Hắc Lạt ma vốn là người Mông cổ, sau khi cách mạng Mông cổ bùng nổ, ông ta đã bỏ chạy tới biên giới Trung Quốc, rồi hành nghề cướp bóc để mưu sinh, gây thù địch với chính quyền Mông cổ thời đó. Nghe nói, dưới sự giúp đỡ của đặc công Liên Xô, chính phủ Mông Cổ đã vượt đường dài bất ngờ tập kích vào núi Mã Tung, giết chết Hắc Lạt ma, rồi còn chặt cả đầu ông ta. Xương sọ của ông ta hiện giờ vẫn còn được cất giữ tại Saint Petersburg.

1

Nước chết trong đầm bắt đầu sôi ùng ục, bong bóng nước không ngừng nổi lên. Đường Phong và Makarov kinh ngạc nhìn sự biến hóa trong đầm nước, bật lùi lại phía sau.

Lại một tiếng động lớn nữa vang lên, Đường Phong phát hiện nước trong đầm bắt đầu hạ xuống. Ngay sau đó, đống vàng bạc châu báu vốn chìm dưới đáy đầm, bỗng từ từ nổi lên mặt nước.

Cho tới khi đống vàng bạc châu báu chất như núi hiện rõ mồn một trước mặt họ, Đường Phong mới phát hiện thấy: hóa ra tất cả đống vàng bạc châu báu đều được chất trên một bệ đá hình vuông. Giữa bệ đá và vách đầm có khe hở rộng khoảng nửa mét, nước trong đầm vốn đầy ăm ắp, đã rút hết vào trong khe hở đó.

“Thật... thật không sao tin nổi!”, Makarov ngạc nhiên kêu lên.

“Đây lẽ nào chính là kho báu được đánh dấu trên tấm bản đồ?”, Đường Phong nghĩ tới tấm bản đồ kho báu trong phòng khách phía đông ở nhà trọ.

Đường Phong không hứng thú với đống vàng bạc châu báu này, vì thứ mà anh muốn tìm chính là kệ tranh ngọc. Bệ đá nhô lên ngang bằng với vị trí thềm đá mà anh đang đứng thì dừng lại.

Đường Phong quan sát một hồi, tin rằng chẳng có nguy hiểm nào cả, anh liền lao như tên bắn, nhảy phóc lên bệ đá, Makarov cũng nhảy lên theo.

Hai người đứng giữa núi ngọc ngà châu báu chất nhiều đến mức họ gần như chẳng có chỗ để đặt chân. Đường Phong thẫn thờ nhìn kho báu trước mặt, đột nhiên, anh phát hiện ra có chút không bình thường. Anh nhấc một thứ đồ gốm sứ trong núi châu báu lên, đây là một chiếc bình ngũ sắc vẽ hoa lá và chim chóc bằng ngọc. Kiến thức tích lũy bao năm đã giúp anh nhận ngay ra chiếc bình gốm sứ trên tay là của những năm Càn Long đời Thanh chế tác. Đặt bình hoa xuống, Đường Phong lại cầm một cái lò bằng đồng lên, dưới đáy lò có bút tích, rõ ràng, chính xác viết rằng “Được làm vào thời Tuyên Đức”.

Đường Phong đã nhìn ra chút manh mối, anh lắc đầu đặt chiếc lò đồng xuống, nói với Makarov: “Thật là kì lạ quá, những báu vật này không phải của Tây Hạ.”

“Ồ? Sao cậu biết?”, Makarov ngạc nhiên.

“Cái bình hoa lá chim chóc bằng ngọc mà ban nãy cháu cầm lên, là của những năm Càn Long đời Thanh, Tây Hạ không có loại bình như vậy, cái lò đồng cũng là của đời Minh những năm Tuyên Đức, cũng không phải của Tây Hạ.

Ngọc ngà châu báu ở đây vốn không phải của thời Tây Hạ, có không ít là của thời nhà Thanh, còn đa số vàng bạc đều của thời Dân quốc”, vừa nói, Đường Phong vừa tiện tay cầm vài chiếc dây chuyền trong đống châu báu lên, “Hơn nữa lại đều là những vật trong dân gian, không thể bì được với châu báu của đế vương hoàng gia được.”

Makarov cũng cúi người nhặt vài đồng tiền bạc, tiền vàng lên nhìn kĩ: “Cái này có thể giải thích cho hai đồng bạc mà chúng ta phát hiện thấy trong trung điện rồi!”

“ừm, hai đồng bạc phát hiện thấy trong trung điện chắc cũng bắt nguồn từ đống châu báu này!”, Đường Phong phán đoán.

“Đường Phong... thế... thì tôi chẳng hiểu gì cả! Tất cả mọi thứ của chùa Hắc Thứu, bất luận là tượng Phật hay là kiến trúc đều thể hiện dấu tích của thời kì Tây Hạ, nhưng sao ở đây lại xuất hiện kho báu của Dân quốc?”

“Điều này quả thực rất kì lạ, cháu cũng không hiểu.

Từ đống vàng bạc châu báu của thời kì Dân quốc này, có thể thấy, vàng bạc đã được cất ở đây từ thời kì đỏ, thêm nữa, căn cứ vào tấm gỗ, dây thừng để lại trong lối đi, cháu đoán những người vào đây cũng đều từ thời Dân quốc.”

“Có thể là ai được? Còn nữa, ở đây vốn cất giữ cái gì nhỉ?”

“Đúng thế! Lẽ nào ở đây không có văn vật còn sót lại tò thời Tây Hạ?”, Đường Phong ngẫm nghĩ, rồi bắt đầu cẩn thận phân loại đống vàng bạc châu báu ngồn ngộn trước mặt. Nhưng anh đã xem qua đống kho báu một lượt, mà vẫn không thấy một di vật nào của thời kì Tây Hạ, lại càng không thấy kệ tranh ngọc mà họ đang khổ sở tìm kiếm.

2

Đường Phong làm xong thì thấy cơ thể mỏi rã rời, anh liền ngồi xuống cạnh đống vàng bạc châu báu: “ôi trời! Đây lẽ nào là số phận bỡn cợt tôi? vất vả khổ cực, trải qua biết bao nguy hiểm, đến đây thì phát hiện thấy kho báu rồi mà lại không phải là thứ mà mình cần tìm! Chủ nhân của những báu vật này rốt cuộc là ai đây?”

Đường Phong cảm thấy chủ nhân của kho báu này hình như đang chơi một trò đùa ác với mình. Trong lúc anh đang thiểu não thì Makarov lại có phát hiện mới: “Đường Phong, cậu nhìn này, hình như trên bệ đá có chữ, giống chữ Hán!”

Đường Phong cũng phát hiện thây bệ đá bên cạnh mình có chữ, hai người bê đống ngọc ngà châu báu trên bệ đá ra chỗ khác, giật mình phát hiện ra trên bệ đá khắc kín chữ, hơn nữa còn đều là chữ Hán phồn thể. “Giống như một bài văn vậy!”, Đường Phong phán đoán.

“Đây cũng có thể là do đám người vào đây từ thời Dân quốc khắc cũng nên. Makarov nói.

Đường Phong chầm chậm đọc từng chữ một khắc trên bệ đá:

Hắc Lạt ma vô đạo, không nghe những lời chân thành, kết quả thất bại như ngày hôm nay, không giữ được núi Mã Tung, Đến Hoàng thiên kiệt anh minh không còn. Nay tôi và các huynh đệ tại đây, trước mặt Phật tổ, thề với trời rằng: chân thành đoàn kết, cùng gây dựng đại sự, giết Hắc Lạt ma, gây dựng lại sơn hà, nhất định phải tìm thấy tòa thành cổ Tây Hạ đã biến mất, cùng hưởng vinh hoa phú quý. Nhật nguyệt làm chứng, tâm này ghi dấu, ai phản bội lời thề nhất định sẽ phải chết.

Người thề: Mã Viễn

Cuối cùng Đường Phong cũng đã đọc xong những dòng chữ nửa văn vẻ nửa tự bạch này, phía sau tên người thề “Mã Viễn” hình như vẫn còn 9 chữ nữa, nhưng đều đã bị mờ, nên không thể đọc được.

“Mấy chữ phía sau chắc đều là tên của những người cùng thề, nhưng chắc đều bị cố ý xóa đi, chỉ còn lại chữ Mã Viễn này”, Đường Phong nói.

“Trong đoạn văn thề này có nhắc tới Hắc Lạt ma!”, Makarov nhớ tới cái người mà Đại Lạt ma kể với họ tại Thất Sắc Cẩm Hải.

Đường Phong cũng đã nhớ ra: “Lúc ở Thất sắc cẩm Hải, Đại Lạt ma từng kể rằng: thời Dân quốc, ở vùng tây bắc, có một tên thổ phỉ rất nổi tiếng là Đan Tất Kiên Tán, mọi người đều gọi người này là ‘Hắc Lạt ma’. Tương truyền, thì chính Hắc Lạt ma này là người đã đoạt được kệ tranh ngọc cất giấu tại Đôn Hoàng.”

“Đúng vậy! Trong lời thề này nhắc đến ‘Đôn Hoàng’, sau này khi trở về, tôi cũng tìm kiếm qua một chút tài liệu, Hắc Lạt ma vón là người Mông cố, sau khi cách mạng Mông Cổ bùng nổ, ông ta đã bỏ chạy tới biên giới Trung Quốc, rồi hành nghề cướp bóc để mưu sinh, gây thù địch với chính quyền Mông cổ thời đó. Thời đó, ông ta lấy núi Mã Tung làm căn cứ, hoạt động tại vùng Đôn Hoàng, Tửu Tuyền, bởi vậy rất có khả năng ông ta đã đoạt được kệ tranh ngọc tại Đôn Hoàng.”

“Sau này, nhóm Hắc Lạt ma đã trở thành chủ đề đau đầu của hai nước Trung - Mông. Dưới sự giúp đỡ của đặc công Liên Xô, chính phủ Mông cổ đã vượt đường dài, bất ngờ tập kích núi Mã Tung, giết chết Hắc Lạt ma, rồi còn chặt cả đầu ông ta. Nghe nói, xương sọ của ông ta hiện giờ

Cô vẫn còn được cất giữ tại Saint Petersburg.”

“Đúng là như vậy! Nhưng những tin tức được tiết lộ từ đoạn lời thề này hình như không giống với những gì chúng ta đã biết”, Makarov nghi ngờ nhìn những chữ phồn thể trên bệ đá, “Lời thề là chừ Hán phồn thể, lại nhắc tới Hắc Lạt ma, vậy thì chúng ta có thể nhận định được thời gian của đoạn lời thề này là khoảng từ những năm 20 đến những năm 40 của thế kỷ trước, gần nhất cũng không thể quá những năm 50. Kết hợp với những di vật và kho báu trong thạch điện để phán đoán, thì chắc càng gần với thời kì trước đó hơn, tức là cuối những năm 20 hoặc những năm 30.”

Đường Phong nghe những suy đoán của Makarov, gật gù: “Lão Mã, bác nói tiếp đi, có gì khác nhau?”

“Trong lời thề có hai lần nhắc tới Hắc Lạt ma, lần thứ nhất nói rằng Hắc Lạt ma vô đạo, lần thứ hai nhắc tới việc giết chết Hắc Lạt ma. Dựa vào những chữ đó để lý giải, thì hình như là đám người này đã giết chết Hắc Lạt ma, điều này không giống với những gì mà chúng ta biết.”

“ừm, truyền thuyết thì nói rằng Hắc Lạt ma bị quân Mông Cổ và đặc công Liên Xô giết, còn có cả đầu để chứng minh. Nhưng cũng có truyền thuyết cho rằng, Hắc Lạt ma đã trốn được sự truy sát đó, mang theo cả kho báu của nước thù địch, rồi cất giấu tại chỗ nào đó mà không ai biết”, Đường Phong nói.

“Nếu như những lời thề này là thật, vậy thì người bị Mông Cổ và đặc công Liên Xô giết chết chỉ là hàng giả.”

“Nhưng chúng ta làm sao chứng minh được người viết bài thề này có đáng tin cậy hay không?”

“Hiện giờ tôi nghiêng về những tin tóc mà bài thề này tiết lộ hơn. Bởi vì đây là tư liệu nguyên bản, điều này chúng ta có thể nhận ra từ những dòng chữ; bởi vậy, tôi càng nghiêng về nội dung được tiết lộ trong bài thề này.”

“ừm, từ nội dung của lời thề cho thấy, người thề chắc là người trong cuộc. Nhưng lại là nhóm người nào đây?”, Đường Phong không hiểu.

Ngược lại, tư duy của Makarov lại rộng mở hơn nhiều: “Đường Phong, cậu nhìn đống ngọc ngà châu báu này mà không đoán được người thề là ai sao?”

“Ý bác là: người thề chính là chủ nhân của kho báu này ạ? Vậy thì họ khả năng là người của Hắc Lạt ma. Chỉ có Hắc Lạt ma, hoặc thuộc hạ của Hắc Lạt Ma, mới có thể thu gom một đóng kho báu lớn như vậy trong thời kì Dân quốc!”, Đường Phong ngẫm nghĩ một lúc, nói tiếp: “Thời kì Dân quốc, khắp dải tây bắc đều lưu truyền truyền thuyết về kho báu của Hắc Lạt ma. Nghe nói, Hắc Lạt ma đã dùng việc cướp bóc các thương nhân đi qua đây để tích lũy tài sản giàu có của nước thù địch, sau này số tài sản đó cũng bí ẩn biến mất cùng Hắc Lạt ma, vĩnh viễn biến mất.”

“Không sai! Trong lời thề lần thứ nhất nhắc tới Hắc Lạt ma, thực ra chính là lý do ‘giết Hắc Lạt ma’ được nhắc tới lần thứ hai trong lời thề. Cái từ ‘vô đạo’ trong ‘Hắc Lạt ma vô đạo’ vốn không phải để chỉ Hắc Lạt ma là kẻ chuyên giết người, không tội ác nào là hắn không gây ra, mà thực ra ý nghĩa của nó chính là lời oán thán Hắc Lạt ma ‘không nghe những lời chân thành’ của những người này; ý nghĩa sâu xa hơn: chính là sự oán hận của nhũng người này với Hắc Lạt ma.”

“Xem ra trong đội quân của Hắc Lạt ma thời đó đã có một thế lực phản lại Hắc Lạt ma!”, Đường Phong thầm kinh ngạc.

3

Một thế lực phản lại Hắc Lạt Ma? Makarov khẳng định lại phán đoán của Hàn Giang: “ừm, tôi nghĩ là vậy.

Hậu quả của ‘Hắc Lạt ma vô đạo, không nghe những lời chân thành’ mới chính là ‘kết quả thất bại như ngày hôm nay, núi Mã Tung không giữ được, Đôn Hoàng thiên kiệt anh minh không còn’. Tôi nghĩ: ‘kết quả thất bại như ngày hôm nay’ chính là nhằm chỉ trận chiến mà Mông cổ và đặc công Liên Xô tập kích Hắc Lạt ma.”

“Chỉ có thể là như vậy thôi. Vậy lời thề ‘giết Hắc Lạt ma’ của họ phía sau, cũng có nghĩa là Hắc Lạt ma không hề chết trong trận tập kích của Mông cổ và đặc công Liên Xô. Nhưng sau này, kể từ sau trận chiến đó, tất cả những thông tin bí mật về Hắc Lạt ma đều đứt đoạn, thế nhân không còn nghe tới Hắc Lạt ma nữa.”

“Với tính cách của Hắc Lạt ma, thì ông ta không bao giờ cam chịu chìm nghỉm như vậy đâu. Sau này ông ta không lộ mặt, thì chỉ có thể có một giải thích duy nhất, đó chính là: ông ta thực sự đã chết rồi!”

“Nếu nói như bác thì chẳng bao lâu sau trận chiến tại núi Mã Tung đó, Hắc Lạt ma cũng chết rồi!”

Makarov gật gù: ‘‘Nhất định là như vậy. Sau trận chiến tại núi Mã Tung, Hắc Lạt ma cùng một số người trong bộ tộc đã chạy thoát, vậy nơi cuối cùng mà họ tới, có thể là chỗ nào đây?”

“Chắc chắn là ở đây. Từ tình hình lúc đó cho thấy, phía bắc là Mông cổ, nên Hắc Lạt ma không thể đến đó được; phía tây là Tân Cương, thì có quân đô đốc cũng tăng cường phòng thủ nên Hắc Lạt cũng e dè, phía nam là vùng Thanh Hải hoang sơ, hiểm trở; nên chỉ có đi về phía đông, trốn trong núi Hạ Lan là thượng sách. Hơn nữa, ở đây núi cao rừng rậm, lại còn có thạch điện này có thể ẩn náu…”

“Không! Đường Phong, lúc Hắc Lạt ma tháo chạy nhất định là hấp tấp thục mạng, không thể mang theo bao nhiêu đồ đạc như vậy được. Chắc chắn trước đó Hắc Lạt ma đã phát hiện ra chỗ này, và để đề phòng bất trắc nên ông ta đã cất giấu toàn bộ vàng bạc châu báu mà mình tích lũy được ở đây. Sau trận chiến ở núi Mã Tung, Hắc Lạt ma và băng nhóm của ông ta bị truy đuổi, chắc chắn sẽ nghĩ tới chỗ này trước tiên!”, giải thích của Makarov hợp lý hơn hẳn.

“Vậy tấm bản đồ kho báu từ thời Dân quốc, mà cháu và Hàn Giang phát hiện thấy trong nhà trọ, chắc là chỉ chỗ này rồi!”

“Điều đó không quan trọng nữa rồi. Quan trọng là Hắc Lạt ma làm thế nào để tìm thấy chỗ này?”

“Là... là kệ tranh ngọc!”, Đường Phong giật mình, “Nhưng trên kệ tranh ngọc không thể có thông tin về núi Hạ Lan được!”

“Đúng! Nhimg tôi nghĩ Hắc Lạt ma đã biết trước về bí mật của kệ tranh ngọc, bởi vậy ông ta cũng đang tìm kiếm những kệ tranh ngọc khác. Chỉ có điều, dựa vào năng lực của ông ta thì không tự tìm ra được! Điều này có thể nhìn ra từ trong đoạn lời thề, ‘chân thành đoàn kết, cùng gây dựng đại sự, giết Hắc Lạt ma, xây dựng lại sơn hà, nhất định phải tìm thấy tòa thành cổ Tây Hạ đã biến mất, cùng hưởng vinh hoa phú quý’. ‘Đại sự’ nhằm để chỉ điều gì? Phía sau đã nói ra rồi ‘nhất định phải tìm thấy tòa thành cổ Tây Hạ đã biến mất’!”

“Hạn Hải Mật Thành?”, Đường Phong ngạc nhiên nói.

“Không sai, chính trong quá trình tìm kiếm kệ tranh ngọc, rất có khả năng Hắc Lạt ma đã vô tình phát hiện ra những thạch điện trong chùa Hắc Thứu trên núi.”

“Vậy kệ tranh ngọc trên núi Hạ Lan ở đâu?”

“Đây cũng là câu hỏi mà tôi quan tâm nhất, nhưng xem ra ở đây không thể có kệ tranh ngọc đâu.”

“Lão Mã, cháu bỗng nghĩ tới người bị kẹp chết dưới cánh cổng bằng đồng bọc vàng, có khi nào là Hắc Lạt ma không nhỉ?”, Đường Phong đột nhiên nói.

“Hắc Lạt ma bị kẹp chết...”, Makarov lẩm bẩm, giống như chìm trong suy tư. Mãi lâu sau Makarov mới nói,

“Hài cốt đó có phải là của Hắc Lạt ma hay không, cũng chưa biết được, nhưng nhìn lại sự việc từ khi chúng ta tiến vào trong huyền cung trong ngọn núi này, thì chỉ trông thấy bộ hài cốt đó, tôi cho rằng rất có khả năng đó chính là Hắc Lạt ma!”

“Hắc Lạt ma chết thảm thật đấy! Xem ra đám người đó giết ông ta không chỉ vì bất mãn với ông ấy, mà cũng là vì mục đích muốn tìm ra Hạn Hải Mật Thành.”

“Hoặc cỏ thể nói rằng, sự bất mãn của họ với Hắc Lạt ma bắt nguồn từ bí mật phía sau kệ tranh ngọc!”, Makarov bình tĩnh nói.

“Những người này đã có nhiều báu vật như vậy rồi mà vẫn chưa thỏa mãn sao?”

“Đường Phong, nghi vấn lớn nhất trong đoạn lời thề này không chỉ có vậy thôi đâu!”, Makarov nhắc nhở Đường Phong.

“, vân còn gì vậy? “Là 9 chữ bị cố ý xóa đi!”, Makarov nói như đinh đóng cột.

“Cháu cũng để ý thấy, 9 chữ đó không phải tự nhiên biến mất mà là do ai đó cố ý xóa đi, chỉ có hai chữ ‘Mã Viễn’ là không bị xóa thôi.”

“Theo thói quen của người Trung Quốc các cậu, thì 9 chữ Hán chắc là họ tên của từ ba đến bốn người nào đó, cộng thêm cả ‘Mã Viễn’ này nữa, là khoảng bốn hoặc năm người, họ đã giết chết Hắc Lạt ma rồi lập nên lời thề này. Nhưng sau đó không hiểu vì nguyên nhân gì mà họ lại xóa tên của mấy người đó đi.”

“Bốn đến năm người?! Mấy người này đã theo Hắc Lạt ma trốn được truy sát, chạy thẳng tới đây, sau đó lại vì nguyên nhân nào đó mà bốn, năm người này giết chết Hắc Lạt ma. Sau khi những người này giết chết Hắc Lạt ma thì cũng không hưởng thụ kho báu ở đây, mà lại lao đi tìm kệ tranh ngọc còn lại, nhưng cuối cùng cũng không ai quay trở về đây. Lẽ nào họ cũng đều chết hết cả rồi sao?”, Đường Phong suy đoán toàn bộ quá trình đã từng xảy ra ở đây.

“ít nhất là họ cũng đã để lại dấu vết ở Thất sắc cẩm Hải!”, Makarov nhắc nhở.

“Đúng! Đại Lạt ma kể rằng, năm đó bỗng xuất hiện bốn vị khách từ phương xa tới, bọn họ có đúng bốn người!”, Đường Phong ngạc nhiên nói, nhưng ngay lập tức anh đã tự phủ định điều đó, “Nhưng cháu còn nhớ là Đại Lạt ma nói rất rõ rằng, dẫn đầu đoàn khách phương xa đó là một người đàn ông trung niên khoảng bốn năm chục tuổi, ba người còn lại thì một người trông khoảng hơn 30 tuổi, hai người còn lại rất trẻ, xem chừng chỉ ngoài 20 tuổi thôi.

Nếu như lời thề trên đá được khắc sau trận chiến ở núi Mã Tung không lâu, thì cũng là cuối những năm 20 của thế kỷ trước, muộn nhất cũng phải đầu những năm 30, còn bốn người khách phương xa đột nhập tới Thất sắc cẩm Hải là cuối những năm 40. Từ đó tính ra thì chắc chắn hai người trẻ tuổi không thể là những người tham gia vào lời thề, cái người khoảng ngoài 30 tuổi cũng chưa chắc tham gia lời thề đó.”

Makarov nghiền ngẫm rất lâu cũng không hiểu ra được vấn đề này. “Hỏng rồi! Chúng ta chỉ chăm chăm tìm kho báu trong này, Hàn Giang vẫn ở ngoài đó kìa!”, Đường Phong bỗng kêu lên.

Hai người lúc này mới nhớ tới Hàn Giang ở ngoài không biết đã ra sao rồi, chẳng ai ngờ phía sau đầm thủy ngân lại có một không gian rộng lớn và những phát hiện đáng kinh ngạc như vậy.

4

Đường Phong và Makarov không lấy đi bất cứ báu vật nào, mà liền vội vàng quay về theo đường cũ. Hình như mọi việc đều rất bình thường, nên chẳng mấy chốc hai người đã quay lại trung điện. Đường Phong bước nhanh xuống bậc thang, anh tưởng rằng Hàn Giang vẫn đứne ở bờ bên kia đầm thủy ngân chờ đợi họ. Nhưng khi họ tới cạnh đầm thủy ngân thì lại không thấy bóng dáng Hàn Giang đâu cả, và điều càng khiến anh ngạc nhiên là tấm ván gồ trên đầm thủy ngân cũng không cánh mà bay.

“Trời ơi! Hàn Giang... đang lâm trận bỗng tháo chạy là sao?”

“Chắc chắn Hàn Giang gặp phải sự cố nào đó rồi!”, Makarov lập tức phán đoán.

“Trời ơi! Không phải Hàn Giang rơi xuống cái đầm thủy ngân đó rồi chứ!”, Đường Phong lập tức nghĩ tới tình huống xấu nhất.

Đường Phong đứng sát mép đầm thủy ngân, nhìn xuống đáy đầm, chắng có gì khác thường cả!

“Gã bí ẩn đó..miệng Makarov lẩm bẩm.

“Gã bí ẩn?”, Đường Phong cũng kêu lên.

“Với bản lĩnh của Hàn Giang, thì người bình thường không hạ được cậu ấy đâu, trừ khi cậu ấy bị đánh lén!”, Makarov suy đoán.

“Được rồi! Đừng quan tâm tới Hàn Giang nữa, anh ta mạng lớn không

chết được đâu! Bây giờ phải mau nghĩ quay về bằng cách nào đây!”, Đường Phong xem chúng ta quay về bằng cách nào đây!”, Đường Phong khó chịu bực dọc.

Đường Phong và Makarov nhất thời đều cuống cả lên. Nhưng Makarov chẳng mấy chốc đã trấn tĩnh lại: “Đường Phong, cậu nghĩ xem, ban đầu khi Tây Hạ xây dựng chỗ này chắc chắn không thể kê cái tấm gỗ qua đầm thủy ngân được.”

“Đúng vậy! Có lẽ trước đây trên này từng có cây cầu, sau này bị Lượng Tộ hạ lệnh phá hủy! Không phải ông ta không muốn có người vào được trong này sao?”, Đường Phong đoán mò.

“Bị Lượng Tộ phá hủy? Trừ khi là cầu gỗ, nhưng tôi thấy bên đầm thủy ngân vốn chẳng có dấu vết gì của cái cầu nào cả!”, sau khi kiểm tra Makarov nói.

“Vậy thì là cầu đá!”, Đường Phong nói mò.

“Cầu đá?”, trong đầu Makarov nhảy ra một loạt hình ảnh, ông bỗng nghĩ tới điều gì đó, nên vội vàng mò mẫm vách đá trên bờ phía bắc đầm thủy ngân.

“Lão Mã, bác đang làm gì vậy? Bác cho rằng ở đây vẫn còn có hệ thống ngầm nào sao?”, Đường Phong hỏi lại.

“Tại sao lại không thể chứ?”, xem ra Makarov rất tự tin.

Vách đá phía bờ bắc đầm thủy ngân do những tảng đá hình lục giác không bằng nhau xếp thành, Makarov thử từng tảng một, đột nhiên, một tảng đá trong số đã bị ấn xuống.

Đường Phong cũng ngạc nhiên, anh phát hiện ra tảng đá bị Makarov ấn xuống có vẻ cân đối hơn những tảng đá hình lục giác khác. Khi Makarov ấn tảng đá xuống tận cùng thì thủy ngân trong đầm cũng biến đổi.

Một cơn sóng không lớn lắm dâng lên, sáu bệ đá hình lục giác từ dưới đầm thủy ngân từ từ nhô lên, vừa vặn tạo thành một cái cầu đá giữa đầm thủy ngân.

Đường Phong bước tới cạnh đầm, trông thấy những bệ đá hình lục giác xếp thành hình hoa sen, đúng như tên gọi “bước bước liên hoa”, đây là ngụ ý cát tường trong Phật giáo. Đường Phong không bận tâm nhiều nữa, anh là người đầu tiên bước lên bệ đá thứ nhất, ngay sau đó là bậc thứ hai, thứ ba... Khi đôi chân đã đặt lên bờ phía nam đầm thủy ngân, thì rốt cuộc anh cũng thở phào nhẹ nhõm. Makarov cũng bước theo sau sang bờ phía nam.

Hai người không dám nghi ngờ, cũng không dám gọi tên Hàn Giang. Cả hai cùng lúc rút súng ra, gã bí ẩn đó có thể đang ở bên ngoài cánh cổng bằng đồng bọc vàng...

5

Đường Phong và Makarov đi qua lối đi rộng rãi, trong đó chất đống những tảng đá hình bầu dục, không khác gì so với lúc họ tới, hai sợi dây thừng trên cánh cổng bằng đồng bọc vàng cũng vẫn còn, tấm ván gồ bắc qua đầm thủy ngân đã được đặt về vị trí cũ. Đường Phong định đi qua cánh cổng, nhưng lại bị Makarov kéo lại. Makarov chỉ chỉ xuống dưới chân, Đường Phong phát hiện thấy bụi đất dưới chân xuất hiện những dấu giày hỗn loạn.

Đường Phong ngồi xổm xuống, kiểm tra những dấu giày hỗn loạn này, nhưng phát hiện ra chúng đều là của anh, Hàn Giang và Makarov để lại, không có vết giày của người thứ tư.

Makarov cũng rất nghi ngờ, hai người quay trở lại trung điện, ở đây chẳng có ai. Rốt cuộc Hàn Giang biến đi đâu nhỉ?! Đường Phong nhìn cánh cổng phía tây lúc họ mở ra khi tới đây, rồi lại nhìn cửa hang phía nam đã mở ra nhưng không phát hiện thấy có gì khác thường, anh lại nhìn tiếp cánh cổng phía đông vốn đóng im ỉm, giờ bỗng khép hờ...

“Cánh cổng phía đông bị mở ra kìa!”, Đường Phong khẽ kêu lên.

“vết giày của Hàn Giang cũng dẫn thẳng vào trong đó!”, Makarov phát hiện dấu giày của Hàn Giang cuối cùng đầ mất hút trước cánh cổng phía đông.

Hai người nhìn nhau, liền lên nòng súng theo phản xạ, nghiêng người tới cạnh cánh cổng phía đông. Họ không biết rốt cuộc Hàn Giang đã gặp phải chuyện gì, và sao lại bê việc túc trực để chui vào trong cánh cổng phía đông làm gì. Phía sau cánh cổng sơn vàng phía đông sẽ là gì đây? Theo kinh nghiệm từ bên ngoài cánh cổng phía tây thì chắc là một lối đi? Lối đi này dài thế nào mà Hàn Giang vào đó xong cũng không thấy quay lại?

Đường Phong lấy tay ra hiệu cho Makarov, ý là anh sẽ tới mở cổng, Makarov yểm hộ. Lão Mã gật gật đầu, Đường Phong lấy tay phải từ từ đẩy cửa ra. “Cót két” một tiếng, cánh cổng sơn vàng phía đông của tiền điện đã được mở raỄ Bên ngoài quả nhiên là một lối đi tối om om sâu hun hút, và không cỏ ai cầm súng chĩa vào mình, lúc này Đường Phong mới khẽ thở phào.

Đường Phong lách người, bước vào lối đi bên ngoài cánh cổng, Makarov cũng vào theo. Đường Phong bật đèn pin, soi vào lối đi, ở đây không khác gì so với lối đi lúc họ đến, vách đá đã được con người mài giũa nhưng không phẳng phiu cho lắm. Anh tiến lên phía trước vài bước, thì phát hiện ra đường đi dưới chân hình như đang cao dần lên. Họ đi thêm vài bước nữa, phía trước xuất hiện một ngã rẽ, rẽ vào đó, Đường Phong dùng đèn pin soi, độ dốc bỗng tăng chót vót.

Đường Phong cẩn thận, nghi ngờ, đang định bước chân lên phía trước, thì đột nhiên chân anh bị một vật gì đó vướng phải. Anh giật mình, theo phản xạ anh nhắm thẳng súng xuống dưới chân, nhưng đúng lúc này, anh phát hiện ra phía dưới cũng có một nòng súng đang chĩa về mình.

“Ai?!, Đường Phong giật băn mình, lùi ngay lại phía sau, áp người vào vách đá, đèn pin trên tay cũng rơi xuống đất.

‘Đừng hoảng loạn thế!”, là giọng Hàn Giang.

Đường Phong vội vàng nhặt đèn pin lên, soi về mặt người đối diện, thì thấy Hàn Giang uể oải rã rời ngồi bệt xuống vách đá. Lúc này, Hàn Giang đã buông súng trên tay xuống.

“Sao anh lại chạy vào đây ngủ vậy? Bỏ canh gác hại chúng tôi xém chút nữa là không quay về được!”, Đường Phong oán thán.

“Đường Phong, hình như Hàn Giang bị thương rồi!”, Makarov đã nhìn ra sự yếu ớt của Hàn Giang.

“Sao anh lại chạy tới đây vậy?”, Đường Phong cũng nhận ra hình như Hàn Giang có vấn đề, họ nói mấy câu rồi mà Hàn Giang chẳng ho he gì cả.

Đường Phong đỡ Hàn Giang dậy. Hàn Giang ra sức lắc lắc đầu, phía sau gáy vô cùng đau đớn: “Tôi thấy cậu... cậu mãi chưa quay lại, nên liền mò mẫm... hệ thống ngầm của đầm thủy... thủy ngân. Đúng lúc đó, tôi nghe... nghe thấy một tiếng súng nổ, tôi nhận ra… nhận ra tiếng súng này vọng ra từ trong lối đi, vậy... vậy là tôi đã đi theo. Vừa mới tới đây, tôi... tôi cảm thấy sau gáy mình đau buốt, trước mắt tối sầm lại, thì... thì chẳng còn biết gì nữa cả, bầy giờ ở đây vẫn đau...”

Nghe xong đoạn tường thuật đứt quãng của Hàn Giang, Đường Phong cười nói: “Đừng giả vờ nữa, với cơ thể của anh, thì kể cả bị người ta tấn công trộm mười lần, cũng không đến nỗi như vậy đâu! Mau đứng dậy nào!”

“Không! Lần... lần này không giống, tôi cũng đã từng bị người ta tấn công trộm, nhưng chưa... chưa bao giờ lại nghiêm trọng như lần này!”, Hàn Giang cố hồi tưởng lại giây phút gặp nạn đó.

“Anh bị đập cho bại não rồi à! Lần này thì có làm sao?”, Đường Phong không tin, tưởng rằng Hàn Giang vẫn đang giả vờ.

Makarov kiểm tra vết thương của Hàn Giang, phía sau gáy xuất hiện một vết tụ máu lớn. “Lần này quả thực rất nghiêm trọng đấy, cái gã tấn công trộm Hàn Giang ra tay rất hiểm, vừa chuẩn vừa ác!”, Makarov dựa vào bao năm kinh nghiệm để phán đoán.

“Anh có trông rõ người đó không?”, Đường Phong hỏi.

“Nhanh như vậy, tôi... tôi còn không kịp phản ứng!”, Hàn Giang nói.

“Như vậy cũng có nghĩa là anh không biết cái gã đó đi đâu mất phải không?”, Đường Phong thất vọng nói.

“Kẻ tấn công trộm Hàn Giang chắc chính là cái gã bí ẩn đó!”, Makarov đột nhiên nói.

“Gã bí ẩn? Sao bác có thể khẳng định vậy?”, Đường Phong không hiểu.

Makarov bước lên phía trước vài bước, đứng cạnh vách đá, chỉ vào kí hiệu hình tam giác bắt mắt trên vách đá, nói: “Nhìn xem! Kí hiệu đó lại xuất hiện rồi!”

“Quả nhiên là gã ta!”, Đường Phong cũng nhận ra kí hiệu trên vách đá giống hệt như kí hiệu mà họ từng nhìn thấy trong rừng. Tuy là trên vách đá rắn chắc, nhưng kí hiệu hình tam giác này vẫn được chia thành ba nét, được dùng sức khắc sâu lên vách đá, đến nỗi những vụn đá vẫn còn lưu lại trên đường viền của kí hiệu tam giác.

6

Ba người dùng manh mối đã có phân tích một hồi, nhớ rằng gã bí ẩn đó đã đi theo lối đi này tiến lên phía trrớc. Vậy là, Đường Phong và Makarov đỡ Hàn Giang vẫn chưa hồi sức dậy, ba người bắt đầu khó nhọc tiến về phía trước.

“Tiếng súng? Anh nghe thấy mấy tiếng súng vậy?”, Dường Phong hỏi Hàn Giang.

“ít nhất cũng phải ba phát, cũng có thể là bốn năm phát! Có mấy phát súng bắn liền nhau nên không rõ nữa!”, Hàn Giang cố gắng hồi tưởng lại.

“Là khẩu liên thanh hay là nhiều khẩu khác bắn nhau?”, Makarov nhanh nhạy hỏi.

Hàn Giang hơi ngớ người ra, anh ngẫm nghĩ, nói: "Hình như không chỉ có một khẩu! Nhưng tôi cũng không đám khẳng định.

“Lẽ nào ngoài gã bí ẩn đó ra còn có người khác?”, Đường Phong vừa nói vừa bất giác lần sờ khẩu súng của mình.

Cả ba người lại im lặng, bởi vì Hàn Giang yếu quá nên ba người đi rất chậm. Đường Phong phát hiện địa hình cùa lối đi này cứ cao dần lên, hơn nữa còn không ngừng quanh co. Anh chú ý kiểm tra vách đá xung quanh, một mặt kiểm tra kí hiệu mà gã bí ẩn đó để lại, một mặt lo lắng sẽ xuất hiện ngã rẽ và cửa hang mới. Anh không muốn lại lạc đường trong lối đi tối đen sâu hun hút này.

Đường Phong âm thầm ghi nhớ cự ly mà họ đã đi, cách chỗ Hàn Giang xảy ra chuyện hơn trăm bước chân, lối đi xem ra vẫn trải dài về phía trước. Cách hơn chục bước, Đường Phong lại nhìn thấy ký hiệu hình tam giác hiện rõ trên vách đá, điều này cũng cho thấy gã bí ẩn đó cũng đi qua đường này, cũng cho thấy nguy hiểm đang càng lúc càng gần họ hơn.

Khi Đường Phong phát hiện ra ký hiệu tam giác thứ 8 trên vách đá thì anh bỗng trông thấy dưới chân có một vũng máu: “Hai người nhìn xem, ở đây có máu!”

Makarov nhìn vũng máu: “Là máu người, xem ra vừa mới chảy ra đây thôi!”

Đường Phong lại phát hiện ra vỏ đạn trên mặt đất, anh tìm thấy hai cái, Makarov cũng tìm thấy hai cái. Đường Phong và Makarov hội ý một hồi liền lần ra manh mối: “Đây là hai vỏ đạn bắn ra từ hai khẩu súng khác nhau!”

“Như vậy có nghĩa là có ít nhất hai người đã bắn nhau?”, Đường Phong hỏi lại.

“Gần như là thế!”, Makarov đáp.

Hàn Giang và Makarov dùng đèn pin soi khắp vách đá xung quanh, nhưng chỉ có vũng máu đó mà thôi. “Vỏ đạn của hai khẩu súng, nhưng chỉ có vết máu của một người để lại, xem ra người kia chẳng hề hấn gì cả!”, Hàn Giang phán đoán.

Đi tiếp về phía trước, vết những giọt máu tong tỏng không ngừng xuất hiện, còn kí hiệu hình tam giác trên vách

đá đã biến mất. Đường Phong không khỏi nghi ngờ: “Lẽ nào gã bí ẩn đó đã bị tấn công?”

“Xem ra vẫn chưa nguy hiểm đến tính mạng, người nầy vẫn đi được về phía trước!”, Hàn Giang phán đoán.

“Rốt cuộc là thế nào đây? Ngoài gã bí ẩn đó ra, còn có ai? Nhìn thế này thì người bị thương cũng khá nặng đấy, vậy tại sao vẫn phải sống chết đi tiếp..

Đường Phong đang nói thì Hàn Giang bỗng bịt miệng anh lại. Lúc này anh mới phát hiện ra hình như đã đến cuối lối đi, phía trước xuất hiện một cửa hang, bên ngoài cửa hang là gì vậy? Anh vẫn chưa nhìn rõ thì Hàn Giang đã tắt đèn pin của anh đi.

7

Ba người dựa vào cảm giác, mò mẫm trong lối đi. Ở đây không có lấy một tia sáng, vẫn là một không gian tối đen. Đường Phong còn không cảm nhận được ở đây rộng chừng nào, anh muốn bật đèn pin lên, nhưng trên tay anh là cánh tay vạm vỡ của Hàn Giang ghì chặt. Anh nghe thấy hai âm thanh trong bóng tối, đó là tiếng Hàn Giang và Makarov lên nòng súng. Tay Hàn Giang từ từ rời khỏi chiếc đèn pin trong tay Đường Phong.

Đường Phong hiểu ngay ý, cũng lên nòng súng, một tay cầm súng, một tay đặt lên công tắc đèn pin. Sau một hồi im lặng, Hàn Giang và Makarov gần như cùng lúc bật đèn pin lên, cũng gần như cùng lúc rọi đèn pin thẳng vào mé trái trước mặt.

Đường Phong cũng vội vàng bật công tắc đèn pin, soi về hướng đó, chùm ánh sáng từ ba chiếc đèn pin chụm lại chọc thủng không gian tối đen. Đường Phong phát hiện ra đây là một gian thạch thất không rộng lắm, và mé trái trước mặt họ có một người đang nằm úp mặt xuống đất.

“Stephen!”, Đường Phong, Hàn Giang và Makarov gần như cùng lúc nhận ngay ra người nằm trên mặt đất đó.

Ba người cẩn thận bước tới tnrớc mặt Stephen, sắc mặt Stephen trắng bệch, trên cánh tay trái có một vết đạn, máu tươi từ đó đang tuôn ra đỏ au. “Hình như hắn ta rất yếu!”, Makarov nói.

“Xem ra máu trên đường đi đều là của Stephen rồi!”, Hàn Giang nghĩ ngay tới Fanny chết thảm dưới ngọn núi gần nhà trọ.

Makarov lấy từ trong ba lô ra ít thuốc đưa cho Stephen rắc lên vết thương, rồi xé một đoạn băng gạc băng bó vết thương cho hắn. Ba người vừa đợi Stephen tỉnh táo lại, vừa quan sát thạch điện nơi họ đang đứng.

Đường Phong thầm phán đoán phương hướng, lối mà họ đang đi vào ở hướng tây. Anh ngạc nhiên bởi phát hiện ra: ở phía đông thạch điện giống hệt như lối đi thông tới hậu điện, trên vách đá xuất hiện một cái cổng vòm; chỉ có điều lối đi này hình như bị cả một tảng đá khổng lồ bịt kín, không hề trông thấy vết tích nào cho thấy nó đã được mở ra.

Đường Phong đưa hai tay ra, dốc hết sức đẩy mạnh cổng vòm, không có động tĩnh gì cả. Anh nghĩ, cánh cổng không hề nhúc nhích vậy thì chắc chắn sẽ phải có hệ thống điều khiển ngầm, thế là anh liền tìm kiếm khắp xung quanh cánh cổng. Tìm mãi tìm mãi, Đường Phong mới phát hiện thấy trên đố cửa có mấy chữ, nên liền gọi mọi người: “Mọi

người xem, ở đây có chữ, là chữ Tây Hạ!”

Hàn Giang và Makrov cũng nhìn ra cánh cổng vòm này: “Viết gì vậy?”, Hàn Giang hỏi.

“Giới - Đàn - Thượng - Tự - Tàng - Kinh - Lầu?”, Đường Phong chầm chậm dịch những chữ Tây Hạ trên đố cửa ra. Anh nghi ngờ mình dịch sai nên cẩn thận nhìn lại lần nữa, quả thực là mấy chữ này.

“Tàng Kinh Lầu?”, Đường Phong là người đầu tiên thể hiện mình không hiểu gì cả, “Sao trong này lại xây dựng Tàng Kinh Lầu? Thật không thể tin được!”

Hàn Giang và Makarov cũng không hiểu, “Mặc kệ nó, mở cánh cổng này ra cái đã thì không phải sẽ biết tất sao!”,

Hàn Giang nói.

Vậy là, ba người dốc sức, cố gắng đẩy cánh cổng vòm này, nhưng cánh cổng đá không hề nhúc nhích, y nguyên một chỗ.

“Các... các người đừng phí công nữa! Cái... cổng này không đẩy ra được đâu!”, lúc này phía sau lưng họ bỗng vang lên giọng nói của Stephen.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện