sau đây? Đọc xong một đoạn kinh văn, Đại Lạt ma cuối cùng cũng mở miệng hỏi: “Các vị, có thể nói cho ta biết sự việc đêm qua không?”
“Cái gì?”, “Sự việc đêm qua?” Trong lòng Đường Phong, Hàn Giang và Makarov đều kinh ngạc. Đại Lạt ma ám chỉ việc ba người tranh giành kệ tranh ngọc trên vách núi đêm qua sao? Nhưng... nhưng ông luôn ở trong Phật đường đóng kín này thì sao lại biết về việc trên vách núi đó được?
Đường Phong định thần lại, thử hỏi thăm dò: “Việc đêm qua? Đêm qua xảy ra chuyện gì vậy? Tôi ngủ một mạch rất ngon mà.”
“Chàng thanh niên, lẽ nào còn cần tôi phải nhắc nhở cậu sao? Cậu phải biết rằng, ở đây, nhất cử nhất động của các cậu đều không lọt qua được mắt tôi đâu, đêm qua, trên vách núi...”
“Đúng! Tôi thừa nhận, đêm qua trên vách núi chúng tôi có xảy ra một chút hiểu lầm nho nhỏ, nhưng hiện giờ chúng tôi đều đã giải quyết xong rồi.” Đường Phong thấy Đại Lạt ma đã biết chuyện đêm qua, nên không đợi Đại Lạt ma nói xong liền cướp lời.
“Ba người các cậu không phải cùng một đường.” Giọng Đại Lạt ma sang sảng.
“Không sai, chúng tôi vốn không phải cùng một đường, nhưng hiện giờ chúng tôi đều đang bị người ta truy sát, thế nên...”
“Nói chính xác hơn, các người cùng vì một mục đích nên mới đi cùng nhau.” Giờ thì đến lượt Đại Lạt ma ngắt lời Đường Phong.
Ba người lại giật thót tim, Đường Phong nghĩ trong bụng: xem ra Đại Lạt ma đã nhìn thấu mọi chuyện, không cần thiết phải tiếp tục che giấu nữa, ngược lại còn khiến Đại Lạt ma nghi ngờ trong lòng, sẽ bất lợi cho mình. Nghĩ tới đây, anh nhìn nhìn Hàn Giang, Hàn Giang gật gật đầu với anh, vậy là, Đường Phong nói với Đại Lạt ma: “Không sai, chúng tôi cùng một mục đích, đến đây là vì một báu vật của vương triều Tây Hạ!”
Khi Đại Lạt ma nghe thấy hai từ “Tây Hạ”, lông mày ông khẽ động đậy. Đây là một cử động rất nhẹ nhưng đã bị Đường Phong nhìn thấy, tức khắc, anh gần như có thể đoán định, Đại Lạt ma chắc chắn biết chút gì đó? Và những gì Đại Lạt ma biết nhất định là thứ mà họ hứng thú.
Đường Phong tiếp tục nói: “Đó là một báu vật đến từ vương triều Tây Hạ một nghìn năm trước, kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu…”
Đường Phong nói tới đây, Đại Lạt ma lại lần nữa mở to đôi mắt như hai ngọn đuốc, nhìn thẳng vào con ngươi của Đường Phong, khiến Đường Phong sợ tới nỗi nuốt lời lại.
“Kệ tranh ngọc Tây Hạ? Nói như vậy thì các người bị truy sát cũng không có gì lạ. Nếu như ta nói không sai, thì trong ba lô của các người có một tấm kệ tranh ngọc phải không.” Đại Lạt ma vẫn nhìn Đường Phong chằm chằm như thế.
Đường Phong bất giác gật đầu, nói: “Đúng vậy, trong tay chúng tôi có một tấm.”
“Các người còn muốn đoạt được mấy tấm còn lại?” Đại Lạt ma nói một câu trúng phóc, khiến ba người kinh ngạc tới nỗi không thốt nên lời.
Đại Lạt ma lại nói tiếp: “Để ta nói, tấm kệ tranh ngọc mà các người có trong tay chính là tấm mà Kozlov đào được tại cổ thành Hắc Thủy. Trong bốn tấm kệ tranh ngọc thì chỉ có kệ tranh đó là có khả năng bị các người đoạt được.”
“Sao ông lại biết?” Đường Phong ngạc nhiên hỏi.
“Bởi vì chỉ có kệ tranh đó mới từng xuất hiện trên thế giới.”
“Nói như vậy thì ba tấm kệ tranh còn lại chưa từng rời khỏi vị trí mà chúng vốn được cất giấu ở đấy?” Đường Phong tò mò hỏi.
“Không! Theo như ta biết, còn có một tấm đã rời khỏi vị trí vốn cất giấu nó.”
“Ồ! Là tấm nào vậy?” Hàn Giang truy hỏi.
“Cụ thể là tấm nào ta không biết!” Đại Lạt ma nói tới đây, dừng lại một lúc, nhìn mọi người trong phòng một lượt, sau đó mới hạ giọng xuống nói: “Các người đã từng nghe tới Hắc Lạt ma chưa?”
“Hắc Lạt ma? Hắc Lạt ma nào? Lạt ma của các ông còn phân thành Hắc Lạt ma và Bạch Lạt ma ư?” Hàn Giang lắc đầu mụ mị nhìn Đại Lạt ma.
“Ý ông nói về Hắc Lạt ma, thủ lĩnh thổ phỉ từng uy danh thiên hạ vùng đại sa mạc Tây Bắc những năm 20, 30 thế kỷ trước?” Với học thức uyên bác của mình, Đường Phong đột nhiên nhớ lại Hắc Lạt ma được nhắc đến trong truyền thuyết cuộc thám hiểm miền tây của Marc Aurel Stein, Sven Anders Hedin... mà mình đã từng đọc.
“Không sai, người mà tôi nói chính là Hắc Lạt ma này. Nghe nói, vào những năm 20, 30 của thế kỷ trước. Tiếp theo nhà thám hiểm người Nga Kozlov sau khi phát hiện ra một kệ tranh ngọc tại thành cổ Hắc Thủy, lại có người phát hiện ra một tấm kệ tranh ngọc khác. Tấm kệ tranh ngọc đó được phát hiện ở đâu, phát hiện như thế nào, tình hình cụ thể hiện giờ vẫn chưa được khám phá, nhưng có truyền thuyết nói rằng, sau này kệ tranh ngọc đó đã rơi vào tay Hắc Lạt ma.”
“Rơi vào tay Hắc Lạt ma? Với thực lực của Hắc Lạt ma lúc đó, hoàn toàn có khả năng này? Nhưng, tôi còn nhớ, do luôn đối kháng với chính quyền ngoại Mông nên sau này Hắc Lạt ma đã bị chính quyền ngoại Mông và nhân viên đặc công, được Liên Xô phái tới, đánh chết rồi. Nếu như trong tay Hắc Lạt ma có tấm kệ tranh ngọc, vậy sau khi Hắc Lạt ma chết thì kệ tranh ngọc trong tay ông đi đâu mất?”
“Kệ tranh ngọc đó đi đâu mất không ai biết. Người thì nói nó bị thuộc hạ của Hắc Lạt ma lấy đi, cũng có người nói nó bị đặc công Liên Xô đoạt lấy, còn có người nói, kệ tranh ngọc đó đã bị Hắc Lạt ma cất giấu ở một nơi mà không ai biết, vì nơi cất giấu báu vật đó chỉ có một mình ông ta biết mà thôi. Sau khi ông ta chết đột ngột thì cũng không còn ai có thể biết được tung tích của kệ tranh ngọc đó nữa.”
“Nhưng có người cho rằng Hắc Lạt ma đó chưa chết, người mà bị chính quyền ngoại Mông đánh chết vốn không phải là Hắc Lạt ma thật, mà chỉ là thế thân của ông ta.” Đường Phong tiếp tục hỏi.
“Đúng vậy, hành động đột kích Hắc Lạt ma lần đó của chính quyền ngoại Mông tuy rất thành công, nhưng nhiều người vẫn tin rằng Hắc Lạt ma chưa chết, mà người bị đánh chết chỉ là một người thế thân. Nếu đúng như thế, vậy thì, rất có khả năng Hắc Lạt ma đã đem theo kệ tranh ngọc cao chạy xa bay, vĩnh viễn biến mất rồi. Tóm lại, kể từ đó trở đi, mọi tin tức và truyền thuyết của kệ tranh ngọc này đều chấm dứt tại đó.”
“Thật không ngờ lại phức tạp như vậy. Nhưng, điều mà tôi càng hứng thú hơn là, ông, một người xuất gia sao lại hiếu biết nhiều như vậy?” Hàn Giang đổi chủ đề câu chuyện, đột nhiên hỏi.
Đại Lạt ma bị Hàn Giang đột ngột hỏi vậy, sau chút sững sờ liền cười lớn, đáp: “Được rồi, đã nói đến đây rồi, vậy thì chúng ta hôm nay cũng không cần phải che giấu và sẽ nói hết ngọn nguồn đầu đuôi câu chuyện.”
3
Đại Lạt ma buông tràng hạt xương người trên tay xuống, thở dài, quay lại hỏi mọi người: “Trước khi tôi kể lại ngọn nguồn đầu đuôi toàn bộ câu truyện, tôi muốn hỏi các anh trước đã, các anh có biết những người chúng tôi là người gì không?”
“Người gì?” Đường Phong giật mình nhìn Đại Lạt ma, không hiểu ý của ông.
“Các ông là người dân tộc Tạng?” Đường Phong suy đoán. Đại Lạt ma lắc lắc đầu.
“Người dân tộc Khương?” Makarov cũng suy đoán. Đại Lạt ma vẫn lắc lắc đầu.
“Dân tộc Mông Cổ...” Hàn Giang càng đoán càng thiếu tự tin.
Đại Lạt ma bật cười. Ông cười vang, sau đó chậm rãi nói: “Thật ra, tiểu huynh đệ của các anh đã đoán gần đúng rồi.” Nói xong, Đại Lạt ma khẽ chỉ Đường Phong.
Đường Phong ngạc nhiên đến nỗi không khép được miệng, ấp úng thốt ra: “Các ông là người Đảng Hạng?”
“Đúng, người Đảng Hạng cuối cùng!” Đại Lạt ma trả lời rất nghiêm túc.
“Không! Thế này thì quá ly kỳ, dân tộc Đảng Hạng đã biến mất từ lâu rồi mà, tuy tôi có nhận ra tập tục của các ông, nhưng bất luận thế nào đi chăng nữa cũng không dám tin, các ông hóa ra... hóa ra là người Đảng Hạng?” Đường Phong không thể tin đây là sự thật.
“Chúng tôi chính là người Đảng Hạng di dân tới đây sau khi Tây Hạ bị diệt vong tám trăm năm trước, người Đảng Hạng cuối cùng. Là hậu duệ của người Đảng Hạng, tôi nghĩ tôi có quyền mời các anh đưa kệ tranh ngọc ra đây để tôi được tận mắt nhìn thấy diện mạo của nó.” Lời nói của Đại Lạt ma vô cùng khảng khái.
Đôi tay của Đường Phong giống như không còn thuộc về bản thân anh vậy. Mất tự chủ, anh lôi kệ tranh ngọc từ trong ba lô ra, cung kính đặt lên tấm phản trước mặt Đại Lạt ma. Hàn Giang nhìn ra, đôi tay Đại Lạt ma khi bưng kệ tranh ngọc lên khẽ run rẩy, ông cẩn thận tỉ mẩn nhìn ngắm hồi lâu, rồi lại rón rén đặt kệ tranh ngọc xuống phản. Thông qua hàng loạt động tác của Đại Lạt ma, Hàn Giang chẳng mấy chốc đi phán đoán ra, chắc là Đại Lạt ma cũng chưa từng nhìn thấy kệ tranh ngọc, ít nhất cũng chưa từng nhìn thấy kệ tranh ngọc này.
Đại Lạt ma đặt kệ tranh ngọc xuống, thở dài một cái tiếp tục nói: “Tôi đã sớm đoán được, cái ngày này nhất định sẽ đến trong cuộc đời, sau đây tôi sẽ nói về lịch sử của kệ tranh ngọc này. Tất cả những điều này đều phải bắt đầu kể từ lịch sử của dân tộc Đảng Hạng chúng tôi. Người Đảng Hạng chúng tôi đúng như những gì các anh đã biết, khởi nguồn từ khúc đầu sông Hoàng Hà, trong rừng rậm thảo nguyên ven sông Bạch Hà. Sau đó, người Đảng Hạng đã không chống lại được sự tấn công của người Thổ Phiên nên đã chọn lựa con đường di dân khó nhọc. Tổ tiên của chúng tôi đã vượt qua tuyết sơn A Ni Mã Khanh thánh khiết, hướng về phía bắc, đi mãi cho tới tận bình nguyên Ninh Hạ mới dừng chân, rồi dần dần định cư tại đây. Sau đó, dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh vĩ đại của dân tộc chúng tôi, thủ lĩnh Hạo Vương Suất, cũng chính là Nguyên Hạo mà các anh vốn đã biết tới, trải qua mấy đời đổ máu và hy sinh, cuối cùng đã xây dựng nên Bạch Cao Đại Hạ Quốc, uy chấn sa mạc phương bắc, cũng chính là Tây Hạ mà các anh thường nói.”
“Chúng tôi đều đã biết về những lịch sử này, ông hãy kể thẳng về kệ tranh ngọc này đi.” Hàn Giang có vẻ sốt ruột.
Đại Lạt ma căn bản không bận tâm tới lời Hàn Giang, vẫn kể lần lượt theo trình tự: “Tổ tiên của chúng tôi sinh sống giữa rất nhiều những bộ lạc dân tộc khác, tin thờ sói là phép tắc của những dân tộc sinh sống trên thảo nguyên và sa mạc; kẻ mạnh nuốt kẻ yếu, nếu anh không lớn mạnh thì sẽ bị người khác nuốt chửng. Vậy là, trong cuộc tranh đấu với các bộ lạc và các dân tộc khác, người Đảng Hạng đã hình thành nên tục tính anh dũng thiện chiến. Người Đảng Hạng nếu kết thù với ai, thì bắt buộc phải giết kẻ địch trả thù, nếu không thì sẽ không còn mặt mũi nào sống trên thế gian này nữa. Nhưng cũng chính vì người Đảng Hạng anh dũng thiện chiến nên đã khiến cho người Đảng Hạng luôn ở trong tình trạng rời rạc, không thống nhất, bị người ta lợi dụng, tự thảm sát lẫn nhau. Là Hạo Vương! Là Hạo Vương Suất đã lãnh đạo dũng sĩ Đảng Hạng chinh chiến tứ phương, không có đối thủ; dùng máu tươi để gắn kết người Đảng Hạng anh dũng thiện chiến lại với nhau, khiến người Đảng Hạng trở thành một dân tộc, một quả đấm đầy sức mạnh.
Người Đảng Hạng tác chiến, thường là toàn dân hòa cùng binh lính, chính một đội quân như vậy đã khiến cho Hạo Vương đánh bại quân Tống tại trận Hảo Thủy Xuyên và Tam Xuyên Khấu, rồi lại đánh lui quân Khiết Đan tại Địa Cân Trạch[8]. Uy danh đại chấn, khiến cho Tống - Liêu không dám coi thường Tây Hạ, nhưng đồng thời, do nhiều năm chinh chiến nên sức lực của đất nước Tây Hạ cũng hao tổn rất lớn. Vì vậy mà trong những năm cuối đời, Hạo Vương đã cải biến quốc sách, chấm dứt chiến tranh, nghỉ ngơi an dưỡng, tôn sùng Phật giáo. Bên cạnh đó, Hạo Vương đã lợi dụng việc nắm giữ sự lưu thông của con đường tơ lụa nên đã áp dụng sưu cao thuế nặng với những thương gia qua lại trên con đường đó. Hàng loạt những chính sách này, đã khiến cho Tây Hạ trong những năm cuối thời Vương Hạo cai trị trở nên giàu có sung túc, ngọc ngà châu báu khắp nơi đều hội tụ về đây. Người Đảng Hạng sau khi giàu có sung túc, đặc biệt là những công thần lập công lớn trong chiến trận, đã dần dần bắt đầu ham thú hưởng lạc, sự anh dũng thiện chiến ngày nào đã bị thay thế bằng thói ngạo mạn, xa xỉ, dâm loạn, trác táng.”
“Đúng vậy! Tất cả những dân tộc dũng mãnh quật khởi từ thảo nguyên, sa mạc, sau khi gây dựng giang sơn tại trung nguyên phía nam, đều đã mất đi sói tính anh dũng thiện chiến trong con người họ. Đây cũng chính là nguyên nhân tại sao các đế quốc đã từng huy hoàng lại đến và đi vội vàng như vậy.” Đường Phong không khỏi xót xa.
4
Đại Lạt ma mỉm cười gật đầu, dùng ánh mắt tán thưởng nhìn Đường Phong: “Không sai, đến cả con người của quân đội như Hạo Vương trong những năm cuối đời cũng bắt đầu trở nên ngạo mạn xa xỉ, và chính sự ngạo mạn xa xỉ của ông cũng là gốc rễ để ông bị chôn vùi trong trận bộc phát chính biến triều đình, sự cố đã cướp đi sinh mạng của ông những năm cuối đời. Nhưng Hạo Vương rút cuộc vẫn là Hạo Vương, theo như truyền thuyết mà đời đời tổ tiên của chúng tôi truyền lại, thì trong vài năm cuối cùng của đời mình, Hạo Vương hình như có dự cảm không lành, nhưng ông đã không còn sức để cải biến triệt để những quý tộc Đảng Hạng ngạo mạn xa xỉ đó. Vì sự lâu dài và yên ổn của vương triều, ông đã âm thầm sai đại cận thần Một Tạng Ngoa Bàng báo cáo rằng biên giới tây bắc có chiến sự, sau đó, Hạo Vương liền phái một viên đại tướng dân theo hàng vạn hùng binh được tuyển chọn kĩ lưỡng, khởi hành về phía tây bắc. Nhưng đội quân người ngựa này, ngoài những võ sỹ dũng mãnh thiện chiến ra, còn có cả một đoàn thợ từ tứ phương tập hợp lại cùng với rất nhiều gia quyến của tướng sỹ.”
“Biên giới tây bắc có chiến tranh sao? Theo như tôi biết lúc Hạo Vương còn trị vì, phía tây bắc của Tây Hạ tương đối ổn định, chưa từng nghe thấy có chiến tranh gì mà! Lúc đó, kẻ địch chủ yếu của Tây Hạ là Khiết Đan ở phía đông bắc, triều Tống ở phía đông nam, Thổ Phiên ở phía tây nam và Hồi Cốt ở phía tây, có thể coi là tứ trận bủa vây, nhưng rõ ràng là phía tây bắc không có kẻ địch nào cả.” Đường Phong nghi ngờ nói.
“Chàng thanh niên, đừng quên rằng tại sao Tây Hạ lại vong quốc?” Đại Lạt ma hỏi lại Đường Phong.
Đường Phong nghe thấy vậy, suy nghĩ một lúc, bỗng ngạc nhiên tới nỗi mắt trố ra, mồm há hốc: “Ý ông là... ý ông là người Mông Cổ. Tây Hạ cuối cùng là bị người Mông Cổ đến từ tây bắc đánh bại! Nhưng... nhưng sao lại như vậy được, thời Hạo Vương đó, trên thảo nguyên Mông Cổ vẫn chưa thống nhất, liên kết về một mối, cơ bản không có lực lượng để tấn công Tây Hạ, sao Hạo Vương lại có thể dự đoán việc của hơn một trăm năm sau được... Lẽ nào Hạo Vương có thể tiên đoán được trước tương lai?
Đại Lạt ma lắc lắc đầu: “Tình hình cụ thể tôi cũng không biết hết, tóm lại, câu chuyện truyền thuyết mà đời đời tổ tiên của chúng tôi truyền lại là như vậy. Lúc đó rất nhiều người đều cảm thấy kỳ lạ, vậy là có đủ loại truyền thuyết. Nghe nói, lúc đội người ngựa ra đi đã bí mật mang theo rất nhiều hòm lớn. Nhiều người cho rằng bên trong những chiếc hòm lớn đó đều đựng của cải của Hạo Vương. Đội người ngựa và đó cũng không phải là đi đánh trận mà là thay Hạo Vương bí mật xây dựng một thành phố mới tại một ốc đảo tít sâu trong sa mạc, trong thành phố này cất giấu châu báu của Hạo Vương. Đội người và ngựa đó sau này cũng không quay lại, họ đi đâu? Không ai biết, nhưng truyền thuyết này thì được lưu truyền mãi về sau.”
“Vậy kệ tranh ngọc thì sao?” Hàn Giang sốt ruột hỏi.
“Kệ tranh ngọc nghe nói là có bốn tấm. Năm đó, khi Hạo Vương nảy ra ý nghĩ kỳ lạ đó, vừa vặn lãnh thổ phía tây tiến tặng ông một tảng đá ngọc Hòa Điển to lớn, nguyên vẹn. Vậy là Hạo Vương hạ lệnh, mời thợ ngọc đệ nhất thiên hạ tới chế tác bốn kệ tranh ngọc. Đằng sau kệ tranh ngọc khắc lên một bản đồ hướng tới ốc đảo sa mạc - thành trì bí mật Hạn Hải, và chỉ khi nào bốn kệ tranh ngọc ghép lại với nhau thì mới có thể nhìn thấy toàn bộ diện mạo của bản đồ. Sau đó, trên mặt chính của mỗi kệ tranh ngọc, Hạo Vương đều ra lệnh khắc lên bốn mươi bốn chữ, cũng chính là phần chữ trên mặt chính của kệ tranh ngọc mà các anh có trong tay. Bốn mươi bốn chữ này tiết lộ ra một tin tức quan trọng, đó là: Hạo Vương đề phòng con cháu gặp nạn nên đã chuẩn bị trước một lượng của cái đáng để kinh ngạc, cất giấu ở mật thành trong sa mạc. Ngoài ra, còn có một đội quân dũng mãnh thiện chiến canh giữ ở đó.”
“Hạo Vương đã chôn giấu kho báu trong một thành trì bí mật, cái này thì dễ hiểu, nhưng một đội quân canh giữ ở đó, câu này thì tôi không sao có thể hiểu được!” Đường Phong hỏi.
“Cái này thì chỉ có ông trời mới biết được.” Đại Lạt ma bó tay than thở, nhưng lập tức lại nói với Đường Phong: “Nhưng, có một điều tôi có thể khẳng định: văn tự Đảng Hạng khắc trên mặt chính kệ tranh ngọc của các anh chắc chắn không phải là do Hạo Vương khắc lên năm nào.”
“Cái gì? Ý ông là... kệ tranh ngọc này là đồ giả?” Đường Phong ngạc nhiên đến nỗi trợn tròn mắt.
5
Đại Lạt ma lắc lắc đầu, chậm rãi nói: “Ý ta không phải vậy. Kệ tranh ngọc này là thật hay là giả, ta cũng không thể đoán định, bởi vì ta cũng chưa từng nhìn thấy kệ tranh ngọc thật sự. Ta nói văn tự Đảng Hạng trên kệ tranh ngọc này không phải là của Hạo Vương khắc ban đầu; là vì khi Hạo Vương hạ lệnh khắc lên bốn kệ tranh ngọc, ông ta vốn không hề đem chúng đi cất giấu tại bốn nơi khác nhau, mà luôn cất giữ chúng trong cung. Bởi vậy đương nhiên ông cũng không thể khắc tên nơi cất giấu của từng kệ tranh ngọc lên bề mặt của chúng. Còn một điều nữa, văn tự mà ban đầu Hạo Vương khắc cũng không phải là văn tự Đảng Hạng, mà là Hán tự.”
“Hán tự? Theo như ông thấy, phần chữ to hơn là văn tự Đảng Hạng trên kệ tranh ngọc rút cuộc nói lên điều gì? Có giống với phán đoán của chúng tôi, nói rõ nơi cất giấu của kệ tranh ngọc thứ hai?” Hàn Giang đứng bên cạnh nói xen vào.
Đại Lạt ma bưng kệ tranh ngọc lên, ngắm nghía hồi lâu, gật đầu nói: “Quan điểm của ta cũng giống như các cậu. Nếu như ta đoán không sai, trên mỗi kệ tranh ngọc đều lần lượt khắc tên vị trí cất giấu của kệ tranh ngọc tiếp theo. Kệ tranh ngọc trong tay các cậu chắc là kệ đầu tiên trong số bốn kệ tranh ngọc, phần văn tự trên mặt chính của nó tiết lộ vị trí cất giấu của kệ tranh ngọc thứ hai. Từ đó suy đoán, kệ tranh ngọc thứ hai chắc chắn có khắc tên vị trí cất giấu của kệ tranh ngọc thứ ba, chắc là như vậy.”
“Vậy theo như ý ông nói thì văn tự trên kệ tranh ngọc này được khắc vào thời nào và do ai khắc?” Đường Phong tiếp tục hỏi.
“Muốn làm sáng tỏ vấn đề này thì phải căn cứ theo lịch sử Tây Hạ mà tôi đã kể phía trước để nói tiếp. Vào năm cuối cùng của cuộc đời Hạo Vương, ông đã phạm phải một sai lầm lớn, ông đã cưỡng hôn chính con dâu của mình, cũng chính là vợ của thái tử vương triều Tây Hạ. Vốn dĩ, đối với người Đảng Hạng mà nói thì chuyện này cũng không có gì là to tát, người Đảng Hạng tính cách hào phóng, sùng bái tự do; nam nữ vui hoan yêu đương hoàn toàn tự do, không hề bị ràng buộc bởi bất cứ luân lý đạo đức nào. Trong huyết quản của Hạo Vương đang chảy dòng máu của người Đảng Hạng. Ông yêu cô gái đó, ông cho rằng không có thứ gì có thể cản trở tình cảm của mình, nhưng, thái tử Ninh Lệnh Ca ngay từ tấm bé đã được Nho giáo hun đúc mà trưởng thành. Ông ta không thể chấp nhận sự thật này. Ninh Lệnh Ca cho rằng đây là một sự đại sỉ nhục đối với bản thân, cũng là một sự đại sỉ nhục đối với toàn bộ vương triều, thù hận đã làm trí óc ông ta trở nên mụ mị. Và đúng lúc đó, một nhân vật luôn ẩn nấp phía sau, chờ đợi cơ hội đã xuất hiện, người này chính là tướng quốc thời đó - Một Tạng Ngoa Bàng. Ông ta là đại thần mà Hạo Vương tín nhiệm nhất trong những năm cuối đời. Ông ta đã chờ đợi thời cơ từ rất lâu rồi, thời cơ đó có thể khiến cho thế lực của gia tộc Một Tạng trở nên lớn mạnh. Giờ đây, ông ta cho rằng thời cơ tốt nhất đã đến, vậy là, Một Tạng Ngoa Bàng ra sức kích động thái tử Ninh Lệnh Ca, khiến cho Ninh Lệnh Ca vốn đã bị thù hận làm cho trí óc mụ mị càng không do dự gì hết. Một buổi tối, ông ta lẩn vào trong cung, ám sát Hạo Vương, còn bản thân ông ta sau đó đã bị Một Tạng Ngoa Bàng xử tử vì gán cho tội danh giết vua.” Đại Lạt ma kể liền một mạch về giai đoạn lịch sử rối ren hung hiểm này.
Đường Phong suýt xoa: “Hạo Vương đúng thật là gậy ông đập lưng ông. Bản thân ông không tôn sùng Nho giáo mà lại ngưỡng mộ văn minh trung nguyên, ra sức truyền bá Nho giáo trong nước, kết quả, rút cuộc lại bị chính con trai được Nho giáo hun đúc thành tài, trưởng thành từ chính trong môi trường đó giết chết. Xem ra, tất cả những dân tộc quật khởi từ thảo nguyên, sa mạc đều không thoát khỏi điều này. Họ ngưỡng mộ văn minh trung nguyên, học tập văn minh trung nguyên, nhưng văn minh trung nguyên lại làm phát sinh xung đột với phương thức sinh tồn cố hữu của họ, một khi họ hữu ý hay vô ý bị Hán hóa, thì sói tính vốn có trong con người họ cũng mất đi rất nhiều rồi.”
“Được rồi! Được rồi! Bài diễn thuyết dài thườn thượt của cậu để lại sau này hãy nói, bây giờ điều mà tôi quan tâm chính là lịch sử của kệ tranh ngọc.” Hàn Giang ngắt lời Đường Phong, rồi quay lại nhìn Đại Lạt ma hỏi: “Nguyên Hạo chết rồi, thái tử cũng chết rồi, sau đó thì ai là người kế tục ngôi vua?”
6
Đại Lạt ma tiếp tục kể: “Lượng Tộ! Ngôi Danh Lượng Tộ! Hoàng đế đời thứ hai của vương triều Tây Hạ, ngày chôn cất Hạo Vương, ông vẫn chỉ là một đứa trẻ bọc trong tã lót, ông có thể lên được ngôi vị hoàng đế hoàn toàn là do một người đàn bà, mẹ của ông, Một Tạng Thị. Nói về Một Tạng Thị, đây là một người đàn bà không đơn giản, bà ta là em gái của Một Tạng Ngoa Bàng, vốn là vợ của đại tướng Dã Lợi Ngộ Khất, thuộc hạ của Hạo Vương. Dã Lợi Ngộ Khất dũng mãnh thiện chiến, trong cuộc chiến tranh với nhà Tống, ông đã lập được vô số kỳ công, cộng thêm thế lực lớn mạnh của gia tộc Dã Lợi lúc đó. Thời gian qua đi, Dã Lợi Ngộ Khất lập công nhiều tới mức khiến chủ nhân cũng phải lo lắng và đã bị Hạo Vương nghi ngờ, đố kị, còn nhà Tống thì từ lâu đã muốn diệt trừ người này, nên phó soái nhà Tống là Phạm Trọng đã bày ra kế gian, phái người lấy trộm thanh đao quý của Dã Lợi Ngộ Khất: rồi tuyên bố Dã Lợi Ngộ Khất chuẩn bị đầu hàng nhà Tống, lấy đao đó làm chứng. Tin tức truyền đến Tây Hạ, Hạo Vương vốn đã không bằng lòng với Dã Lợi Ngộ Khất nay càng thêm phẫn nộ, mượn chuyện này giết chết Dã Lợi Ngộ Khất. Cũng trong lúc này, Hạo Vương phát hiện ra người vợ trẻ trung xinh đẹp của Dã Lợi Ngộ Khất - Một Tạng Thị. Để bịt tai che mắt mọi người, trước tiên, Hạo Vương đưa Một Tạng Thị vào chùa Giới Đàn xuống tóc làm ni cô. Sau đó, Hạo Vương thường xuyên lui tới chùa Giới Đàn để gặp gỡ riêng Một Tạng Thị. Chính trong chùa Giới Đàn, Một Tạng Thị đã sinh hạ Lượng Tộ. Lượng Tộ ra đời chưa được bao lâu thì xảy ra chuyện Một Tạng Ngoa Bàng xúi giục thái tử Ninh Lệnh Ca ám sát Hạo Vương, sau đó, Một Tạng Ngoa Bàng liền lập Lượng Tộ chưa đầy tuần tuổi làm vua, còn Một Tạng Thị - con gái của ông ta cũng trở thành hoàng thái hậu.”
“Hóa ra chuyện là như vậy, thảo nào Một Tạng Ngoa Bàng muốn xúi giục thái tử giết chết Hạo Vương, tất cả đều do sự cám dỗ quyền lực đáng sợ!” Makarov cũng hiểu ra một chút đầu đuôi câu chuyện.
“Đúng vậy, tất cả đều vì quyền lực! Sau đó, gia tộc Một Tạng liền độc quyền nắm giữ kỷ cương triều đình hơn mười năm, chính sách và pháp lệnh Tây Hạ đều do gia tộc Một Tạng ban hành, nhưng Lượng Tộ ngày một lớn lên, ông càng ngày càng bất mãn với quyền lợi vốn thuộc về mình nhưng lại rơi vào tay gia tộc Một Tạng. Vậy là, ông liên kết một số đại thần khác lại, diệt trừ Một Tạng Ngoa Bàng. Vốn tưởng Lượng Tộ làm nên lịch sử, nhưng không ngờ ông lại đoản mệnh, 20 tuổi đã qua đời, vậy là kế tục ngôi vua lại là một đứa trẻ - Ngôi Danh Bỉnh Thường, gia tộc Lương của thái hậu mẹ Bỉnh Thường nắm giữ triều chính. Kể từ sau khi Hạo Vương chết đi, Tây Hạ gần như rơi vào vòng can dự chính trị luẩn quẩn quái dị của họ ngoại, từ Một Tạng Thị tới Lương Thị, rồi tới Nhiệm Thị sau này, toàn là như vậy.”
“Sao đó thế nào?” Makarov hình như càng lúc càng hứng thú với lịch sử Tây Hạ.
“Cứ như vậy, mãi cho tới tận những năm cuối của Tây Hạ, người Mông Cổ trên thảo nguyên phương Bắc lớn mạnh, nhiều lần đến xâm lược Tây Hạ, kể từ lần đầu tiên tới lúc Tây Hạ vong quốc, tổng cộng là sáu lần, kéo dài hơn hai mươi năm. Trong những lần đó, đội quân Mông Cổ xâm nhập Tây Hạ lần đầu tiên là để truy kích bại quân của Tưởng Tang Côn, nhưng sự quấy nhiễu của Mông Cổ đối với Tây Hạ lần đó không nghiêm trọng, mà chỉ là gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh kẻ thống trị Tây Hạ. Lúc đó hoàng đế tại vị của Tây Hạ là Hoàn Tông, Ngôi Danh Thuần Hựu. Thuần Hựu đã ý thức được tính nghiêm trọng của vấn đề, nên đã hạ lệnh trùng tu thành quách nhưng vẫn bị kỵ binh Mông Cổ san bằng rồi, đại xá cả nước, đồng thời đổi tên đô thành Hưng Khánh Phủ thành Trung Hưng Phủ. Từ những sự kiện này có thể nhận thấy, Thuần Hựu vốn muốn chấn hưng lại kỷ cương triều đình, trở thành vua đầu tiên của Trung Hưng, nhưng người Đảng Hạng thời đó cũng không còn là người Đảng Hạng theo Hạo Vương đi khai hoang mở mang bờ cõi năm nào. Vì vậy, sự việc đã diễn ra trái với mong muốn của Thuần Hựu, bởi năm sau đó, em trai họ của Thuần Hựu là Ngôi Danh An Toàn đã hợp mưu với La thái hậu, phế truất Thuần Hựu, tự mình xưng đế. Chính lần chính biến cung đình lần này đã thay đổi hoàn toàn lịch sử Tây Hạ. Vì kể từ đó, Tây Hạ không thể đứng dậy được nữa, bởi trong cuộc chiến với người Mông Cổ, họ đánh trận nào bại trận nấy, cuối cùng mất nước.”
“Nhưng, những lịch sử Tây Hạ mà ông kể này thì có liên quan gì tới kệ tranh ngọc?” Hàn Giang nóng ruột muốn biết rút cuộc là người nào đã khắc những văn tự mà hiện giờ họ đang nhìn thấy trên kệ tranh ngọc.
7
Đại Lạt ma mỉm cười nói: “Đừng sốt ruột, tôi sắp kể tới nơi rồi. Chẳng bao lâu sau khi An Toàn phế truất Thuần Hựu, tự xưng đế thì chiến hỏa lại bốc lên ngùn ngụt từ thảo nguyên phương Bắc, đoàn kỵ binh Mông Cổ cuốn bụi quay lại, Thành Cát Tư Hãn lại lần nữa xuất quân đánh Tây Hạ, Ngôi Danh An Toàn đã liên kết với nước Kim để chống lại nước Mông, may mắn vượt qua được ải này. Nhưng năm sau, đại quân của Thành Cát Tư Hán lại xuất binh, và lần này thì Tây Hạ không còn may mắn như trước nữa. Dù người Đảng Hạng có liều chết chống lại, nhưng cũng không địch được kỵ binh của đại quân Mông Cổ. Kỵ binh Mông Cổ xông thẳng tới dưới đô thành Hưng Khánh Phủ, may mà năm đó Hạo Vương xây dựng Hưng Khánh Phủ vô cùng kiên cố. Thành Cát Tư Hãn tấn công mãi mà không được nên từ chỗ phiền muộn trở nên phẫn nộ, dẫn nước sông Hoàng Hà đổ vào Hưng Khánh Phủ. Nhưng ông trời che chở, nước sông Hoàng Hà không nhấn chìm nổi Hưng Khánh Phủ, ngược lại còn xém chút nữa nhấn chìm người Mông Cổ. Thành Cát Tư Hãn không còn cách nào khác, đành phải hạ lệnh rút quân. Trên đường rút quân, Thành Cát Tư Hãn lệnh cho tướng quân Ngoa Đáp đang bị bắt giữ quay về kêu gọi Ngôi Danh An Toàn chiêu hàng. Sau khi Ngoa Đáp trở về chiêu hàng, hôn quân Ngôi Danh An Toàn vốn đã bị đại quân của Mông Cổ dọa cho tới nỗi hồn xiêu phách lạc, nên đã lập tức đồng ý dâng tặng Thành Cát Tư Hãn con gái ruột của mình, tự xưng thần và định kỳ cống nạp cho Mông Cổ, đồng thời đoạn tuyệt với nước Kim, rồi quay lại thay Mông Cổ tấn công nước Kim. Một hôn quân vô dụng như vậy, trong lúc dân tộc gặp nạn, lại đột nhiên nhớ ra bốn kệ tranh ngọc mà Hạo Vương để lại, vậy là ông ta đã gửi gắm hết hy vọng của dân tộc lên bốn kệ tranh ngọc đó. Ngôi Danh An Toàn đã chuẩn bị kĩ lưỡng một đội ngũ hàng trăm người, chuẩn bị đi tìm kiếm mật thành trong sa mạc, đây là một lần xuất chinh bi tráng, những người được chọn đều là những dũng sĩ Đảng Hạng ưu tú nhất. Ngôi Danh An Toàn luôn lo lắng suy nghĩ xem ai sẽ là người lãnh đạo đội ngũ này, người bình thường thì ông ta không yên tâm, vì bốn kệ tranh ngọc này thậm chí còn khiến ông quan tâm lo lắng hơn cả ấn ngọc. Lúc ấy, những tôn thất quý tộc, cựu thân lập công lớn mà ông vốn tín nhiệm thì ai ai cũng đều tham sống sợ chết, không chịu đi. Đúng lúc này, trong tôn thất quý tộc có một người đứng lên, tự nguyện lãnh đạo đội quân này ra đi. Người này là Ngôi Danh Tuân Húc, là hậu duệ của Trung Vũ Vương trong tôn thất. Tuân Húc đã từng thi đỗ trạng nguyên, trong tôn thất cũng được coi là người có tài, rất được kỳ vọng. Con đường tiến lên ngôi vị hoàng đế của Ngôi Danh An Toàn vốn không chính nghĩa nên ông ta tất nhiên nghi ngờ Tuân Húc, người có tài trong tôn thất. Nhưng lúc này quả thật không có ai để phái đi, nên ông ta cũng đành phải lệnh cho Tuân Húc soái lĩnh đội quân này ra đi.”
“Sau đó họ có tìm thấy Hạn Hải Mật Thành không?” Đường Phong nói chen vào.
Đại Lạt ma lắc đầu nói: “Không ai biết họ có tìm thấy Hạn Hải Mật Thành hay không, nhưng đội quân này trước tiên tới thị trấn trọng điểm Hắc Thủy Thành tại phía bắc. Kể từ thời của Hạo Vương, đây vốn đã là vùng quân sự của Hắc Thủy trấn Yến, là thị trấn quản sự trọng điểm duy nhất của vương triều tại phía tây bắc. Khi đội quân của Tuân Húc đến đây, Hắc Thủy Thành vừa mới bị kỵ binh Mông Cổ cướp bóc sạch trơn, tan hoang thảm hại vô cùng. Họ nghỉ ngơi ở đây một lúc rồi rời khỏi Hắc Thủy Thành, tiếp tục tiến vào sâu trong sa mạc. Kể từ đó trở đi, không còn ai biết về tung tích của đội quân này nữa...”
“Không đúng! Tôi nhớ Ngôi Danh Tuân Húc sau này còn thay thế Ngôi Danh An Toàn trở thành hoàng đế của Tây Hạ mà!” Đường Phong hỏi lại Đại Lạt ma.
“Không sai, đội quân này có một người may mắn sống sót, đó chính là Ngôi Danh Tuân Húc, nhưng ông ta có thực sự tìm được Hạn Hải Mật Thành hay không thì không ai có thể khẳng định. Khi ông quay lại Hưng Khánh Phủ thì trên người có vô số mũi tên, sau lưng thì đang bị một đội kỵ binh Mông Cổ truy sát. Khi lao vào trong thành, Tuân Húc đã thở thoi thóp... cho tới khi tỉnh lại, ông đã tuyên bố với quan dân bách tính của Hưng Khánh Phủ là mình đã phát hiện ra Hạn Hải Mật Thành. Ở đó có vô số châu báu quý hiếm mà Hạo Vương để lại, đủ để giải quyết nguy cơ tài chính mà Tây Hạ đang đối mặt. Ở đó còn có một bộ lạc Đảng Hạng dũng mãnh thiện chiến, đủ để kháng cự sự xâm chiếm của đội quân kỵ binh Mông Cổ. Chỉ có điều, do đường đi xa xôi hiểm trở, trên đường đi không biết bao nhiêu lần bị người Mông Cổ truy sát, bởi vậy ông không thể đem những báu vật quý hiếm trở về. Cũng đã có một võ sỹ của bộ lạc bản địa trở về cùng ông, nhưng trên đường trở về đã bị kị binh Mông Cổ truy sát, nên võ sỹ đó và một số người khác đều đã tử trận, chỉ có mình ông thoát về được.”
8
“Những lời nói đó của ông ta cũng khiến cho người Đảng Hạng tin sao? Biết đâu là do ông ta bịa đặt ra!” Hàn Giang chất vấn.
“Ngôi Danh Tuân Húc đã lấy ra một tràng hạt xương người, ông nói rằng dũng sỹ đó trước khi chết đã giao cho ông tràng hạt này, để lấy đó làm bằng chứng. Quan dân bách tính của Hưng Khánh Phủ thấy rằng Tây Hạ lúc đó không có loại tràng hạt xương người này, vậy là ai cũng tin chắc và không chút nghi ngờ về những gì mà ông kể lại.”
“Tràng hạt xương người, chính là chuỗi hạt đang trên tay ngài sao?” Đường Phong đột nhiên hỏi.
Đại Lạt ma nghe thấy Đường Phong hỏi vậy, hay tay chắp vào nhau, nhìn chuỗi tràng hạt xương người trên tay, nói: “Không sai, tràng hạt xương người mà năm đó Ngôi Danh Tuân Húc mang về chính là tràng hạt trên tay tôi. Ông không chỉ mang về tràng hạt xương người này, mà còn cõng về bốn kệ tranh ngọc, cộng thêm những trải nghiệm thập tử nhất sinh của ông và tin tức làm hưng phấn lòng người mà ông mang về, đã khiến cho địa vị của Ngôi Danh Tuân Húc trong lòng quốc dân tăng lên rất nhanh. Ngôi Danh Tuân Húc cũng nhân cơ hội đó đã hứa với quốc dân: nếu như mọi người ủng hộ ông làm hoàng đế Tây Hạ, thì ông sẽ dẫn dắt quốc dân đi lấy kho báu ở Hạn Hải Mật Thành về, đánh bại quân xâm lược Mông Cổ. Người Đảng Hạng vốn dĩ đã bất mãn với Ngôi Danh An Toàn vô dụng, nên trước lời hứa ngon ngọt của Tuân Húc thì người Đảng Hạng không có lý do gì để không chọn ông. Vậy là, Tuân Húc đã truất ngôi Ngôi Danh An Toàn hết sức nhẹ nhàng, còn mình thì lên ngôi hoàng đế Tây Hạ.”
“Lại là một trận chính biến!” Makarov nhận xét.
“Vậy sau khi Tuân Húc lên ngôi hoàng đế, ông ta có thực hiện lời hứa ban đầu của mình không?” Hàn Giang hỏi.
“Sau khi Tuân Húc lên ngôi hoàng đế đã triệt để thay đổi phương châm liên minh với nước Kim để tấn công Mông Cổ của Ngôi Danh An Toàn, mà chủ động kết thân với Mông Cổ, nên ngược lại cũng đổi được vài năm sống yên ổn. Nhưng ông hiểu rằng sự hòa bình đó chỉ là ngắn ngủi, bởi vậy không lúc nào ông ngừng hành động tìm kiếm Hạn Hải Mật Thành. Nhưng mấy đoàn người và ngựa mà ông phái đi, đều không lập công quay về mà còn bặt vô âm tín, mất hút không hình không bóng. Chẳng bao lâu sau, người Mông Cổ cũng biết về bí mật của Hạn Hải Mật Thành, nên đã mấy lần phái sứ giả đến Hưng Khánh Phủ, một mặt yêu cầu Tây Hạ xuất binh đánh bại nước Kim, một mặt đòi lấy kệ tranh ngọc, khiến cho từ triều đình đến thường dân Tây Hạ đều lòng dạ bất an. Tuân Húc mấy lần cố kéo dài qua loa cho xong chuyện, nhưng, mâu thuẫn giữa Mông Cổ và Tây Hạ rút cuộc cũng bùng nổ. Thành Cát Tư Hãn trước khi chinh chiến phía tây đã sai sứ giả đến Tây Hạ đòi kệ tranh ngọc, đồng thời yêu cầu Tây Hạ phải phái binh trợ chiến. Tây Hạ đã không thể chấp nhận để Mông Cổ bắt nạt thêm, nên khi chưa kịp đợi Tuân Húc trả lời sứ giả của Mông Cổ, thì thuộc hạ của ông là đại thần A Sa Cảm đã trực tiếp từ chối thẳng thừng yêu cầu của người Mông Cổ. Sau khi sứ giả quay về phục lệnh, Thành Cát Tư Hãn nổi giận đùng đùng dẫn đại quân tiến đến. Tuân Húc không đủ sức để chống lại, đành phải cầu hòa. Thành Cát Tư Hãn lúc đó đang bận rộn chinh chiến phía tây nên đã đồng ý lời cầu hòa của Tây Hạ, dẫn quân rút về. Lần tiến quân này của người Mông Cổ đã tác động mạnh đến Tuân Húc, trong tình hình bế tắc, ông đành phải nhường ngôi cho con trai thứ là Ngôi Danh Đức Vượng. Đức Vượng trẻ trung tràn trề sức sống, lập tức liên minh với nước Kim, ý đồ đối kháng Mông Cổ. Sự việc này lại dẫn tới việc Mông Cổ lần thứ năm chinh phạt Tây Hạ. Lúc đó, Thành Cát Tư Hãn vẫn đang trên đường chinh chiến phía tây, bởi vậy, cuộc chinh phạt của người Mông Cổ lần này chẳng qua là để dạy dỗ Tây Hạ một chút mà thôi, còn sự trừng phạt thật sự thì vẫn ở phía sau, nhưng Tây Hạ vì thế cũng sống trong những ngày khó thở. Lúc này, toàn vương quốc trên dưới đều bao trùm trong không khí ngày tận thế, chẳng còn ai dám ôm ấp hy vọng về thành trì bí mật trong đại sa mạc mênh mông đó nữa, và trong không khí của ngày tận thế này, người Đảng Hạng đã chờ đợi ngày tận thế cuối cùng của mình.”
“Đó là lần chinh phạt Tây Hạ cuối cùng của Thành Cát Tư Hãn năm Công nguyên 1227?” Đường Phong hỏi.
“Ừm, đó là một chương đen tối nhất trong lịch sử dân tộc Đảng Hạng. Khi sứ giả Mông Cổ đến Hưng Khánh Phủ tuyên bố thông điệp cuối cùng, thì A Sa Cảm đã không thể thốt ra được lời nào nữa. Thành Cát Tư Hãn vô cùng phẫn nộ, ông ta đã đích thân chinh phạt Tây Hạ, đồng thời thề rằng: ‘Chết bằng sạch, diệt bằng sạch, tuyệt bằng sạch! Từ cha mẹ bách tính Đường Ngột Thích cho tới con cháu của tử tôn, giết sạch không trừ một ai!’. Đầu xuân năm cuối cùng của đế quốc màu trắng, đại quân Thành Cát Tư Hãn bao vây Hưng Khánh Phủ. Lúc này, Đức Vượng trẻ trung tràn trề sức sống đã đột tử. Cháu trai của ông là Ngôi Danh Hiển được quốc dân ủng hộ lập thành Hoàng đế cuối cùng của Tây Hạ. Lần này đô thành đã bị bủa vây từ nhiều phía, và ngoài Hưng Khánh Phủ, người Mông Cổ còn tấn công tất cả thành trấn Tây Hạ. Lực lượng của vương quốc vốn đã tổn thất cạn kiệt, nên trừ khi có thần binh từ trên trời giáng xuống trợ giúp, còn không thì Tây Hạ mất nước đã là điều không còn gì để hoài nghi. Toàn thành trên dưới, già trẻ gái trai đều biết rằng, sẽ không có một chiêu binh đến cứu họ nữa, trừ khi là đội nhân mã dưới sự chuẩn bị của Hạo Vương năm đó... Họ ngước mắt ngóng trông nhưng cũng không kịp đợi một binh lính nào tới. Tân vương Ngôi Danh Hiển lấy bốn tấm kệ tranh ngọc ra, ông mau chóng tính toán, ngộ nhỡ có vỡ thành thì cũng không thể để bốn kệ tranh ngọc này rơi vào tay người Mông Cổ. Vậy là, Ngôi Danh Hiển đã ra lệnh cho người tìm kiếm khắp toàn thành, mãi mới tìm thấy một thợ ngọc duy nhất còn sót lại. Ông sai người thợ ngọc đó xóa hết Hán tự vốn khắc trên mặt chính của kệ tranh ngọc trước đó và khắc lại bằng văn tự Đảng Hạng, hơn nữa còn dùng thể chữ Lệ Đảng Hạng rất ít dùng để khắc lại những lời của Hạo Vương lúc trước, ngoài ra còn khắc lên mỗi kệ tranh ngọc vị trí cất giấu của kệ tranh ngọc kế tiếp. Rồi ông bí mật phái bốn tốp người, mang bốn kệ tranh ngọc xông ra khỏi Hưng Khánh Phủ, hướng về nơi bí mật cất giấu bốn kệ tranh ngọc đó.”
“Dùng văn tự Đảng Hạng là để người khác không nhận biết được nội dung trên kệ tranh ngọc?” Đường Phong hỏi.
“Đúng vậy, ý của Ngôi Danh Hiển đúng là như vậy!”
“Vậy sau đó bốn tốp người này có đến được nơi mà họ định tới không?” Hàn Giang hỏi.
“Cái này thì không ai biết, bởi vì kể từ đó trở đi, bốn kệ tranh ngọc mỗi tấm một nơi, chưa từng tập hợp lại, cũng không có ai biết về nơi cất giữ bốn kệ tranh ngọc... Và như vậy, Hưng Khánh Phủ bị bao vây tới tận mùa hạ. Cũng vào mùa hạ năm đó, Thành Cát Tư Hãn dưỡng bệnh tại núi Lục Bàn, tình hình sức khỏe ngày càng xấu đi, cuối cùng ông ta đã qua đời tại núi Lục Bàn. Cũng có truyền thuyết nói rằng, Thành Cát Tư Hãn bị một thiếu niên Đảng Hạng mặc áo trắng đâm chết trong lều trại.”
“Cái gì? Thiếu niên Đảng Hạng mặc áo trắng?”
“Bất luận thế nào thì Thành Cát Tư Hãn, người chinh phục thế giới này, cuối cùng đã chết trên lãnh thổ Tây Hạ, đây là vận hạn đen đủi của người Đảng Hạng. Sau khi Thành Cát Tư Hãn chết, người Mông Cổ tuân theo di lệnh của Thành Cát Tư Hãn, bí mật không phát tang, chỉ đợi quân thần Tây Hạ đến đầu hàng trước rồi giết sạch người Đảng Hạng trong thành. Đó là một đêm đẫm máu trong lịch sử Hưng Khánh Phủ, một đêm đại thảm sát! Trong Hưng Khánh Phủ, bất luận già trẻ nam nữ, hầu hết đều bị giết, người Đảng Hạng may mắn sống sót chỉ còn lại lác đác vài người...” Nói tới đây, Đại Lạt ma dừng lại không kể tiếp nữa, miệng niệm một đoạn kinh văn mông lung khó hiểu.
Trong Phật đường, bỗng nhiên im lặng như tờ, mọi người đều trầm ngâm yên lặng.
Danh sách chương