Hàn Giang chưa từng biết tới tay nghề mở khóa của Đường Phong, anh muốn thử xem rốt cuộc Đường Phong sẽ mở cái khóa của Tây Hạ này thế nào. Và cảnh tượng khiến Hàn Giang lác mắt đã xuất hiện. Đường Phong rút khẩu súng ngắn 92 của anh ra, nhắm vào chiếc khóa trên cánh cửa rồi bắn một phát, một tia lửa lóe lên, khóa cửa được mở.
1
Cũng không biết qua bao lâu sau, nước trong hang đãtừ từ rút đi, và nước đọng lại vẫn chưa tới đầu gối ba người. Đường Phong bị nước cuốn đi xa nhất, nên lúc này, thấy nước đã rút, anh liền nắm lấy sợi dây thừng trên lưng, từng bước từng bước một tiến lại gần Hàn Giang và Makarov.
Đường Phong bước tới cạnh Hàn Giang và Makarov, thấy lão Mã không có vấn đề gì, chỉ là mặt mũi khá phờ phạc, vì dù sao thì ông cũng có tuổi rồi.
“Lão Mã, bác phải gắng lên đấy!”, Đường Phong đưa cho lão Mã uống hai viên thuốc cho tỉnh táo.
“Yên tâm, tôi chưa chết được đậu!”, Makarov xua xua tay.
Hàn Giang dùng đèn pin soi phía trước hồi lâu, rồi nói: “Cuối cùng vách đá cũng chịu mở ra rồi, chúng ta phải mau chóng tiến lên phía trước, ít nhất cũng là để tìm chỗ nào ấm áp. Tôi không muốn mặc quần áo ướt chờ chết ở đây đâu.”
“Ai nói chúng ta sắp chết?”, Đường Phong bực mình gào lên.
“Đừng lải nhải nữa! Ban nãy tôi trông thấy phía sau vách đá thấp thoáng hiện lên vài bức tượng đấy!”, Hàn Giang nói.
“Tôi thấy rồi!”
“Đó là cái gì nhỉ?”
“Ai mà biết được!”
“Có phải là ‘Thượng tự’ không nhỉ?”
“Thượng tự? Không phải anh cho rằng mặt phẳng đá bên ngoài chính là di chỉ thượng tự sao?”
“Nhưng ở đó chẳng có gì cả, còn trong này lại..
“Biết đâu là phát hiện mới.”
Nói xong, ba người lội trong dòng nước đục ngầu, từng bước từng bước tới trước vách đá. Makarov sờ lên vách đá, không khỏi thốt lên: “Cần bao nhiêu năng lượng mới có thể nhấc được vách đá này lên nhỉ!”.
“Trong tình huống không dựa vào sức người, thì trong thế giới tự nhiên cũng chỉ có hồng thủy mới chứa đựng được năng lượng lớn như vậy”, Đường Phong nói.
“Đây lẽ nào cũng là kiệt tác của người Đảng Hạng? Giờ thì tôi càng lúc càng không hiểu, di chỉ Hạ tự, Phật tháp đều có thể hiểu được, nhưng đại Phật ở đây, thậm chí cả mê cung khổng lồ trong này là để làm gì? Tại sao người Đảng Hạng lại phải kiến tạo những thứ này?”, Hàn Giang thắc mắc.
“Có thể tất cả những thứ này vốn dĩ đã có từ trước rồi thì sao?”, Đường Phong đưa ra ý kiến.
“Ý cậu là sao? Thế nào gọi là vốn dĩ đã có từ trước?”
“Lịch sử nhân loại chính là quá trình nhận thức tự nhiên, cải tạo tự nhiên, nhưng sau khi nhận thức tự nhiên xong, nhân loại thường dùng nhiều cách khác nhau để cải lạo tự nhiên. Có người cải tạo trời đất, tái tạo núi non sông núi, có người lại tận dụng tự nhiên để đạt được mục đích cải tạo nó.”
“Ý cậu là trong núi này vốn đã có mê cung phức tạp như vậy, sau này mới được người Đảng Hạng cải tạo?”
Đường Phong không trả lời câu hỏi của Hàn Giang, bởi anh đã chui qua vách đá đầu tiên, và sửng sốt khi trông thấy cảnh tượng trước mắt. Anh cảm nhận được sự biến đổi dưới chân mình, địa hình phía sau vách đá cao dần lên, cùng với địa hình mỗi lúc một cao, mực nước dưới chân cũng thấp dần đi, cho tới khi anh sững sờ bởi cảnh tượng trước mắt, mà không thể nhấc chân được nữa, thì mực nước phía dưới cũng chỉ còn tới mắt cá chân.
2
Đường Phong, Hàn Giang, Makarov, ba người chụm đèn pin lại với nhau cũng không thể soi sáng huyền cung khổng lồ trong núi này. Thứ đầu tiên mà họ nhìn thấy là cây cầu trước mặt. Đường Phong nhìn không rõ cây cầu là do những tảng đá xếp thành hay là làm bằng gỗ hoặc là do tự nhiên hình thành!
Đầu cầu, phía đối diện họ có hai pho tượng võ sỹ to lớn sừng sững hai bên. Đường Phong cẩn thận quan sát hai pho tượng võ sỹ này, giống hệt như tượng võ sỹ của Phật tháp trên Hạ tự, chỉ có điều thể hình của tượng võ sỹ ở đây to hơn.
Đường Phong ngồi xuống quan sát mặt cầu. Anh kinh ngạc phát hiện ra mặt cầu không phải làm bằng gỗ, cũng không phải bằng đá hoặc gạch, hay đá đen xây thành. Vì ngoài hai pho tượng sừng sững ở đầu cầu ra, thì gần như không thấy bất cứ dấu vết nhân tạo nào trên cây cầu này. Đường Phong thầm giật mình, lẽ nào cây cầu này đúng là do tự nhiên tạo thành?
Cây cầu đá tự nhiên nhô ra bắc ngang qua khe núi tối đen, xung quanh vẫn là một vùng đen kịt. Đường Phong không nhìn rõ không gian xung quanh, vì ánh sáng đèn pin soi chiếu ra xa hơn chục mét, nhưng vẫn chỉ dừng lại trên mặt cầu.
“Cây cầu đá này dài bao mét? Bên kia cầu là chỗ nào nhỉ?”, giọng Đường Phong có chút run rẩy.
“Điều mà tôi quan tâm hơn là: phía dưới cầu là cái gì, Hàn Giang hỏi.
“Phía dưới cầu? Chắc là sông!”, Đường Phong đoán mò.
“Không nghe thấy tiếng nước chảy mà!”
Trong lúc nói chuyện, ba người đã đi lên cầu. Đường Phong phát hiện hai bên cầu không có lan can, đúng là một chiếc cầu đá tự nhiên. Ba người cẩn thận tiến lên phía trước. Đi được hơn hai chục bước, Đường Phong bỗng phát hiện thấy mặt cầu càng lúc càng nhỏ hẹp. Anh dừng lại, cần thận quan sát. Dưới ánh sáng đèn pin, anh vẫn không trông thấy điểm cuối của cây cầu, còn mặt cầu nơi anh đang đứng rộng chưa tới hai mét, hơn nữa mặt cầu trước mặt vẫn tiếp tục thu hẹp.
“Có khi nào cây cầu này đi mãi đi mãi xong tự nhiên cụt lủn không vậy?”, giọng Đường Phong vọng lại oang nang trong bóng tối mềnh mông.
Hàn Giang lấy đèn pin soi về mặt cầu trước mặt, nói:
Tiếp tục thăm dò phía trước xem sao!”, giọng Hàn Giang cũng không có chút bảo đảm nào.
Ba người lại tiếp tục tiến lên phía trước hơn hai chụ bước, mặt cầu đã hẹp lại còn khoảng một mét. Đường Phong lấy đèn pin soi xuống dưới cầu, không có tiếng nước, không có ánh sáng, và ngoài bóng tối, anh chẳng nhìn thấy gì cả. “Dưới này lẽ nào đúng là sâu không thấy đáy?”, giọng Đường Phong run rẩy.
“Cẩn thận phía trước...”, Hàn Giang dùng đèn pin soi xung quanh. Ánh sáng từ đèn pin phát ra chọc thủng màn đêm dày đặc, rồi bị bóng tối thăm thẳm nuốt chửng Thế nhưng khi anh soi đèn men theo mặt cầu thì bỗng kinh ngạc phát hiện ra chỗ xa nhất, mà đèn pin có thể chiếu tới, mặt cầu ở đó hẹp tới nỗi chỉ một người có thể qua được.
Đường Phong và Makarov cũng trông thấy đoạn mặt cầu hẹp tới mức dị thường trước mắt, họ đều muốn nhìn rõ phía sau mặt cầu nhỏ hẹp này sẽ như thế nào, nhưng ánh sáng của đèn pin lại chỉ soi được đến đấy. “Nếu mặt cầu phía sau còn hẹp hơn hoặc cụt lủn thì không đáng để chúng ta đi tiếp!”, Đường Phong nói.
“Không đáng? Không đi tiếp thì lẽ nào cậu định quay lại?”, Hàn Giang hỏi lại.
“Bất luận thế nào, tiếp tục tiến lên phía trước hai chục bước, thì ít nhất cũng có thể nhìn rõ tình hình phía sau đoạn mặt cầu nhỏ hẹp này”, Makarov nói.
“Tôi chỉ sợ sau mười bước chúng ta sẽ nhìn thấy mặt cầu còn hẹp hơn!”, Đường Phong ưu tư não nề nói.
“Cậu nhát gan thì đi đằng sau, để tôi đi trước cho!”,
Hàn Giang ca thán.
“Anh bảo tôi đi sau là tôi sẽ đi sau, bảo tôi đi trước thì tôi sẽ đi trước sao? Quá là mất mặt! Không phải chỉ có hai chục bước chân thôi sao? Anh xem tôi có dám đi qua không nhé!”
Đường Phong bị Hàn Giang kích thì bỗng muốn đấu trí, một bước, hai bước, ba bước... mãi cho tới bước mười bảy, anh bỗng dừng lại.
“Sao cậu không đi tiếp đi?”, Hàn Giang phía sau hỏi.
“Anh đi trước đi!”, giọng Đường Phong có vấn đề.
“Tôi đã bảo cậu không ổn rồi, để tôi đi trước cho!”,
Hàn Giang bước tới sau lưng Đường Phong, rồi dừng lại chỗ cách Đường Phong hai bước chân, thì thấy bạn mình vẫn đứng im, chặn phía trước nên liền thúc giục: “Cậu đi đi chứ!”
“Anh... nhìn phía trước!”, Đường Phong vừa nói vừa khẽ nghiêng người sang một bên.
Hàn Giang phát hiện ra, trước mặt Đường Phong, mặt cầu hẹp tới nỗi chỉ có thể ột người đi qua, nhưng điều đáng sợ hơn là không ai biết phía dưới cầu là gì, vì ngoài mặt cầu ra thì những không gian khác đều là bóng tối.
“Vậy cậu vòng qua đây để tôi đi đầu cho!”, Hàn Giang ra lệnh.
“Tôi... tôi không quay lại được nữa rồi...”, Đường Phong muốn lùi lại nhưng không nhấc được chân.
3
Chân Đường Phong không ngừng run rẩy, anh không xoay người lại được. Anh nghiêng người, đành phải bước một bước ngắn lên phía trước, gần như đã cận kề với nơi hẹp nhất trên cầu đá. Anh muốn quay lại, nhìn xem mặt cầu phía trước, nhưng vẫn không nhúc nhích được. Tim Đường Phong đập loạn xạ, anh bất giác lấy đèn pin soi xuống dưới chân. Kết quả, chưa kịp đợi anh nhìn rõ thứ gì thì chiếc đèn pin đã rơi xuống dưới. Anh giật mình, suýt chút nữa là mất thăng bằng, rơi xuống vực sâu thăm thẳm tối đen.
Đường Phong cố giữ bình tĩnh, nhưng mãi lâu sau anh cũng không nghe thấy tiếng đèn pin rơi xuống vực vọng lại, nên tim anh cũng rớt xuống vực thẳm theo nó.
Hàn Giang và Makarov thấy phía Đường Phong bỗng tối thui thì đều giật mình, hai người vội vàng dùng đèn pin soi tìm Đường Phong, phát hiện thấy anh vẫn đứng đó mới yên tâm trở lại. “Cậu sao thế? Đừng có dọa chúng tôi chứ?”, Hàn Giang hét lên.
“Dọa... dọa anh? Rốt cuộc là ai dọa... ai đây?”, giọng Đường Phong như sắp khóc.
“Cậu đứng im đừng có nhúc nhích!”, Hàn Giang nói xong cũng liền nghiêng người tiến lên phía trước hai bước, đi tới cạnh Đường Phong, giơ đèn pin lên soi về phía trước, “Hình như mặt cầu phía trước lại rộng ra rồi!”, Hàn Giang nói.
“Thật sao?”, Đường Phong không tin.
“Thật! Cậu bước hai bước nữa là qua đấy rồi!”, thực ra Hàn Giang cũng không dám chắc chắn mặt cầu rộng ra nhường nào.
Câu động viên của Hàn Giang quả nhiên có công hiệu, rốt cuộc Đường Phong đã lấy lại can đảm, nghiêng người tiến lên phía trước vài bước, mặt cầu dưới chân quả nhiên rộng hơn một chút.
Hàn Giang và Makarov cũng theo sau. Lúc này, không biết một cơn gió mát từ đâu bỗng thổi tới khiến Đường Phong tỉnh táo linh hoạt hơn, rồi rốt cuộc cũng khiến anh bình tĩnh trở lại sau sự hoảng hốt tột độ.
“Xem ra chúng ta đã đi qua đoạn hẹp nhất rồi, hơn nữa còn như kiểu đi xuống dốc, hình như chúng ta đã đi tới đầu cầu bên kia rồi!”, Makarov phấn khởi nói.
Hàn Giang lấy một chiếc đèn pin dự phòng từ trong ba lô ra đưa cho Đường Phọng và nói: “Rơi tiếp là hết rồi day nhé!”, sau đó, anh dẫn đầu, bước nhanh về phía trước. Chẳng bao lâu sau, lại có thêm hai bức tượng võ sỹ xuất hiện trước mặt ba người.
Hai bức tượng võ sỹ, một trái một phải đứng ở đầu cầu, giống hệt như tượng võ sỹ đầu cầu bên kia. Ba người lấy đèn pin soi một lượt phía trước, trước mặt xuất hiện ngổn ngang vài cửa hang. Đường Phong suy đoán: “Chúng ta nhất định phải chọn đúng phương hướng, dù gì thì chúng ta cũng mở được vách đá ra rồi, lại đi qua được Cầu, có thể đi tới đây, vậy thì chắc chắn sẽ có đường thông ra bên ngoài”.
“Biết đâu lại dẫn tới nơi mà chúng ta cần tới…”, Hàn Giang nói.
“Nhưng nên đi đường nào đây? Xem ra chẳng có đường nào là có dấu vết được con người tác động, giống như thiên nhiên hình thành vậy!”, Makarov nói.
“Sợ nhất là lại rơi vào một mê hồn trận...”, Hàn Giang nhớ lại lối đi chằng chịt giống mê cung trước đó mà vẫn hết hồn.
Trong lúc Hàn Giang và Makarov đang tính toán xem nên đi đường nào thì Đường Phong quay lại thẫn thờ nhìn bức tượng võ sỹ bên phải phía đầu cầu. Hàn Giang quay người nói: “Đường Phong, cậu nhìn cái gì thế? Chúng ta mau nghĩ cách rồi đi thôi!”
“Hai người xem này, bức tượng võ sỹ bên trái khác với ba bức tượng còn lại!”, Đường Phong đột nhiên nói.
Hàn Giang và Makarov đều giật mình, lẽ nào lại có ý gì đó giống như các bức tượng tại góc đông bắc Phật đường trong Hạ tự? Nhưng Hàn Giang chăm chú nhìn hai bức tượng võ sỹ hồi lâu mà vẫn chưa nhìn ra: “Chỗ nào không giống vậy?”
“Đúng thế! Không giống chỗ nào?”, Makarov cũng không nhìn ra.
“Bức tượng này không dễ nhìn ra điểm không giống như bức tượng tại góc đông bắc Phật đường trong Hạ tự, hai người có để ý đến đôi mắt của bức tượng này không?”, Đường Phong chỉ vào mắt trái của bức tượng.
“Lại là mắt à?”, giờ thì Hàn Giang cứ nhìn thấy mắt là thấy đau đầu.
Quả nhiên, Hàn Giang và Makarov phát hiện ra, đôi mắt của bức tượng bên phải mở trừng trừng, nhìn thẳng về phía trước. Còn đôi mắt của bức tượng võ sỹ bên trái rất kì lạ, tuy con ngươi vẫn ở giữa khoang mắt nhưng lại cho người ta cảm giác nó đang nhìn về bên trái.
“Thế này là thế nào? Mắt của bức tượng này rất kì lạ, nhưng nhìn gần thì con ngươi của nó rõ ràng ở giữa khoang mắt giống như bức tượng bên phải mà!”, Hàn Giang không hiểu.
“Đây chính là kỹ thuật cao siêu của những người thợ Tây Hạ, con ngươi cũng khắc giữa khoang mắt, nhưng chỉ tính toán một chút, khắc con ngươi dày mỏng khác nhau là đã cho người ta một cảm giác đặc biệt”, Đường Phong giải thích.
Hàn Giang lại chăm chú nhìn tượng võ sỹ thêm một lúc, quả nhiên, con ngươi của bức tượng bên trái dày mỏng không đều, tạo cho người ta cảm giác võ sỹ đang nhìn về phía bên trái. “Những người thợ năm đó tốn bao nhiêu là công sức để chạm khắc những bức tượng võ sỹ thành thế này chắc chắn là có mục đích cả?”, Hàn Giang suy đoán.
“Bởi vậy tôi mới để hai người chú ý tới sự khác biệt của bức tượng bên trái.”
“Cậu chắc chắn hai bức tượng bên đầu cầu bên kia không có vấn đề gì chứ?”
“Tôi đã xem kĩ rồi, chỉ có mắt của bức tượng bên trái này mới có điểm đặc biệt. Tôi nghĩ nó được làm như vậy chắc chắn là có hàm ý, nếu không để ý kĩ, hoặc không biết nội tình, thì sẽ không phát hiện ra được!”, Đường Phong nói.
“Vậy thì chúng ta nên đi về phía bên trái thôi!”, nói xong, Hàn Giang lấy đèn pin soi về phía trước, quả nhiên ở đó có một lối đi trải dài về phía trước.
4
Đường Phong, Hàn Giang và Makarov quyết định, đi theo lối đi mà pho tượng võ sỹ bên trái chỉ lối. Đường Phong dẫn đầu bước vào lối đi này. Lối đi đó cũng gần như giống hệt lối đi phức tạp như mê cung trước đấy, không trông thấy mấy vết tích do con người tác động, nhưng anh lại ngửi thấy rõ mùi vị mà cố nhân đã từng đi qua đây.
Hàn Giang và Makarov không thế có được khứu giác này của Đường Phong, hai người theo anh chui vào lối đi này, nhưng cả ba đều có một mối lo lắng giống nhau, không biết lối đi này sẽ dẫn họ tới đâu.
Mười phút sau, Đường Phong đã tìm lại được sự tự tin bị rơi xuống vực thẳm lúc đi qua cây cầu đá, vì một cánh cổng màu đỏ thẫm đã hiện lên trước mắt họ.
Ba người dừng lại tại chỗ cách cánh cổng khoảng hai chục bước chân. “Rốt cuộc không có mê cung!”, Hàn Giang thở phào nhẹ nhõm.
“May mà Đường Phong nhìn ra bí mật của bức tượng võ sỹ!”, Makarov cũng thốt lên.
“Hai người đừng vui mừng vội, bên trong cánh cổng vẫn chưa biết là cái gì đâu đấy!”, Đường Phong cố gắng hết sức giữ bình tĩnh, nhưng tim anh vẫn đập rộn ràng.
Đường Phong đi thẳng tới cánh cổng đó. “Cẩn thận vũ khí bí mật đấy!”, Hàn Giang phía sau nhắc nhở.
“Thôi đi! Không phải sợ, kể cả người xưa có để lại ám khí đi chăng nữa, thì bao nhiêu năm vậy cũng mất linh rồi!”, xem ra Đường Phong cũng có chút tự tin, “Tôi thấy anh đọc nhiều tiểu thuyết trộm mộ quá nên tin rằng trong – cổ mộ có cung tên bí ẩn sát thương phải không? Hơn nữa đây mà là cổ mộ ư? Đây vẫn chưa phải là cổ mộ đâu!”, Đường Phong nói xong thì cũng đã bước tới trước cánh cổng màu đỏ.
Hàn Giang và Makarov cẩn thận đi theo, Hàn Giang còn căng thẳng rút súng ra. Lúc này, Đường Phong lại thấy hứng thú: “Trông anh lo lắng kìa, chẳng phải chỉ là một cánh cổng thôi sao?”
“Đề phòng thì càng tốt chứ sao... hơn nữa không hiểu sao tôi cảm thấy cánh cổng này rất giống cổng địa cung bên trong lăng mộ?”, Hàn Giang nói.
Đường Phong lấy tay chạm lên cánh cổng, một lớp hụi dày khiến màu đỏ tươi vốn có của nó đã chuyển thành màu đỏ sậm. Anh vuốt lớp bụi đi, phát hiện ra bên ngoài cánh cổng này thực ra được phết một lớp chu sa, anh còn phát hiện ra rất nhiều vật màu vàng trên cánh cổng.
Đường Phong quan sát những vật màu vàng này dưới anh đèn pin, mắt anh mở to, kinh ngạc reo lên: “Cánh cổng này thật quý giá!”
“Đây là cái gì vậy?”
“Sơn vàng!”
“Gì cơ?”
“Đây là một cánh cổng sơn vàng. Thực sự tôi không thể tưởng tượng được hình dạng của cánh cửa này lúc nó mới được làm xong, trên lớp chu sa lại được phết thêm một lớp sơn vàng. Nếu không phải bao năm qua đi đã khiến lớp sơn vàng này bong tróc, thì trong lối đi tối tăm này cánh cổng trước mặt chúng ta sẽ là một cánh cổng hoành tráng đấy!”, Đường Phong thán phục.
“Hóa ra cảnh cổng này vốn lấp lánh ánh vàng?”, Hàn Giang không tin.
“ừm, là vậy đấy. Mọi người nghĩ mà xem, lúc đầu cánh cổng này sẽ huy hoàng đến nhường nào, thật quý giá!”
Makarov nghe vẫn chưa hiểu lắm: “Đường Phong, ý cậu đây là một cánh cổng bằng vàng?”
“Không phải là cổng bằng vàng, nhưng cũng gần như thế!”
“ô! Chúa ơi, bên trong cánh cổng này có gì nhỉ?”, Makarov ngạc nhiên nói.
“Không biết, nhưng năm đó ở đây chắc chắn là một nơi quan trọng của Tây Hạ!”, Đường Phong suy đoán.
“Đừng sốt sắng vào vội, phải kiểm tra cẩn thận đã, chắc chắn không có nguy hiểm hãy vào!”, Hàn Giang vẫn chưa quên vụ ám khí.
Ba người lùi lại vài bước, quan sát lại cánh cổng sơn vàng quý giá trước mặt. Đường Phong phát hiện ra hai bên cánh cổng là vách đá được xếp thành từ những tảng đá lớn, vách đá vốn chưa được mài mòn đến đây là kết thúc. Bên trong lẽ nào là huyền cung trong núi được xếp thành từ những tảng đá khổng lồ? Đường Phong không dám nghĩ tiếp nữa, nhưng có thể khẳng định rằng, bên trong chắc chắn là một vùng đất khác, và anh vô cùng nóng lòng muốn mở cánh cổng thần kì đó ra.
5
Hàn Giang kiểm tra lại một lượt, không thấy chỗ nào có ám khí, anh không khỏi thất vọng: “Một cánh cổng hoành tráng thế này mà không có ám khí, đúng thật là chẳng lợi hại gì cả!”
“Hình như anh rất muốn có chút ám khí thì phải nhỉ?”, Đường Phong cười, nói.
“Tôi khuyên cậu hãy cẩn thận chút đi, bên ngoài không có, bên trong càng phải cẩn thận!”, Hàn Giang dặn dò.
Đường Phong vốn không nghe Hàn Giang, anh nhoài tới bên khe cửa, nhìn vào bên trong, trong đó tối om, không thấy lấy một tia sáng. Trong lòng anh bỗng trào lên một nghi ngờ: “Hai người nói xem, nếu ngay từ đầu chúng ta đã đi sai đường vậy thì người hại chúng ta phải vào đây trước chúng ta một bước chứ nhỉ, nhưng tại sao trong này chẳng có động tĩnh gì cả?”
“Biết đâu bên trong không phải là nơi mà gã bí ẩn đó muốn tìm!”, Hàn Giang đoán mò.
“Ý anh là chúng ta cứ đánh bừa gặp bừa rồi vô tình đi tới huyền cung trong núi này?”
“Tôi không biết, chỉ tới khi vào được bên trong mới biết thế nào! Anh xem chúng ta vào bên trong bằng cách nào bây giờ?”
Đường Phong lại soi đèn pin vào khe cửa, ánh sáng xuyên thủng bóng tối ngàn năm khói bụi trong huyền cung; anh thấp thoáng trông thấy vài bức tượng và cả vách đá là những tảng đá khổng lồ.
Đường Phong ra sức đẩy cánh cổng sơn vàng trước mặt, cánh cổng lõm vào bên trong, nhưng chiếc khóa sắt hoen gì vẫn nguyên vị, phát huy tác dụng của nó. Đường Phong không đẩy được cửa ra, nhưng anh vẫn nhìn lại tình hình phía sau cánh cửa, sau đó rất tự tin nói: “Phía sau cánh cổng này không có đá tự nhiên, chỉ có cái khóa này, chỉ cần phá hỏng được nó thì sẽ mở được cổng ra.”
“Cái này thì dễ thôi, nghề của chúng ta mà!”, nói xong, Hàn Giang liền móc ra một chiếc kẹp ghim, bẻ thẳng, nhét vào lỗ khóa. Nhưng lần này Hàn Giang lại vấp một cú lớn, anh dùng kẹp ghim chọc ngoáy mãi trong ổ khóa mà cũng không mở được: “Ôi trời! Anh mày hôm nay lại thua ở đây sao?”
Đường Phong đứng bên cạnh, cố ý nhìn Hàn Giang cười, nói: “Anh nhanh chút được không, đến cái khóa của cổ nhân mà anh cũng không mở được là sao?”
“Lắm lời! Sao mà tôi biết được, khóa nào tôi cũng từng mở rồi, chỉ có mỗi khóa từ thời cổ đại là chưa mở thôi. Kể cả phức tạp như két sắt, chỉ cần cho tôi thời gian thì chẳng có gì là tôi không mở được cả!”
“Được! Vậy bọn tôi sẽ cho anh thời gian.”
Đường Phong lại nhìn Hàn Giang chọc ngoáy năm, sáu phút mà vẫn chưa mở được khóa.
“Khóa của người xưa cấu tạo rất đơn giản, rốt cuộc anh có mở được không nào?”, Đường Phong thúc giục.
“Mẹ kiếp! Ai thiết kế ra cái khóa này vậy nhỉ? Chẳng đúng quy cách gì cả!”
“Đừng có kiếm cớ nữa, không được thì thay người đi!”
“Vậy cậu đi mà làm!”, Hàn Giang tức tối hậm hực gào lên.
“Làm thì làm!”, Đường Phong hất Hàn Giang sang một bên.
Hàn Giang chưa từng biết tới tay nghề mở khóa của Đường Phong, anh muốn thử xem rốt cuộc Đường Phong mở cái khóa thời Tây Hạ này thế nào. Và cảnh tượng khiến Hàn Giang lác mắt đã hiện ra: Đường Phong không chần chừ rút luôn khẩu súng ngắn 92 của anh ra, nhắm chuẩn chiếc khóa trên cánh cửa bắn một phát, một tia lửa lóe lên, khóa đã được mở.
Hàn Giang không ngờ Đường Phong lại giở chiêu này ra, anh bị lửa do đạn bắn ra làm cho giật bắn mình:
“Tốt xấu gì thì cậu cũng là một học giả, mà lại thản nhiên phá hoại văn vật như vậy à?”
“Cái khóa này gỉ sét hỏng cả rồi, anh không thể dùng chiêu chọc ngoáy để mở nó được đâu!”, Đường Phong nói.
“Phí lời! Dùng súng bắn thì tôi cũng làm được!”, Hàn Giang tức tới nỗi mũi muốn xì khói.
“Đáng tiếc là anh không nghĩ ra, hoặc nói thẳng ra là ngốc! Kể cả nói rằng đây là phá hoại văn vật đi chăng nữa thì đây cũng là việc cấp bách, nếu là bình thường thì cũng cầm cái cưa mà cưa từng chút một.”
Đường Phong nói xong liền đưa hai tay ra, rồi ra sức đẩy cánh cổng sơn vàng trước mặt. “Két” một tiếng, cánh cổng đã mở ra. Đường Phong rất kinh ngạc bởi đã mấy trăm năm sau mà bản lề của cổng này vẫn tốt như vậy.
Ba người lại bước vào một thế giới tối đen, sự lo lắng và hưng phấn đi kèm với nhịp tim đập loạn xạ của mọi người. Đường Phong là người đầu tiên phát hiện ra cái máng lõm vào trên vách đá để đựng đèn dầu và nến: “Mọi người nhìn những cái máng lõm vào này, giống hệt như cái máng hình đầu sói mà chúng ta nhìn thấy trong Hắc Đầu Thạch Thất”.
“Xem ra đây quả thực được kiến tạo từ thời Tây Hạ!”, Hàn Giang lấy nến mang theo ra, đốt từng cây cắm lên những cái máng này, chẳng mấy chốc cả cung điện bằng đá khổng lồ đều đã được chiếu sáng.
6
Dưới ánh nến âm u, Đường Phong nhìn xung quanh, anh phát hiện ra đây là một gian thạch thất có chút kì quái, không theo quy chuẩn nào cả, hoặc có thể gọi nó là “Thạch điện”. Thạch điện rộng chừng hai, ba trăm mét, hai bên thạch điện đều có hai cánh cổng lớn, một mặt lại là một lối đi rộng rãi, còn một mặt là hang động tối om.
Đường Phong phát hiện ra ở đây không những không có sóng điện thoại mà đến cả GPS cũng không có tín hiệu, họ chỉ có thể dựa vào một công cụ duy nhất là la bàn để xác định phương hướng.
Theo chỉ dần của la bàn thì cánh cổng ban nãy họ vừa mở ra là cổng phía tây của thạch điện, đối diện với cổng tây, ở phía đông vẫn còn một cánh cổng khác. Nhìn bên ngoài, cánh cổng này chẳng khác gì cánh cổng gỗ sơn vàng phía tây, từ kích thước, hình dáng đều giống hệt, gần như có thể đoán định hai cánh cổng này được tạo thành cùng lúc.
Đường Phong vòng ra sau cánh cổng phía tây trước, anh đẩy đẩy cửa, cửa không chặt, không giống cánh cổng phía tây ban nãy, vừa đẩy một cái đã hở ra một khe to. Anh nhìn qua khe cửa nhỏ hẹp, một vùng tối đen, không trông thấy bất cứ thứ gì cả, cũng không trông rõ khóa cửa của cánh cổng phía nam. “Xem ra cánh cổng này chưa từng được mở ra!”, Đường Phong thầm nghĩ.
Đường Phong lại men theo vách đá đi tới phía nam, ở đây có một cửa hang tối om om. Anh dùng đèn pin soi vào bên trong, lối đi tối đen không nhìn thấy điểm kết thúc.
"Vách đá bên ngoài chưa từng được mài giũa!”, Đường Phong phán đoán.
“ừm, giống hệt như lối đi trước đó của chúng ta!”, Hàn Giang có vẻ ngạc nhiên.
Đường Phong không đáp lại mà cẩn thận kiểm tra tình trạng của cửa hang. Giống tình trạng bên ngoài cổng phía tây ban nãy, hai bên cửa, hang xuất hiện vách đá được xếp bằng những tảng đá khổng lồ, chỉ có điều ở đây không có cánh cổng lớn sơn vàng đó. Nghĩ tới đây, Đường Phong nói: “Hình như ở đây từng có một cánh cổng lớn, một cánh cổng sơn vàng giống như cổng phía tây và phía đông.”
“Làm thế nào cậu biết được?”, Makarov hỏi.
“Đầu tiên, hình dáng của cửa hang này giống như cánh cổng phía đông mà chúng ta vào đây; thứ hai, phía đông, phía tây đều có cửa thì phía nam cũng không thể để trống vậy chứ? Dĩ nhiên cháu vẫn cần tới bằng chứng cụ thể hơn”, Đường Phong vừa nói vừa chỉ vào một cái máng bên cạnh cửa hang, “Bác xem, ở đây chắc là vị trí mà trước đây vốn đặt bản lề cửa!”
Quả nhiên, Hàn Giang và Makarov cũng phát hiện ra một cái máng hõm vào để đặt bản lề cửa phía bên kia cửa hang. Đường Phong lại bò ra đất dùng đèn pin lục soát từng chút từng chút một. “Cậu đang tìm gì vậy?”, Hàn Giang không hiểu.
“Tôi đang tìm dấu vết sơn vàng hoặc là chu sa.”
Nhưng khiến Đường Phong thất vọng là anh tìm mãi mà chẳng phát hiện ra chút dấu tích nào của sơn vàng và chu sa. Lẽ nào ở đây ngay từ đầu đã trống trơn như vậy, không có cửa? Không thể, máng và cửa hang trên vách đá khổng lồ đã chứng minh rằng ở dây đã từng có một cánh cổng lớn.
Đường Phong chìm trong suy tư, Makarov bỗng đột nhiên hỏi: “Giả sử ngay từ đầu chúng ta đã đi sai đường, đường chính xác phải là mắt phải của tượng Phật, vậy thì lối đi bên mắt trái sẽ thông tới đâu đây? Vậy thì cánh cổng vốn dĩ có ở đây, có khi nào bị cái gã bí ẩn đó nhanh tay phá hủy trước rồi không?”
Makarov nói vậy khiến Đường Phong giật mình.
Ngược lại Hàn Giang rất bình tĩnh: “Ban nãy tôi quan sát kĩ ở đây xem có kí hiệu nào của gã bí ẩn đó để lại hay không nhưng đáng tiếc là chẳng có gì cả.”
“Nếu có thì đã chứng thực cho suy đoán của tôi rồi!”, Makarov nói.
“Không!”, Đường Phong bỗng hét lên một tiếng,
Tôi cho rằng ở đây vốn dĩ có một cánh cổng sơn vàng giống như ở phía tây và phía đông, nhưng chắc chắn không phải đã bị gã bí ẩn đó phá hoại.”
“Ồ! Làm thế nào cậu biết được?”
“Rất đơn giản, nếu như mới bị phá hoại thì phải để lại dấu vết, kể cả gã ta có phá hủy cả cánh cổng đi chăng nữa, thì cũng phải còn dấu tích sót lại. Nhưng chúng ta thấy ở đây rất sạch sẽ, rõ ràng không thể là do gã bí ẩn đó làm dược!”, Hàn Giang phán đoán.
Makarov gật gù: “Cậu nói cũng có lý, nhưng cánh cổng ở đây đâu?”
“Chỉ có hai khả năng, thứ nhất là ở đây vốn dĩ không có cổng, hoặc đã bị phá hoại từ trước đó rất lâu rồi. Bản thân tôi nghiêng về giả thiết sau hơn.”
“ừm, rất có khả năng là vậy!”, Hàn Giang gật gù, “Chắc là có người vào đây từ lâu rồi, nên vì thế mà trong thạch điện này chẳng còn lại gì cả.”
“Vậy thì không phải chúng ta đã uổng công tới đây sao?”, Makarov đầy vẻ thất vọng.
Ba người chìm trong trầm tư. Đường Phong quay lại chính giữa thạch điện, ngẩng đầu quan sát, trên đỉnh thạch điện có chạm khắc hoa sen tinh xảo: “Đây lẽ nào chính là Thượng tự trong truyền thuyết ư?”
“Hiện giờ xem ra quả thực như vậy đấy!”, Hàn Giang nói.
“Công trình hoành tráng này rốt cuộc là vì cái gì, rốt cuộc ở đây từng cất giữ cái gì?”
“Có thể là chất đầy vàng bạc, ngọc ngà châu báu, có thể là kinh điển Phật giáo. Ai mà biết được? Cái này thì cậu phải đi hỏi người đầu tiên vào đây!”, Hàn Giang bĩu môi rồi lại bước vài bước về phía bắc, phía trước chính là lối đi thênh thang.
“Anh có để ý thấy lối đi này không?”, Đường Phong bỗng hỏi Hàn Giang.
“Thấy rồi, giống như một lối đi vẫn chưa thi công xong, bởi vậy ở đây cũng không cần xây cổng”, Hàn Giang trả lời.
“Biết đâu... biết đâu lối đi này không đơn giản như chúng ta tưởng tượng...”, Đường Phong đột nhiên thốt ra một câu.
1
Cũng không biết qua bao lâu sau, nước trong hang đãtừ từ rút đi, và nước đọng lại vẫn chưa tới đầu gối ba người. Đường Phong bị nước cuốn đi xa nhất, nên lúc này, thấy nước đã rút, anh liền nắm lấy sợi dây thừng trên lưng, từng bước từng bước một tiến lại gần Hàn Giang và Makarov.
Đường Phong bước tới cạnh Hàn Giang và Makarov, thấy lão Mã không có vấn đề gì, chỉ là mặt mũi khá phờ phạc, vì dù sao thì ông cũng có tuổi rồi.
“Lão Mã, bác phải gắng lên đấy!”, Đường Phong đưa cho lão Mã uống hai viên thuốc cho tỉnh táo.
“Yên tâm, tôi chưa chết được đậu!”, Makarov xua xua tay.
Hàn Giang dùng đèn pin soi phía trước hồi lâu, rồi nói: “Cuối cùng vách đá cũng chịu mở ra rồi, chúng ta phải mau chóng tiến lên phía trước, ít nhất cũng là để tìm chỗ nào ấm áp. Tôi không muốn mặc quần áo ướt chờ chết ở đây đâu.”
“Ai nói chúng ta sắp chết?”, Đường Phong bực mình gào lên.
“Đừng lải nhải nữa! Ban nãy tôi trông thấy phía sau vách đá thấp thoáng hiện lên vài bức tượng đấy!”, Hàn Giang nói.
“Tôi thấy rồi!”
“Đó là cái gì nhỉ?”
“Ai mà biết được!”
“Có phải là ‘Thượng tự’ không nhỉ?”
“Thượng tự? Không phải anh cho rằng mặt phẳng đá bên ngoài chính là di chỉ thượng tự sao?”
“Nhưng ở đó chẳng có gì cả, còn trong này lại..
“Biết đâu là phát hiện mới.”
Nói xong, ba người lội trong dòng nước đục ngầu, từng bước từng bước tới trước vách đá. Makarov sờ lên vách đá, không khỏi thốt lên: “Cần bao nhiêu năng lượng mới có thể nhấc được vách đá này lên nhỉ!”.
“Trong tình huống không dựa vào sức người, thì trong thế giới tự nhiên cũng chỉ có hồng thủy mới chứa đựng được năng lượng lớn như vậy”, Đường Phong nói.
“Đây lẽ nào cũng là kiệt tác của người Đảng Hạng? Giờ thì tôi càng lúc càng không hiểu, di chỉ Hạ tự, Phật tháp đều có thể hiểu được, nhưng đại Phật ở đây, thậm chí cả mê cung khổng lồ trong này là để làm gì? Tại sao người Đảng Hạng lại phải kiến tạo những thứ này?”, Hàn Giang thắc mắc.
“Có thể tất cả những thứ này vốn dĩ đã có từ trước rồi thì sao?”, Đường Phong đưa ra ý kiến.
“Ý cậu là sao? Thế nào gọi là vốn dĩ đã có từ trước?”
“Lịch sử nhân loại chính là quá trình nhận thức tự nhiên, cải tạo tự nhiên, nhưng sau khi nhận thức tự nhiên xong, nhân loại thường dùng nhiều cách khác nhau để cải lạo tự nhiên. Có người cải tạo trời đất, tái tạo núi non sông núi, có người lại tận dụng tự nhiên để đạt được mục đích cải tạo nó.”
“Ý cậu là trong núi này vốn đã có mê cung phức tạp như vậy, sau này mới được người Đảng Hạng cải tạo?”
Đường Phong không trả lời câu hỏi của Hàn Giang, bởi anh đã chui qua vách đá đầu tiên, và sửng sốt khi trông thấy cảnh tượng trước mắt. Anh cảm nhận được sự biến đổi dưới chân mình, địa hình phía sau vách đá cao dần lên, cùng với địa hình mỗi lúc một cao, mực nước dưới chân cũng thấp dần đi, cho tới khi anh sững sờ bởi cảnh tượng trước mắt, mà không thể nhấc chân được nữa, thì mực nước phía dưới cũng chỉ còn tới mắt cá chân.
2
Đường Phong, Hàn Giang, Makarov, ba người chụm đèn pin lại với nhau cũng không thể soi sáng huyền cung khổng lồ trong núi này. Thứ đầu tiên mà họ nhìn thấy là cây cầu trước mặt. Đường Phong nhìn không rõ cây cầu là do những tảng đá xếp thành hay là làm bằng gỗ hoặc là do tự nhiên hình thành!
Đầu cầu, phía đối diện họ có hai pho tượng võ sỹ to lớn sừng sững hai bên. Đường Phong cẩn thận quan sát hai pho tượng võ sỹ này, giống hệt như tượng võ sỹ của Phật tháp trên Hạ tự, chỉ có điều thể hình của tượng võ sỹ ở đây to hơn.
Đường Phong ngồi xuống quan sát mặt cầu. Anh kinh ngạc phát hiện ra mặt cầu không phải làm bằng gỗ, cũng không phải bằng đá hoặc gạch, hay đá đen xây thành. Vì ngoài hai pho tượng sừng sững ở đầu cầu ra, thì gần như không thấy bất cứ dấu vết nhân tạo nào trên cây cầu này. Đường Phong thầm giật mình, lẽ nào cây cầu này đúng là do tự nhiên tạo thành?
Cây cầu đá tự nhiên nhô ra bắc ngang qua khe núi tối đen, xung quanh vẫn là một vùng đen kịt. Đường Phong không nhìn rõ không gian xung quanh, vì ánh sáng đèn pin soi chiếu ra xa hơn chục mét, nhưng vẫn chỉ dừng lại trên mặt cầu.
“Cây cầu đá này dài bao mét? Bên kia cầu là chỗ nào nhỉ?”, giọng Đường Phong có chút run rẩy.
“Điều mà tôi quan tâm hơn là: phía dưới cầu là cái gì, Hàn Giang hỏi.
“Phía dưới cầu? Chắc là sông!”, Đường Phong đoán mò.
“Không nghe thấy tiếng nước chảy mà!”
Trong lúc nói chuyện, ba người đã đi lên cầu. Đường Phong phát hiện hai bên cầu không có lan can, đúng là một chiếc cầu đá tự nhiên. Ba người cẩn thận tiến lên phía trước. Đi được hơn hai chục bước, Đường Phong bỗng phát hiện thấy mặt cầu càng lúc càng nhỏ hẹp. Anh dừng lại, cần thận quan sát. Dưới ánh sáng đèn pin, anh vẫn không trông thấy điểm cuối của cây cầu, còn mặt cầu nơi anh đang đứng rộng chưa tới hai mét, hơn nữa mặt cầu trước mặt vẫn tiếp tục thu hẹp.
“Có khi nào cây cầu này đi mãi đi mãi xong tự nhiên cụt lủn không vậy?”, giọng Đường Phong vọng lại oang nang trong bóng tối mềnh mông.
Hàn Giang lấy đèn pin soi về mặt cầu trước mặt, nói:
Tiếp tục thăm dò phía trước xem sao!”, giọng Hàn Giang cũng không có chút bảo đảm nào.
Ba người lại tiếp tục tiến lên phía trước hơn hai chụ bước, mặt cầu đã hẹp lại còn khoảng một mét. Đường Phong lấy đèn pin soi xuống dưới cầu, không có tiếng nước, không có ánh sáng, và ngoài bóng tối, anh chẳng nhìn thấy gì cả. “Dưới này lẽ nào đúng là sâu không thấy đáy?”, giọng Đường Phong run rẩy.
“Cẩn thận phía trước...”, Hàn Giang dùng đèn pin soi xung quanh. Ánh sáng từ đèn pin phát ra chọc thủng màn đêm dày đặc, rồi bị bóng tối thăm thẳm nuốt chửng Thế nhưng khi anh soi đèn men theo mặt cầu thì bỗng kinh ngạc phát hiện ra chỗ xa nhất, mà đèn pin có thể chiếu tới, mặt cầu ở đó hẹp tới nỗi chỉ một người có thể qua được.
Đường Phong và Makarov cũng trông thấy đoạn mặt cầu hẹp tới mức dị thường trước mắt, họ đều muốn nhìn rõ phía sau mặt cầu nhỏ hẹp này sẽ như thế nào, nhưng ánh sáng của đèn pin lại chỉ soi được đến đấy. “Nếu mặt cầu phía sau còn hẹp hơn hoặc cụt lủn thì không đáng để chúng ta đi tiếp!”, Đường Phong nói.
“Không đáng? Không đi tiếp thì lẽ nào cậu định quay lại?”, Hàn Giang hỏi lại.
“Bất luận thế nào, tiếp tục tiến lên phía trước hai chục bước, thì ít nhất cũng có thể nhìn rõ tình hình phía sau đoạn mặt cầu nhỏ hẹp này”, Makarov nói.
“Tôi chỉ sợ sau mười bước chúng ta sẽ nhìn thấy mặt cầu còn hẹp hơn!”, Đường Phong ưu tư não nề nói.
“Cậu nhát gan thì đi đằng sau, để tôi đi trước cho!”,
Hàn Giang ca thán.
“Anh bảo tôi đi sau là tôi sẽ đi sau, bảo tôi đi trước thì tôi sẽ đi trước sao? Quá là mất mặt! Không phải chỉ có hai chục bước chân thôi sao? Anh xem tôi có dám đi qua không nhé!”
Đường Phong bị Hàn Giang kích thì bỗng muốn đấu trí, một bước, hai bước, ba bước... mãi cho tới bước mười bảy, anh bỗng dừng lại.
“Sao cậu không đi tiếp đi?”, Hàn Giang phía sau hỏi.
“Anh đi trước đi!”, giọng Đường Phong có vấn đề.
“Tôi đã bảo cậu không ổn rồi, để tôi đi trước cho!”,
Hàn Giang bước tới sau lưng Đường Phong, rồi dừng lại chỗ cách Đường Phong hai bước chân, thì thấy bạn mình vẫn đứng im, chặn phía trước nên liền thúc giục: “Cậu đi đi chứ!”
“Anh... nhìn phía trước!”, Đường Phong vừa nói vừa khẽ nghiêng người sang một bên.
Hàn Giang phát hiện ra, trước mặt Đường Phong, mặt cầu hẹp tới nỗi chỉ có thể ột người đi qua, nhưng điều đáng sợ hơn là không ai biết phía dưới cầu là gì, vì ngoài mặt cầu ra thì những không gian khác đều là bóng tối.
“Vậy cậu vòng qua đây để tôi đi đầu cho!”, Hàn Giang ra lệnh.
“Tôi... tôi không quay lại được nữa rồi...”, Đường Phong muốn lùi lại nhưng không nhấc được chân.
3
Chân Đường Phong không ngừng run rẩy, anh không xoay người lại được. Anh nghiêng người, đành phải bước một bước ngắn lên phía trước, gần như đã cận kề với nơi hẹp nhất trên cầu đá. Anh muốn quay lại, nhìn xem mặt cầu phía trước, nhưng vẫn không nhúc nhích được. Tim Đường Phong đập loạn xạ, anh bất giác lấy đèn pin soi xuống dưới chân. Kết quả, chưa kịp đợi anh nhìn rõ thứ gì thì chiếc đèn pin đã rơi xuống dưới. Anh giật mình, suýt chút nữa là mất thăng bằng, rơi xuống vực sâu thăm thẳm tối đen.
Đường Phong cố giữ bình tĩnh, nhưng mãi lâu sau anh cũng không nghe thấy tiếng đèn pin rơi xuống vực vọng lại, nên tim anh cũng rớt xuống vực thẳm theo nó.
Hàn Giang và Makarov thấy phía Đường Phong bỗng tối thui thì đều giật mình, hai người vội vàng dùng đèn pin soi tìm Đường Phong, phát hiện thấy anh vẫn đứng đó mới yên tâm trở lại. “Cậu sao thế? Đừng có dọa chúng tôi chứ?”, Hàn Giang hét lên.
“Dọa... dọa anh? Rốt cuộc là ai dọa... ai đây?”, giọng Đường Phong như sắp khóc.
“Cậu đứng im đừng có nhúc nhích!”, Hàn Giang nói xong cũng liền nghiêng người tiến lên phía trước hai bước, đi tới cạnh Đường Phong, giơ đèn pin lên soi về phía trước, “Hình như mặt cầu phía trước lại rộng ra rồi!”, Hàn Giang nói.
“Thật sao?”, Đường Phong không tin.
“Thật! Cậu bước hai bước nữa là qua đấy rồi!”, thực ra Hàn Giang cũng không dám chắc chắn mặt cầu rộng ra nhường nào.
Câu động viên của Hàn Giang quả nhiên có công hiệu, rốt cuộc Đường Phong đã lấy lại can đảm, nghiêng người tiến lên phía trước vài bước, mặt cầu dưới chân quả nhiên rộng hơn một chút.
Hàn Giang và Makarov cũng theo sau. Lúc này, không biết một cơn gió mát từ đâu bỗng thổi tới khiến Đường Phong tỉnh táo linh hoạt hơn, rồi rốt cuộc cũng khiến anh bình tĩnh trở lại sau sự hoảng hốt tột độ.
“Xem ra chúng ta đã đi qua đoạn hẹp nhất rồi, hơn nữa còn như kiểu đi xuống dốc, hình như chúng ta đã đi tới đầu cầu bên kia rồi!”, Makarov phấn khởi nói.
Hàn Giang lấy một chiếc đèn pin dự phòng từ trong ba lô ra đưa cho Đường Phọng và nói: “Rơi tiếp là hết rồi day nhé!”, sau đó, anh dẫn đầu, bước nhanh về phía trước. Chẳng bao lâu sau, lại có thêm hai bức tượng võ sỹ xuất hiện trước mặt ba người.
Hai bức tượng võ sỹ, một trái một phải đứng ở đầu cầu, giống hệt như tượng võ sỹ đầu cầu bên kia. Ba người lấy đèn pin soi một lượt phía trước, trước mặt xuất hiện ngổn ngang vài cửa hang. Đường Phong suy đoán: “Chúng ta nhất định phải chọn đúng phương hướng, dù gì thì chúng ta cũng mở được vách đá ra rồi, lại đi qua được Cầu, có thể đi tới đây, vậy thì chắc chắn sẽ có đường thông ra bên ngoài”.
“Biết đâu lại dẫn tới nơi mà chúng ta cần tới…”, Hàn Giang nói.
“Nhưng nên đi đường nào đây? Xem ra chẳng có đường nào là có dấu vết được con người tác động, giống như thiên nhiên hình thành vậy!”, Makarov nói.
“Sợ nhất là lại rơi vào một mê hồn trận...”, Hàn Giang nhớ lại lối đi chằng chịt giống mê cung trước đó mà vẫn hết hồn.
Trong lúc Hàn Giang và Makarov đang tính toán xem nên đi đường nào thì Đường Phong quay lại thẫn thờ nhìn bức tượng võ sỹ bên phải phía đầu cầu. Hàn Giang quay người nói: “Đường Phong, cậu nhìn cái gì thế? Chúng ta mau nghĩ cách rồi đi thôi!”
“Hai người xem này, bức tượng võ sỹ bên trái khác với ba bức tượng còn lại!”, Đường Phong đột nhiên nói.
Hàn Giang và Makarov đều giật mình, lẽ nào lại có ý gì đó giống như các bức tượng tại góc đông bắc Phật đường trong Hạ tự? Nhưng Hàn Giang chăm chú nhìn hai bức tượng võ sỹ hồi lâu mà vẫn chưa nhìn ra: “Chỗ nào không giống vậy?”
“Đúng thế! Không giống chỗ nào?”, Makarov cũng không nhìn ra.
“Bức tượng này không dễ nhìn ra điểm không giống như bức tượng tại góc đông bắc Phật đường trong Hạ tự, hai người có để ý đến đôi mắt của bức tượng này không?”, Đường Phong chỉ vào mắt trái của bức tượng.
“Lại là mắt à?”, giờ thì Hàn Giang cứ nhìn thấy mắt là thấy đau đầu.
Quả nhiên, Hàn Giang và Makarov phát hiện ra, đôi mắt của bức tượng bên phải mở trừng trừng, nhìn thẳng về phía trước. Còn đôi mắt của bức tượng võ sỹ bên trái rất kì lạ, tuy con ngươi vẫn ở giữa khoang mắt nhưng lại cho người ta cảm giác nó đang nhìn về bên trái.
“Thế này là thế nào? Mắt của bức tượng này rất kì lạ, nhưng nhìn gần thì con ngươi của nó rõ ràng ở giữa khoang mắt giống như bức tượng bên phải mà!”, Hàn Giang không hiểu.
“Đây chính là kỹ thuật cao siêu của những người thợ Tây Hạ, con ngươi cũng khắc giữa khoang mắt, nhưng chỉ tính toán một chút, khắc con ngươi dày mỏng khác nhau là đã cho người ta một cảm giác đặc biệt”, Đường Phong giải thích.
Hàn Giang lại chăm chú nhìn tượng võ sỹ thêm một lúc, quả nhiên, con ngươi của bức tượng bên trái dày mỏng không đều, tạo cho người ta cảm giác võ sỹ đang nhìn về phía bên trái. “Những người thợ năm đó tốn bao nhiêu là công sức để chạm khắc những bức tượng võ sỹ thành thế này chắc chắn là có mục đích cả?”, Hàn Giang suy đoán.
“Bởi vậy tôi mới để hai người chú ý tới sự khác biệt của bức tượng bên trái.”
“Cậu chắc chắn hai bức tượng bên đầu cầu bên kia không có vấn đề gì chứ?”
“Tôi đã xem kĩ rồi, chỉ có mắt của bức tượng bên trái này mới có điểm đặc biệt. Tôi nghĩ nó được làm như vậy chắc chắn là có hàm ý, nếu không để ý kĩ, hoặc không biết nội tình, thì sẽ không phát hiện ra được!”, Đường Phong nói.
“Vậy thì chúng ta nên đi về phía bên trái thôi!”, nói xong, Hàn Giang lấy đèn pin soi về phía trước, quả nhiên ở đó có một lối đi trải dài về phía trước.
4
Đường Phong, Hàn Giang và Makarov quyết định, đi theo lối đi mà pho tượng võ sỹ bên trái chỉ lối. Đường Phong dẫn đầu bước vào lối đi này. Lối đi đó cũng gần như giống hệt lối đi phức tạp như mê cung trước đấy, không trông thấy mấy vết tích do con người tác động, nhưng anh lại ngửi thấy rõ mùi vị mà cố nhân đã từng đi qua đây.
Hàn Giang và Makarov không thế có được khứu giác này của Đường Phong, hai người theo anh chui vào lối đi này, nhưng cả ba đều có một mối lo lắng giống nhau, không biết lối đi này sẽ dẫn họ tới đâu.
Mười phút sau, Đường Phong đã tìm lại được sự tự tin bị rơi xuống vực thẳm lúc đi qua cây cầu đá, vì một cánh cổng màu đỏ thẫm đã hiện lên trước mắt họ.
Ba người dừng lại tại chỗ cách cánh cổng khoảng hai chục bước chân. “Rốt cuộc không có mê cung!”, Hàn Giang thở phào nhẹ nhõm.
“May mà Đường Phong nhìn ra bí mật của bức tượng võ sỹ!”, Makarov cũng thốt lên.
“Hai người đừng vui mừng vội, bên trong cánh cổng vẫn chưa biết là cái gì đâu đấy!”, Đường Phong cố gắng hết sức giữ bình tĩnh, nhưng tim anh vẫn đập rộn ràng.
Đường Phong đi thẳng tới cánh cổng đó. “Cẩn thận vũ khí bí mật đấy!”, Hàn Giang phía sau nhắc nhở.
“Thôi đi! Không phải sợ, kể cả người xưa có để lại ám khí đi chăng nữa, thì bao nhiêu năm vậy cũng mất linh rồi!”, xem ra Đường Phong cũng có chút tự tin, “Tôi thấy anh đọc nhiều tiểu thuyết trộm mộ quá nên tin rằng trong – cổ mộ có cung tên bí ẩn sát thương phải không? Hơn nữa đây mà là cổ mộ ư? Đây vẫn chưa phải là cổ mộ đâu!”, Đường Phong nói xong thì cũng đã bước tới trước cánh cổng màu đỏ.
Hàn Giang và Makarov cẩn thận đi theo, Hàn Giang còn căng thẳng rút súng ra. Lúc này, Đường Phong lại thấy hứng thú: “Trông anh lo lắng kìa, chẳng phải chỉ là một cánh cổng thôi sao?”
“Đề phòng thì càng tốt chứ sao... hơn nữa không hiểu sao tôi cảm thấy cánh cổng này rất giống cổng địa cung bên trong lăng mộ?”, Hàn Giang nói.
Đường Phong lấy tay chạm lên cánh cổng, một lớp hụi dày khiến màu đỏ tươi vốn có của nó đã chuyển thành màu đỏ sậm. Anh vuốt lớp bụi đi, phát hiện ra bên ngoài cánh cổng này thực ra được phết một lớp chu sa, anh còn phát hiện ra rất nhiều vật màu vàng trên cánh cổng.
Đường Phong quan sát những vật màu vàng này dưới anh đèn pin, mắt anh mở to, kinh ngạc reo lên: “Cánh cổng này thật quý giá!”
“Đây là cái gì vậy?”
“Sơn vàng!”
“Gì cơ?”
“Đây là một cánh cổng sơn vàng. Thực sự tôi không thể tưởng tượng được hình dạng của cánh cửa này lúc nó mới được làm xong, trên lớp chu sa lại được phết thêm một lớp sơn vàng. Nếu không phải bao năm qua đi đã khiến lớp sơn vàng này bong tróc, thì trong lối đi tối tăm này cánh cổng trước mặt chúng ta sẽ là một cánh cổng hoành tráng đấy!”, Đường Phong thán phục.
“Hóa ra cảnh cổng này vốn lấp lánh ánh vàng?”, Hàn Giang không tin.
“ừm, là vậy đấy. Mọi người nghĩ mà xem, lúc đầu cánh cổng này sẽ huy hoàng đến nhường nào, thật quý giá!”
Makarov nghe vẫn chưa hiểu lắm: “Đường Phong, ý cậu đây là một cánh cổng bằng vàng?”
“Không phải là cổng bằng vàng, nhưng cũng gần như thế!”
“ô! Chúa ơi, bên trong cánh cổng này có gì nhỉ?”, Makarov ngạc nhiên nói.
“Không biết, nhưng năm đó ở đây chắc chắn là một nơi quan trọng của Tây Hạ!”, Đường Phong suy đoán.
“Đừng sốt sắng vào vội, phải kiểm tra cẩn thận đã, chắc chắn không có nguy hiểm hãy vào!”, Hàn Giang vẫn chưa quên vụ ám khí.
Ba người lùi lại vài bước, quan sát lại cánh cổng sơn vàng quý giá trước mặt. Đường Phong phát hiện ra hai bên cánh cổng là vách đá được xếp thành từ những tảng đá lớn, vách đá vốn chưa được mài mòn đến đây là kết thúc. Bên trong lẽ nào là huyền cung trong núi được xếp thành từ những tảng đá khổng lồ? Đường Phong không dám nghĩ tiếp nữa, nhưng có thể khẳng định rằng, bên trong chắc chắn là một vùng đất khác, và anh vô cùng nóng lòng muốn mở cánh cổng thần kì đó ra.
5
Hàn Giang kiểm tra lại một lượt, không thấy chỗ nào có ám khí, anh không khỏi thất vọng: “Một cánh cổng hoành tráng thế này mà không có ám khí, đúng thật là chẳng lợi hại gì cả!”
“Hình như anh rất muốn có chút ám khí thì phải nhỉ?”, Đường Phong cười, nói.
“Tôi khuyên cậu hãy cẩn thận chút đi, bên ngoài không có, bên trong càng phải cẩn thận!”, Hàn Giang dặn dò.
Đường Phong vốn không nghe Hàn Giang, anh nhoài tới bên khe cửa, nhìn vào bên trong, trong đó tối om, không thấy lấy một tia sáng. Trong lòng anh bỗng trào lên một nghi ngờ: “Hai người nói xem, nếu ngay từ đầu chúng ta đã đi sai đường vậy thì người hại chúng ta phải vào đây trước chúng ta một bước chứ nhỉ, nhưng tại sao trong này chẳng có động tĩnh gì cả?”
“Biết đâu bên trong không phải là nơi mà gã bí ẩn đó muốn tìm!”, Hàn Giang đoán mò.
“Ý anh là chúng ta cứ đánh bừa gặp bừa rồi vô tình đi tới huyền cung trong núi này?”
“Tôi không biết, chỉ tới khi vào được bên trong mới biết thế nào! Anh xem chúng ta vào bên trong bằng cách nào bây giờ?”
Đường Phong lại soi đèn pin vào khe cửa, ánh sáng xuyên thủng bóng tối ngàn năm khói bụi trong huyền cung; anh thấp thoáng trông thấy vài bức tượng và cả vách đá là những tảng đá khổng lồ.
Đường Phong ra sức đẩy cánh cổng sơn vàng trước mặt, cánh cổng lõm vào bên trong, nhưng chiếc khóa sắt hoen gì vẫn nguyên vị, phát huy tác dụng của nó. Đường Phong không đẩy được cửa ra, nhưng anh vẫn nhìn lại tình hình phía sau cánh cửa, sau đó rất tự tin nói: “Phía sau cánh cổng này không có đá tự nhiên, chỉ có cái khóa này, chỉ cần phá hỏng được nó thì sẽ mở được cổng ra.”
“Cái này thì dễ thôi, nghề của chúng ta mà!”, nói xong, Hàn Giang liền móc ra một chiếc kẹp ghim, bẻ thẳng, nhét vào lỗ khóa. Nhưng lần này Hàn Giang lại vấp một cú lớn, anh dùng kẹp ghim chọc ngoáy mãi trong ổ khóa mà cũng không mở được: “Ôi trời! Anh mày hôm nay lại thua ở đây sao?”
Đường Phong đứng bên cạnh, cố ý nhìn Hàn Giang cười, nói: “Anh nhanh chút được không, đến cái khóa của cổ nhân mà anh cũng không mở được là sao?”
“Lắm lời! Sao mà tôi biết được, khóa nào tôi cũng từng mở rồi, chỉ có mỗi khóa từ thời cổ đại là chưa mở thôi. Kể cả phức tạp như két sắt, chỉ cần cho tôi thời gian thì chẳng có gì là tôi không mở được cả!”
“Được! Vậy bọn tôi sẽ cho anh thời gian.”
Đường Phong lại nhìn Hàn Giang chọc ngoáy năm, sáu phút mà vẫn chưa mở được khóa.
“Khóa của người xưa cấu tạo rất đơn giản, rốt cuộc anh có mở được không nào?”, Đường Phong thúc giục.
“Mẹ kiếp! Ai thiết kế ra cái khóa này vậy nhỉ? Chẳng đúng quy cách gì cả!”
“Đừng có kiếm cớ nữa, không được thì thay người đi!”
“Vậy cậu đi mà làm!”, Hàn Giang tức tối hậm hực gào lên.
“Làm thì làm!”, Đường Phong hất Hàn Giang sang một bên.
Hàn Giang chưa từng biết tới tay nghề mở khóa của Đường Phong, anh muốn thử xem rốt cuộc Đường Phong mở cái khóa thời Tây Hạ này thế nào. Và cảnh tượng khiến Hàn Giang lác mắt đã hiện ra: Đường Phong không chần chừ rút luôn khẩu súng ngắn 92 của anh ra, nhắm chuẩn chiếc khóa trên cánh cửa bắn một phát, một tia lửa lóe lên, khóa đã được mở.
Hàn Giang không ngờ Đường Phong lại giở chiêu này ra, anh bị lửa do đạn bắn ra làm cho giật bắn mình:
“Tốt xấu gì thì cậu cũng là một học giả, mà lại thản nhiên phá hoại văn vật như vậy à?”
“Cái khóa này gỉ sét hỏng cả rồi, anh không thể dùng chiêu chọc ngoáy để mở nó được đâu!”, Đường Phong nói.
“Phí lời! Dùng súng bắn thì tôi cũng làm được!”, Hàn Giang tức tới nỗi mũi muốn xì khói.
“Đáng tiếc là anh không nghĩ ra, hoặc nói thẳng ra là ngốc! Kể cả nói rằng đây là phá hoại văn vật đi chăng nữa thì đây cũng là việc cấp bách, nếu là bình thường thì cũng cầm cái cưa mà cưa từng chút một.”
Đường Phong nói xong liền đưa hai tay ra, rồi ra sức đẩy cánh cổng sơn vàng trước mặt. “Két” một tiếng, cánh cổng đã mở ra. Đường Phong rất kinh ngạc bởi đã mấy trăm năm sau mà bản lề của cổng này vẫn tốt như vậy.
Ba người lại bước vào một thế giới tối đen, sự lo lắng và hưng phấn đi kèm với nhịp tim đập loạn xạ của mọi người. Đường Phong là người đầu tiên phát hiện ra cái máng lõm vào trên vách đá để đựng đèn dầu và nến: “Mọi người nhìn những cái máng lõm vào này, giống hệt như cái máng hình đầu sói mà chúng ta nhìn thấy trong Hắc Đầu Thạch Thất”.
“Xem ra đây quả thực được kiến tạo từ thời Tây Hạ!”, Hàn Giang lấy nến mang theo ra, đốt từng cây cắm lên những cái máng này, chẳng mấy chốc cả cung điện bằng đá khổng lồ đều đã được chiếu sáng.
6
Dưới ánh nến âm u, Đường Phong nhìn xung quanh, anh phát hiện ra đây là một gian thạch thất có chút kì quái, không theo quy chuẩn nào cả, hoặc có thể gọi nó là “Thạch điện”. Thạch điện rộng chừng hai, ba trăm mét, hai bên thạch điện đều có hai cánh cổng lớn, một mặt lại là một lối đi rộng rãi, còn một mặt là hang động tối om.
Đường Phong phát hiện ra ở đây không những không có sóng điện thoại mà đến cả GPS cũng không có tín hiệu, họ chỉ có thể dựa vào một công cụ duy nhất là la bàn để xác định phương hướng.
Theo chỉ dần của la bàn thì cánh cổng ban nãy họ vừa mở ra là cổng phía tây của thạch điện, đối diện với cổng tây, ở phía đông vẫn còn một cánh cổng khác. Nhìn bên ngoài, cánh cổng này chẳng khác gì cánh cổng gỗ sơn vàng phía tây, từ kích thước, hình dáng đều giống hệt, gần như có thể đoán định hai cánh cổng này được tạo thành cùng lúc.
Đường Phong vòng ra sau cánh cổng phía tây trước, anh đẩy đẩy cửa, cửa không chặt, không giống cánh cổng phía tây ban nãy, vừa đẩy một cái đã hở ra một khe to. Anh nhìn qua khe cửa nhỏ hẹp, một vùng tối đen, không trông thấy bất cứ thứ gì cả, cũng không trông rõ khóa cửa của cánh cổng phía nam. “Xem ra cánh cổng này chưa từng được mở ra!”, Đường Phong thầm nghĩ.
Đường Phong lại men theo vách đá đi tới phía nam, ở đây có một cửa hang tối om om. Anh dùng đèn pin soi vào bên trong, lối đi tối đen không nhìn thấy điểm kết thúc.
"Vách đá bên ngoài chưa từng được mài giũa!”, Đường Phong phán đoán.
“ừm, giống hệt như lối đi trước đó của chúng ta!”, Hàn Giang có vẻ ngạc nhiên.
Đường Phong không đáp lại mà cẩn thận kiểm tra tình trạng của cửa hang. Giống tình trạng bên ngoài cổng phía tây ban nãy, hai bên cửa, hang xuất hiện vách đá được xếp bằng những tảng đá khổng lồ, chỉ có điều ở đây không có cánh cổng lớn sơn vàng đó. Nghĩ tới đây, Đường Phong nói: “Hình như ở đây từng có một cánh cổng lớn, một cánh cổng sơn vàng giống như cổng phía tây và phía đông.”
“Làm thế nào cậu biết được?”, Makarov hỏi.
“Đầu tiên, hình dáng của cửa hang này giống như cánh cổng phía đông mà chúng ta vào đây; thứ hai, phía đông, phía tây đều có cửa thì phía nam cũng không thể để trống vậy chứ? Dĩ nhiên cháu vẫn cần tới bằng chứng cụ thể hơn”, Đường Phong vừa nói vừa chỉ vào một cái máng bên cạnh cửa hang, “Bác xem, ở đây chắc là vị trí mà trước đây vốn đặt bản lề cửa!”
Quả nhiên, Hàn Giang và Makarov cũng phát hiện ra một cái máng hõm vào để đặt bản lề cửa phía bên kia cửa hang. Đường Phong lại bò ra đất dùng đèn pin lục soát từng chút từng chút một. “Cậu đang tìm gì vậy?”, Hàn Giang không hiểu.
“Tôi đang tìm dấu vết sơn vàng hoặc là chu sa.”
Nhưng khiến Đường Phong thất vọng là anh tìm mãi mà chẳng phát hiện ra chút dấu tích nào của sơn vàng và chu sa. Lẽ nào ở đây ngay từ đầu đã trống trơn như vậy, không có cửa? Không thể, máng và cửa hang trên vách đá khổng lồ đã chứng minh rằng ở dây đã từng có một cánh cổng lớn.
Đường Phong chìm trong suy tư, Makarov bỗng đột nhiên hỏi: “Giả sử ngay từ đầu chúng ta đã đi sai đường, đường chính xác phải là mắt phải của tượng Phật, vậy thì lối đi bên mắt trái sẽ thông tới đâu đây? Vậy thì cánh cổng vốn dĩ có ở đây, có khi nào bị cái gã bí ẩn đó nhanh tay phá hủy trước rồi không?”
Makarov nói vậy khiến Đường Phong giật mình.
Ngược lại Hàn Giang rất bình tĩnh: “Ban nãy tôi quan sát kĩ ở đây xem có kí hiệu nào của gã bí ẩn đó để lại hay không nhưng đáng tiếc là chẳng có gì cả.”
“Nếu có thì đã chứng thực cho suy đoán của tôi rồi!”, Makarov nói.
“Không!”, Đường Phong bỗng hét lên một tiếng,
Tôi cho rằng ở đây vốn dĩ có một cánh cổng sơn vàng giống như ở phía tây và phía đông, nhưng chắc chắn không phải đã bị gã bí ẩn đó phá hoại.”
“Ồ! Làm thế nào cậu biết được?”
“Rất đơn giản, nếu như mới bị phá hoại thì phải để lại dấu vết, kể cả gã ta có phá hủy cả cánh cổng đi chăng nữa, thì cũng phải còn dấu tích sót lại. Nhưng chúng ta thấy ở đây rất sạch sẽ, rõ ràng không thể là do gã bí ẩn đó làm dược!”, Hàn Giang phán đoán.
Makarov gật gù: “Cậu nói cũng có lý, nhưng cánh cổng ở đây đâu?”
“Chỉ có hai khả năng, thứ nhất là ở đây vốn dĩ không có cổng, hoặc đã bị phá hoại từ trước đó rất lâu rồi. Bản thân tôi nghiêng về giả thiết sau hơn.”
“ừm, rất có khả năng là vậy!”, Hàn Giang gật gù, “Chắc là có người vào đây từ lâu rồi, nên vì thế mà trong thạch điện này chẳng còn lại gì cả.”
“Vậy thì không phải chúng ta đã uổng công tới đây sao?”, Makarov đầy vẻ thất vọng.
Ba người chìm trong trầm tư. Đường Phong quay lại chính giữa thạch điện, ngẩng đầu quan sát, trên đỉnh thạch điện có chạm khắc hoa sen tinh xảo: “Đây lẽ nào chính là Thượng tự trong truyền thuyết ư?”
“Hiện giờ xem ra quả thực như vậy đấy!”, Hàn Giang nói.
“Công trình hoành tráng này rốt cuộc là vì cái gì, rốt cuộc ở đây từng cất giữ cái gì?”
“Có thể là chất đầy vàng bạc, ngọc ngà châu báu, có thể là kinh điển Phật giáo. Ai mà biết được? Cái này thì cậu phải đi hỏi người đầu tiên vào đây!”, Hàn Giang bĩu môi rồi lại bước vài bước về phía bắc, phía trước chính là lối đi thênh thang.
“Anh có để ý thấy lối đi này không?”, Đường Phong bỗng hỏi Hàn Giang.
“Thấy rồi, giống như một lối đi vẫn chưa thi công xong, bởi vậy ở đây cũng không cần xây cổng”, Hàn Giang trả lời.
“Biết đâu... biết đâu lối đi này không đơn giản như chúng ta tưởng tượng...”, Đường Phong đột nhiên thốt ra một câu.
Danh sách chương