Ta bất giác than dài, quay người cắm thêm một tuần hương vào lư hương trước mặt, bước tới bên cạnh Thuần Vu Vọng, ngồi tựa vào ngài mỉm cười nói “Thế nhưng ta rất thích dáng vẻ bình thản, an nhàn của chàng hiện tại. A Vọng, nếu kiếp sau còn có thể gặp lại, ta vẫn mong làm phu thê với chàng.”
Ngài quay sang mặt sang hỏi “Kiếp sau sao? Quá là muộn. Ta không muốn đợi đến kiếp sau.”
Ta mỉm cười dịu dàng “Vậy thì, chỉ kiếp này mà thôi.”
Ngài nhìn về phía ta. Ta tựa sát vào ngài rồi khẽ cất tiếng “Ta sẽ không lưu luyến công danh nữa. Ta sẽ giải quyết gọn tất cả mọi thứ, sau đó, tìm cơ hội bỏ đi khi hỗn chiến trên sa trường. Chàng nhất định phải chờ ta đấy!”
Ngài nghe vậy không khỏi bán tín bán nghi.
Lời nói này thì Tương Tư có thể nghe hiểu được. Cô bé trợn mắt nhìn ta, bất mãn lên tiếng “Mẫu thân còn phải đi nữa sao? Con không để cho mẫu thân đi đâu. Phụ vương, phụ vương, người cũng nhất định không được để mẫu thân đi nữa? Con muốn ngày nào cũng được ngủ với mẫu thân, ngày nào cũng được ở bên mẫu thân.”
Tương Tư vừa nói vừa ngáp dài, nghiêng người tựa vào ta.
Thuần Vu Vọng lặng người, sau đó cúi người bế Tương Tư đặt lên giường, sau chập choạng quay lại. Ngài nhìn ta bằng ánh mắt cay đắng, tràn đầy vẻ đau khổ, bi thương, không cam tâm mà cũng chẳng dám tin.
“Không ngờ... chúng ta lại chỉ có được nửa ngày?”
Thân thể ngài lay động, rồi ngủ thiếp đi cạnh bên Tương Tư.
Ta quay người dập tắt nén hương đã được lén tẩm thuốc mê liều cao, ngồi bên giường lặng lẽ ngắm dáng vẻ hai phụ tử khi ngủ. Một người là tướng công của ta, một người là con gái của ta. Thế nhưng chỉ có nửa ngày, ta thực sự chỉ có thời gian nửa ngày bên cạnh họ mà thôi.
Lúc tới đây, ta ngồi xe ngựa, cho nên đã tốn khá nhiều thời gian, sáu ngày đã trôi qua.
Bên ngoài thành Bắc Đô vẫn còn mười tám ngàn quân đội Tần gia, bị vây khốn bởi binh đoàn đông gấp năm lần được điều khiển trực tiếp bởi Hoàng Đế. Huynh trưởng của ta vẫn bị giam lỏng trong Tần phủ, chẳng thể nào bước ra ngoài nửa bước. Tất cả những người trong tộc đi lại thân thiết với Tần gia đều bị giám sát chặt chẽ. Ta chẳng thể nào buông tay từ bỏ tính mạng của người thân và thuộc hạ.
Ta bỏ lại Thẩm Tiểu Phong cùng con ngựa Tử Lệ đã theo ta nhiều năm ở đây, một mình một ngựa rời khỏi Ly Sơn, rời khỏi gia đình của mình trong một đêm giao thừa mà vạn nhà đoàn tụ trong tiếng pháo đì đùng.
Trong truyền thuyết cổ xưa, trong đêm giao thừa, một con quái vật có tên ‘Niên’ sẽ xuất hiện, bất cứ ai xuất môn đều gặp phải điều bất lợi. Thế nhưng ta chẳng còn lựa chọn nào khác.
Thẩm Tiểu Phong dù có đau lòng đến mấy cũng sẽ không ngăn ta lại, người nàng yêu thương nhất trên đời còn đang ở Bắc Đô, nàng nhất định phải chờ ta mang lại cho nàng tia hi vọng.
Ta để lại cho Thuần Vu Vọng một phong thư, lại dặn Thẩm Tiểu Phong nhất định phải nghĩ ra mọi cách để giữ ngài lại.
Ta thực sự không hy vọng ngài sẽ cùng ta xuống suối vàng, cũng không hi vọng ngài đặt chân lên con đường đẫm máu và xác chết dẫn tới Đế cung, lấy tính mạng của tất cả mọi người trong hoàng tộc Đại Nhuế để tuẫn táng theo ta.
Thẩm Tiểu Phong sẽ nói với ngài, lúc ta ra đời, trong phòng đã tràn đầy mùi hương hoa mai, ngay cả cây mai bên ngoài phòng cũng nở rộ đầy hoa chỉ trong một đêm. Vị thầy bói có tiếng nhất Đại Nhuế từng phán, kiếp trước của ta chính là tinh linh hoa mai, cho nên kiếp này luôn luôn có duyên với hoa mai.
Trong thư ta có nhờ ngài thay ta chăm sóc cho Thẩm Tiểu Phong cùng đứa bé trong bụng nàng, đó là giọt máu sau cùng của Tần gia chúng ta.
Ta nói, ta nhất định sẽ quay về tìm ngài, xin ngài hãy chờ đợi ta. Nếu phương Bắc truyền về tin dữ, thì đó chỉ là kế sách của ta, không cần phải lo lắng. Trừ phi có một ngày, hoa mai ở Giang Nam Giang Bắc đều tàn lụi thì đó mới là lúc ta chết.
Truyền thuyết tinh linh hoa mai chuyển thế gì đó, ngài nhất định sẽ không tin, thế nhưng Thẩm Tiểu Phong ở lại nơi này, lên tiếng đưa đẩy, cũng có thể khiến ngài sinh lòng bán tín bán nghi.
Chỉ cần trong lòng ngái còn có chút nghi vấn, như vậy là đủ rồi. Ngài có Tương Tư ở bên cạnh bầu bạn, chắc chắn sẽ không đơn độc. Với tính cách của ngài, ta cũng chẳng mong ngóng ngài có thể tìm được người mẫu thân khác cho Tương Tư. Cứ như vậy, hai phụ tử dựa vào nhau tiếp tục sống trong an bình, hạnh phúc, ta cũng chẳng còn gì phải lo lắng, luyến lưu hồng trần nữa.
Lúc quay về Bắc Đô, vừa đúng là chiều muộn ngày thứ mười, cũng là mùng bốn tháng giêng. Trước tiên ta quay về Tần Phủ gặp Tần Triệt. Nhị ca nghe tin Thẩm Tiểu Phong đã có thai, lại ở Nam Lương bình an, cũng thở phào nhẹ nhõm, nhưng âm thầm than dài “Vãn Vãn, muội nói xem, nếu tổ phụ và phụ thân biết được, bọn họ đã tốn biết bao công sức, đổi lại chính là hậu đại của mình chẳng thể nào đứng vững tại Đại Nhuế, liệu có còn làm như vậy nữa không?”
Ta liền đáp “Muội không biết. Thế nhưng nếu muội còn cơ hội, nhất định sẽ rời khỏi Tần gia, rời khỏi... nơi này.” Ta chỉ về phía hoàng cung rồi nói.
Tần Triệt im lặng một hồi lâu rồi nói “Ta cũng vậy.”
Sau đó, Nhị ca lại nói thêm “Đáng tiếc, chúng ta không còn cơ hội nữa rồi. Biên cương phía Bắc đã truyền tin cấp báo, quân Nhu Nhiên đã vượt núi Yến Nhiên, tiến thẳng vào U Châu. Hoàng thượng đã phái Đỗ Đắc Xương dẫn theo hai mươi vạn binh mã tới ứng cứu, đồng thời cũng truyền chỉ quân đội Tần gia phải nghe theo sự điều động của Đỗ Đắc Xương...”
Quân đội Tần gia lúc này như quần long không đầu, có nhiều thuộc hạ tính cách cương liệt, không nghe theo điều động, Đỗ Đắc Xương đó có thể lấy cớ là kháng chỉ thánh thượng mà không đưa quân tới cứu viện, thậm chí coi họ là những cái gai trong mắt, để họ chết trong tay của giặc Nhu Nhiên. Cũng có những thuộc hạ miễn cưỡng tiếp nhận điều động, Đỗ Đắc Xương vẫn đưa họ lên tiền tuyến để chống lại giặc Nhu Nhiên…
Nếu Tư Đồ Lăng không thể hoàn toàn nắm chắc được đội quân hổ báo này, thì nhất định sẽ nghĩ ra trăm phương ngàn kế để hủy diệt họ, hủy diệt những tướng sỹ đã cùng Tần gia vào sinh ra tử để chống ngoại địch bảo vệ tổ quốc.
Ta từ từ lên tiếng “Tần gia thực sự có lỗi với họ, thế nhưng muội hy vọng có thể bảo vệ được họ.”
Tần Triệt liền nói “Đây có lẽ cũng là điều sau cùng mà huynh muội chúng ta có thể làm được.”
Ta ở lại trong Tần phủ mà mấy đời trước của chúng ta đã phấn đấu cả đời để có được một đêm sau cùng, sáng sớm hôm sau, ta lập tức hồi cung.
Quân tình phía Bắc cấp bách, Tư Đồ Lăng thậm chí còn chẳng đợi đón hết tết nguyên tiêu đã bắt đầu hành động.
Đại Nhuế, mùng bảy tháng giêng năm Hồng Duệ thứ hai, Hoàng Đế có chỉ, mười tám ngàn quân đội Tần gia chia ra đóng quân tại ba doanh trại Thần Sách, Thần Cơ và Thần Vũ, để tăng cường lực lượng bảo vệ kinh thành. Tướng lĩnh quân đội Tần gia trước đây, Tần Triết được thăng làm quan ngự sử chuyên lo chuyện vận chuyển muối tại Hà Đông. Các chủ tướng khác cũng nhậm các chức quan khác...
Tất cả đều là chức quan văn, nhưng cũng đều là những chức vụ mà những quan lại bình thường mơ ước bấy lâu. Làm vậy coi như cũng không bạc đãi bọn họ.
Đích thân ta là người đi tuyên chỉ, đồng thời phụ trách việc sắp xếp chia quân nhập ba doanh trại kia. Tất cả mọi người dường như đều nhận ra được điều khác lạ của sự việc, sỹ khí trong quân trầm hẳn xuống, có mấy tướng soái quỳ mãi trong lều không chịu rời đi.
Ta liền giữ bọn họ lại, uống rượu cả đêm trời, hát hò ca múa, sau đó lặng lẽ rời đi trong sắc đêm đen tối, để lại tất cả huynh đệ nằm ngủ say mèn trong lều.
Chiến tranh vẫn còn đang diễn ra. Bất luận là Nhu Nhiên, là Nam Lương, tương lai đều khó mà an lành.
Tư Đồ Lăng không muốn lòng quân nguội lạnh, chắc sẽ không đối xử quá đáng với những tướng lĩnh của Tần gia. Xem ra cuộc sống sau này của bọn họ cũng không quá khó khăn.
Sau khi quay về cung, Cận Đại Hữu đã đưa tới cho ta một danh sách dài, đồng thời bên cạnh cũng đề luôn quan chức ban xuống cho họ.
Đây đều là tên của những Tương Tướng lĩnh quân đội Tần gia đang đóng quân tại biên cương, có điều chuyển, có thăng chức, có người lớn tuổi cho hồi hương dưỡng lão.
Ngoài ra còn có một đạo thánh chỉ, bề ngoài thì nói sẽ để binh mã mà Đỗ Đắc Xương dẫn theo nhập vào quân đội Tần gia, giao cho Chiếu Hầu thống lãnh, nhưng lại để Đỗ Đắc Xương làm giám quân, đồng thời chỉ định cho hơn mười vị phó tướng, tham tướng... đến nhậm chức, để ta sắp xếp vào trong quân.
Cận Đại Hữu nói “Hoàng thượng nói, để cho Hoàng Hậu xem qua những thứ này, nếu có gì không thỏa đáng, có thể tự mình sửa đổi, thêm vào. Hoàng thượng còn nói, xin Hoàng hậu cứ an tâm, ngài chưa chắc là minh quân nhưng nhất định sẽ không phải là bạo quân.”
Ta bình thản đọc lại một lần, mỉm cười nói “Hoàng thượng nói đùa sao? Một đạo thánh chỉ tỏ rõ tâm ý thế này, không phải là minh quân thì còn ai có thể hạ xuống được? Xin mời Cận công công chuyển lời lại cho Hoàng thượng. Tần Vãn ta xin tuân theo thánh dụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ sau cùng này.”
Cận Đại Hữu mỉm cười gượng gạo, bê đống văn kiện này lui xuống.
Đến khi bước ra khỏi thềm cửa, Cận Đại Hữu liền cúi người, lặng lẽ đưa ống tay lên lau mắt. Người đâu phải cây cỏ, sao mà vô tình được? Ta than dài, bước ra khỏi cung Vị Ương huy hoàng, tráng lệ, nhìn ra bầu trời rộng lớn vô hạn trước mắt.
Phía Bắc, có máu nóng của ta rải đầy sa trường, cũng có các huynh đệ trong quân đồng cam cộng khổ với ta bao năm nay, nhưng cũng đã trở nên nhạt nhòa trước những nỗi uất ức, đau đớn mà ta phải chịu đựng, thậm chí còn nhẹ hơn cả đám mây trên trời kia.
Phương Nam, có ba năm kí ức mà ta đánh mất đã chẳng thể nào tìm lại, thế nhưng thứ ta quên đi chỉ là kí ức chứ không phải tình cảm.
Tình yêu sâu đậm nhất cuộc đời đã ăn sâu vào xương tủy, đến chết không thôi. Không biết cánh hoa từ đâu bay tới, phất phơ trong gió lạnh, vương lên mái tóc của ta một hồi, rồi lặng lẽ rơi xuống y phục Hoàng hậu gắn đầy trân châu phỉ thúy của ta. Khi đặt lên tay nhìn, thì ra là một cánh hoa mai Chu Sa.
Sắc hoa tiều tụy, không biết đã rời cành được bao lâu, không ngờ vẫn còn vùng vẫy, lại chẳng biết chuẩn bị bay tới nơi thanh tịnh nào khác.
Ta khẽ thả nó xuống, dùng chân ấn vào trong đất. Thực sự ngốc nghếch, nơi này đâu phải là chỗ nó nên ở lại chứ? Càng hoa lệ lại càng hiểm nguy.
Ngày hôm sau, bầu trời âm u, như thể săp có một trận bão tuyết lớn.
Các thái y liên tục đi lại giữa cung Vị Ương và viện thái y, mục đích duy nhất chính là truyền ra tin tức Tân Hoàng hậu bệnh nặng.
Không bao lâu sau, sẽ có một đạo thánh chỉ tuyên bố với toàn thiên hạ rằng, Tân Hoàng hậu mắc bệnh nặng, không trụ nổi, bất hạnh qua đời, sắc phong thụy hiệu Hoàng hậu gì gì đó, rồi cử hành quốc tang, đưa vào nhập táng trong lăng mộ. Cũng giống như Hoàng hậu Đoan Mộc đã từng ở trong cung Vị Ương, rõ ràng Đoan Mộc Hoa Hy chưa từng vào sống trong cung Vị Ương một ngày , và cả Tần Đức Phi suýt chút nữa có thể vào sống trong cung Vị Ương nhưng cam nguyện thất sủng một đời.
Chết không nhìn thấy mặt trời, nhưng lại được chôn cất một cách quang minh chính đại.
Lúc này, ta đã thay sang y phục của võ tướng, lãnh thánh chỉ, tiến về điện Vũ Anh để khấu biệt thánh giá. Kể từ lần giao ước mười ngày cùng Tư Đồ Lăng rồi đi về phương Nam, đến nay, đã hơn nửa tháng trời chúng ta chưa hề gặp mặt.
Ngài vẫn thích một mình ở trong đại điện nguy nga mà lạnh giá, đơn côi, không giữ bất cứ một cung nữ, thái giám nào, lặng lẽ ngồi trên long ỷ.
Cận Đại Hữu đẩy cánh cửa lớn, dẫn ta đi vào, trong điện tối tăm, ta gần như chẳng thể nhìn rõ khuôn mặt của người ngồi trên bảo tọa. Thế nhưng nhìn vào thường phục Đế vương thêu rồng thêu phượng cùng thân hình rắn chắc, cao lớn đó, ta đã biết ngay đó chính là ngài.
Ta khấu bái xong, ngài không hề động đậy, thậm chí còn chẳng hề nói lấy một câu ‘bình thân’.
Ta đành hạ giọng lên tiếng “Hoàng thượng, thần phải đi rồi. Nếu Hoàng thượng không còn lời nào dặn dò khác, thần sẽ rời khỏi kinh thành luôn, tuyệt đối... sẽ không bao giờ xuất hiện trước mặt Hoàng thượng thêm lần nào nữa.”
Thân người ngài cứng sựng, vẫn không nói tiếng nào. Cận Đại Hữu nhìn ta lo lắng, lại nhìn về phía ngài, lúc khom người xuống định nói gì, cuối cùng ngài đã lên tiếng.
“Tần Vãn.”
Giọng nói trầm lắng mà mệt mỏi, thậm chí là... già nua. Dường như ngài đã vất vả mấy đêm trời không ngủ, giống như chỉ trong nửa tháng thôi mà ngài đã già đi hai mươi tuổi vậy.
Ta ngước đầu, đột nhiên hy vọng có thể nhìn thấy dáng vẻ trước kia của ngài. Mặt như ngọc tạc, trầm lặng, chín chắn, thi thoảng lại ngước mắt nhìn ta mỉm cười, mắt sáng như sao trời, toàn thân toát lên vẻ lạnh lùng, giống như đại sư huynh biết yêu thương, ra sức bảo vệ sư đệ sư muội của mình trên núi Tử Nha năm nào.
Thế nhưng các cửa sổ đều bị đóng kín, sắc trời âm u chẳng thể nào chiếu ánh sáng vào trong, khiến cho cả đại điện cực kỳ tối tăm.
Ta chẳng thể nào nhìn rõ được khuôn mặt cũng như thần thái của ngài nữa chỉ có thể nghe được nhịp thở nặng nề của ngài, sau đó là giọng nói dõng dạc vang lên “Trẫm hy vọng, Hoàng hậu của trẫm có thể tỉnh lại, cùng trẫm tận hưởng phú quý trăm năm, cùng hưởng thái bình thịnh trị.”
Đại điện nguy nga tráng lệ, vang vọng giọng nói trầm lắng của ngài, âm cuối cùng kéo dài mãi, nghe mà bi thương, tuyệt vọng làm sao.
Ta ngảng đầu lên, chỉ nói ra vài từ “Sống chết có số, phú quý do trời. Xin Hoàng thượng bảo trọng.”
Đứng dậy, ta tự kéo cánh cửa to lớn, bước ra ngoài mà không hề quay đầu nhìn lại, rời khỏi đại điện, bước xuống thềm, đi về con đường mà ngài đã định sẵn cho mình.
Đại điện sau lưng vẫn tĩnh lặng vô thanh. Giống như ngôi miếu đứng trên chúng sinh, cao cao tại thượng, nhưng chẳng có một bóng người.
Đại Nhuế, ngày mười ba tháng giêng năm Hồng Duệ thứ hai, thánh chỉ truyền tới doanh trại của quân đội Tần gia đang giao chiến kịch liệt cùng quân Nhu Nhiên. Mọi người kinh ngạc, thậm chí còn nhiều lần tỏ ra kích động. Thế nhưng lúc này chủ tướng đã ở trong quân, đích thân an ủi lòng quân, ra sức tuân theo mong muốn của thánh quân, cưỡng ép mọi người phải thực hiện theo thánh chỉ. Các tướng dưới quyền Tần gia đã biết Tần gia công cao át chủ, Đế vương chẳng thể chấp nhận, âm thầm chia rẽ, tất cả đều tỏ ra bất bình, nhưng mọi người đều là võ phu hữu dũng vô mưu, nhiều người khuyên chủ tướng tự lập môn hộ.
Ngày mười bảy tháng giêng, đại quân Nhu Nhiên thâm nhập vào U Châu, quân đội Tần gia đã hợp lực cùng đoàn quân của Đỗ Đắc Xương anh dũng chống lại, đẩy lùi giặc Nhu Nhiên ra khỏi địa phận núi Yến Nhiên. Đỗ Đắc Xương không đợi viện binh tiến lên đã đề nghị thừa tháng xông lên.
Hắn nói “Giặc Nhu Nhiên kiên trì xâm nhập, đây đều là chủ ý của Tả Hiền Vương bên chúng. Hiện nay nhân lúc chủ lực của bọn chúng bị đánh tán loạn, chúng ta chia ra tấn công, giết chết Tả Hiền Vương đó rồi tính sau. Chúng ta binh hùng tướng mạnh, một khi phát hiện ra bóng dáng của quân thù, lập tức sẽ báo cho đội binh mã khác, hợp lực bao vây, như vậy cũng sẽ kịp thời ứng phó.”
Phía sau liền có tướng lĩnh âm thầm máng nhiếc “Cho chết.”
Ta liếc mắt nhìn viên tướng đó, ra hiệu im miệng rồi nói với Đỗ Đắc Xương “Được.”
Dẫn theo một đội kị binh hơn ngàn người, ta đi men theo con đường mà Đỗ Đắc Xương đề nghị trước đó, chẳng hề bất ngờ khi nhanh chóng rơi vào trùng trùng bao vây của giặc Nhu Nhiên.
Đối diện với quân địch nhiều hơn gấp mười, thậm chí hai mươi lần, binh mã Tần gia chúng ta dẫn theo, vẫn hung hãn thiện chiến khiến người khác phải khiếp sợ.
Bọn họ vẫn dùng thân thể của mình kết thành bức tường máu, mở ra một con đường để cho mười mấy thân binh đưa theo ta xông ra ngoài. Thấm đẫm máu tươi thoát ra khỏi trùng vây, ta đã đánh mất bảo kiếm Thừa Ảnh trong trận hỗn chiến, lập tức cho ngựa dừng lại bên gò đất, quay người nhìn vào những ánh đao sắc nhọn cùng thân hình quen thuộc dần dần biến mất trong biển máu, mỉm cười khổ sở.
Các thân binh bên cạnh hổn hển thét lớn “Tướng quân, chúng ta mau chạy thôi. Bọn chúng hình như đã phát hiện ra thân phận của tướng quân, lại xông về phía này rồi.”
Ta khẽ than “Đợi chốc nữa có cơ hội, các ngươi hãy đường ai nấy đi. Cũng không cần phải quay về quân doanh nữa... hãy quay về quê hương cày ruộng hưởng thái bình đi.”
Mọi người lặng đi, máu tươi trên người vẫn không ngừng chảy xuống mặt đất rồi biến mất.
Sau đó, có người phẫn uất thét lên “Tại sao tướng quân lại phải nói lời thối chí như vậy? Binh mã tinh nhuệ, dũng mãnh nhất của Tần gia đều vẫn còn. Chỉ cần tướng quân ra lệnh một câu, chém đứt đầu chó của tên họ Xã kia, trước tiên chiếm lấy U Châu, Tề Châu, lại tấn công Tấn Châu, trước có Hổ Hiệp Quan, sau có núi Yến Nhiên, xem giặc Nhu Nhiên với tên cẩu Hoàng đế kia có thể làm gì quân đội Tần gia chúng ta?”
“Tần gia...” Ta nhìn về phía Đông Nam, hoảng hốt nhìn về hàng ngàn con phố, gấm lụa phồn hoa, cung điện nguy nga ở Bắc Đô.
Ta khẽ lên tiếng “Tần gia trăm năm đến đây là hết.”
Thỏa mối hận của ngài, trả lại ân tình cho ngài, như vậy chắc là đủ rồi.
Ánh trăng bên núi Yến Nhiên, trắng xóa như tuyết. Ta cũng chẳng cần thiết phải kéo theo nhiều người hơn nữa đi xuống suối vàng cùng mình. Dưới kia, bóng đen rầm rộ, binh mã Nhu Nhiên đang hùng hổ xông tới.
Ta âm thầm nghe bọn chúng đang gào thét “Tả Hiền Vương có lệnh, nhất định phải bắt sống được Tần Vãn. Nhất định phải bắt sống được Tần Vãn.”
Bắt sống Tần Vãn, bắt sống Tần Vãn... Thì ra người cùng quốc gia còn mong ta chết đi hơn là kẻ ở địch quốc.
“Đi thôi, ta sẽ đưa các ngươi xông ra ngoài.”
Ta lấy ra túi gấm thêu hoa mai trong người, lấy bông hoa Giải Ưu kia ngậm trong miệng, sau đó nhấc cây thương bạc sáng lóa lên, thúc ngựa xông ra khỏi mỏm đất còn chưa bị giặc Nhu Nhiên vây kín.
“Được thôi, chúng ta cùng xông ra, cùng sống chết bên nhau.”
Gió lạnh nổi lên, ngựa hí bi thương, nam nhi quyết chí anh hùng. Thế nhưng nhìn thấy mũi dao sắc nhọn, trường kiếm tung ra, chỉ có mười mấy kị binh, thực sự chẳng thể phân định rõ là ai đang thét vào mặt quân thù nữa.
Tay nâng thương bạc, quân địch ngã xuống dưới chân ngựa chiến... Đao kiếm giao tranh, vết thương lại trào máu tươi... Như một chiếc thuyền bị cuốn vào biển lớn, chìm chìm nổi nổi, hoặc là vượt qua sóng lớn, hoặc là chìm xuống đáy sau. Thế nào cũng chỉ là một nạn kiếp mà thôi.
Ta đã đau đớn và mỏi mệt đến mức mất hết tri giác, trái tim thảng thốt vì tiếng chém giết, thét gào, cả người tỏa sáng giống như đang đứng trong ánh nắng rực rỡ của mùa xuân.
Đột nhiên ta đã trở về Giang Nam. Giang Nam cỏ mọc xanh mướt ánh trăng thanh tịnh như nước.
Ta mơ màng nằm trong lòng của người thiếu niên xa lạ, ngửi mùi hương dịu dàng tựa hoa mai của chàng, hoàn toàn khác biệt với Lăng sư huynh và Vĩnh sư đệ...
Trong rừng trúc, chàng đột nhiên trở nên xấu xa, khiến ta hoang mang sợ hãi, nhưng cũng chẳng ngăn được niềm vui sướng trào dâng mạnh mẽ, truyền đi khắp các nơi trong người...
Ánh mắt của chàng chứa một ma lực đáng sợ, chàng khẽ nói “Nàng là Doanh Doanh, nàng là của ta, nàng chính là... thê tử... của Thuần Vu Vọng ta.”
Ta vừa sợ hãi, vừa thẹn thùng lại vừa phẫn nộ đẩy chàng ra, mắt lệ long lanh, cắn lên vai chàng. Lúc này chân tay chàng luống cuống lau nước mắt cho ta, dáng vẻ đó cũng rất xấu hổ, hối hận...
Ta vui vẻ chạy khắp núi thẳm, lấy cành cây đánh cho người thiếu niên trẻ tuổi ôm đầu, gào thét vì đau đớn mà vẫn chẳng chịu rời đi...
Chàng nằm bên đá núi với phần đầu đầy máu, không nói năng, chẳng động đậy, ta như rơi vào nỗi hoảng sợ, hoang mang vô ngần, bỗng nhiên phát hiện ra rằng, ta đã chẳng thể nào rời khỏi chàng, dù chỉ trong chốc lát...
Chúng ta nhanh chóng có một bé gái...
Ta nói, chúng ta hãy sinh thêm một bé trai nhé...
Chàng nói, chúng ta hãy cùng luyện kiếm pháp...
Sơ Ảnh, Ám Hương...
Mai bay ngợp trời, tiếng cười đầy tai...
“Doanh Doanh, Doanh Doanh, nàng chính là Doanh Doanh của ta...”
Chàng gọi ta, trong tay đang dắt theo Tương Tư mỉm cười tươi tắn bước về chỗ ta. Thế nhưng chúng ta lại bị ngăn cách bởi một lớp sương trắng lạnh giá, mờ ảo, chẳng thể nào nhìn rõ được nhau.
Ta vẫn nghe thấy Tương Tư đang khóc gọi “Mẫu thân, mẫu thân, đến bao giờ người mới quay về?”
“A Vọng, Tương Tư...”
Ta khẽ thét lên, quất vào lưng ngựa như điên, xông thẳng về phía trước, xông về màn sương lạnh giá ngăn cách ta đi về phía Thuần Vu Vọng và Tương Tư, vứt bỏ tất cả những người và vật cản trở ta...
Con ngựa đau đớn, cũng hí lên điên cuồng, đưa ta tiến nhanh về phía trước.
Ta vẫn loáng thoáng nghe thấy có người đang vẫy gọi, có người đang gào thét.
Đám giặc Nhu Nhiên dường như đang nói, trước mặt là vực thẳm, vực thẳm...
Vực thẳm... Ta đã phi tới bên bờ vực thẳm từ lâu rồi. Chẳng còn đường đi, cũng chẳng thể lùi lại, chỉ có thể xông thẳng về trước...
Khi con ngựa hí dài một tiếng, cơ thể ta đột nhiên nhẹ bẫng, thoải mái. Ta cuối cùng đã có thể thoát ra khỏi không gian bé nhỏ đã vây khốn mình bao năm, bay ra khỏi màn đêm lạnh giá đáng sợ. Cả bầu trời đều hiện lên trước mắt, gốc mai già bên vực thẳm rung động, cánh hoa ngợp trời.
Ta khẽ mỉm cười “A Vọng, hãy xem kiếm pháp Ám Hương của ta.”
Ngài quay sang mặt sang hỏi “Kiếp sau sao? Quá là muộn. Ta không muốn đợi đến kiếp sau.”
Ta mỉm cười dịu dàng “Vậy thì, chỉ kiếp này mà thôi.”
Ngài nhìn về phía ta. Ta tựa sát vào ngài rồi khẽ cất tiếng “Ta sẽ không lưu luyến công danh nữa. Ta sẽ giải quyết gọn tất cả mọi thứ, sau đó, tìm cơ hội bỏ đi khi hỗn chiến trên sa trường. Chàng nhất định phải chờ ta đấy!”
Ngài nghe vậy không khỏi bán tín bán nghi.
Lời nói này thì Tương Tư có thể nghe hiểu được. Cô bé trợn mắt nhìn ta, bất mãn lên tiếng “Mẫu thân còn phải đi nữa sao? Con không để cho mẫu thân đi đâu. Phụ vương, phụ vương, người cũng nhất định không được để mẫu thân đi nữa? Con muốn ngày nào cũng được ngủ với mẫu thân, ngày nào cũng được ở bên mẫu thân.”
Tương Tư vừa nói vừa ngáp dài, nghiêng người tựa vào ta.
Thuần Vu Vọng lặng người, sau đó cúi người bế Tương Tư đặt lên giường, sau chập choạng quay lại. Ngài nhìn ta bằng ánh mắt cay đắng, tràn đầy vẻ đau khổ, bi thương, không cam tâm mà cũng chẳng dám tin.
“Không ngờ... chúng ta lại chỉ có được nửa ngày?”
Thân thể ngài lay động, rồi ngủ thiếp đi cạnh bên Tương Tư.
Ta quay người dập tắt nén hương đã được lén tẩm thuốc mê liều cao, ngồi bên giường lặng lẽ ngắm dáng vẻ hai phụ tử khi ngủ. Một người là tướng công của ta, một người là con gái của ta. Thế nhưng chỉ có nửa ngày, ta thực sự chỉ có thời gian nửa ngày bên cạnh họ mà thôi.
Lúc tới đây, ta ngồi xe ngựa, cho nên đã tốn khá nhiều thời gian, sáu ngày đã trôi qua.
Bên ngoài thành Bắc Đô vẫn còn mười tám ngàn quân đội Tần gia, bị vây khốn bởi binh đoàn đông gấp năm lần được điều khiển trực tiếp bởi Hoàng Đế. Huynh trưởng của ta vẫn bị giam lỏng trong Tần phủ, chẳng thể nào bước ra ngoài nửa bước. Tất cả những người trong tộc đi lại thân thiết với Tần gia đều bị giám sát chặt chẽ. Ta chẳng thể nào buông tay từ bỏ tính mạng của người thân và thuộc hạ.
Ta bỏ lại Thẩm Tiểu Phong cùng con ngựa Tử Lệ đã theo ta nhiều năm ở đây, một mình một ngựa rời khỏi Ly Sơn, rời khỏi gia đình của mình trong một đêm giao thừa mà vạn nhà đoàn tụ trong tiếng pháo đì đùng.
Trong truyền thuyết cổ xưa, trong đêm giao thừa, một con quái vật có tên ‘Niên’ sẽ xuất hiện, bất cứ ai xuất môn đều gặp phải điều bất lợi. Thế nhưng ta chẳng còn lựa chọn nào khác.
Thẩm Tiểu Phong dù có đau lòng đến mấy cũng sẽ không ngăn ta lại, người nàng yêu thương nhất trên đời còn đang ở Bắc Đô, nàng nhất định phải chờ ta mang lại cho nàng tia hi vọng.
Ta để lại cho Thuần Vu Vọng một phong thư, lại dặn Thẩm Tiểu Phong nhất định phải nghĩ ra mọi cách để giữ ngài lại.
Ta thực sự không hy vọng ngài sẽ cùng ta xuống suối vàng, cũng không hi vọng ngài đặt chân lên con đường đẫm máu và xác chết dẫn tới Đế cung, lấy tính mạng của tất cả mọi người trong hoàng tộc Đại Nhuế để tuẫn táng theo ta.
Thẩm Tiểu Phong sẽ nói với ngài, lúc ta ra đời, trong phòng đã tràn đầy mùi hương hoa mai, ngay cả cây mai bên ngoài phòng cũng nở rộ đầy hoa chỉ trong một đêm. Vị thầy bói có tiếng nhất Đại Nhuế từng phán, kiếp trước của ta chính là tinh linh hoa mai, cho nên kiếp này luôn luôn có duyên với hoa mai.
Trong thư ta có nhờ ngài thay ta chăm sóc cho Thẩm Tiểu Phong cùng đứa bé trong bụng nàng, đó là giọt máu sau cùng của Tần gia chúng ta.
Ta nói, ta nhất định sẽ quay về tìm ngài, xin ngài hãy chờ đợi ta. Nếu phương Bắc truyền về tin dữ, thì đó chỉ là kế sách của ta, không cần phải lo lắng. Trừ phi có một ngày, hoa mai ở Giang Nam Giang Bắc đều tàn lụi thì đó mới là lúc ta chết.
Truyền thuyết tinh linh hoa mai chuyển thế gì đó, ngài nhất định sẽ không tin, thế nhưng Thẩm Tiểu Phong ở lại nơi này, lên tiếng đưa đẩy, cũng có thể khiến ngài sinh lòng bán tín bán nghi.
Chỉ cần trong lòng ngái còn có chút nghi vấn, như vậy là đủ rồi. Ngài có Tương Tư ở bên cạnh bầu bạn, chắc chắn sẽ không đơn độc. Với tính cách của ngài, ta cũng chẳng mong ngóng ngài có thể tìm được người mẫu thân khác cho Tương Tư. Cứ như vậy, hai phụ tử dựa vào nhau tiếp tục sống trong an bình, hạnh phúc, ta cũng chẳng còn gì phải lo lắng, luyến lưu hồng trần nữa.
Lúc quay về Bắc Đô, vừa đúng là chiều muộn ngày thứ mười, cũng là mùng bốn tháng giêng. Trước tiên ta quay về Tần Phủ gặp Tần Triệt. Nhị ca nghe tin Thẩm Tiểu Phong đã có thai, lại ở Nam Lương bình an, cũng thở phào nhẹ nhõm, nhưng âm thầm than dài “Vãn Vãn, muội nói xem, nếu tổ phụ và phụ thân biết được, bọn họ đã tốn biết bao công sức, đổi lại chính là hậu đại của mình chẳng thể nào đứng vững tại Đại Nhuế, liệu có còn làm như vậy nữa không?”
Ta liền đáp “Muội không biết. Thế nhưng nếu muội còn cơ hội, nhất định sẽ rời khỏi Tần gia, rời khỏi... nơi này.” Ta chỉ về phía hoàng cung rồi nói.
Tần Triệt im lặng một hồi lâu rồi nói “Ta cũng vậy.”
Sau đó, Nhị ca lại nói thêm “Đáng tiếc, chúng ta không còn cơ hội nữa rồi. Biên cương phía Bắc đã truyền tin cấp báo, quân Nhu Nhiên đã vượt núi Yến Nhiên, tiến thẳng vào U Châu. Hoàng thượng đã phái Đỗ Đắc Xương dẫn theo hai mươi vạn binh mã tới ứng cứu, đồng thời cũng truyền chỉ quân đội Tần gia phải nghe theo sự điều động của Đỗ Đắc Xương...”
Quân đội Tần gia lúc này như quần long không đầu, có nhiều thuộc hạ tính cách cương liệt, không nghe theo điều động, Đỗ Đắc Xương đó có thể lấy cớ là kháng chỉ thánh thượng mà không đưa quân tới cứu viện, thậm chí coi họ là những cái gai trong mắt, để họ chết trong tay của giặc Nhu Nhiên. Cũng có những thuộc hạ miễn cưỡng tiếp nhận điều động, Đỗ Đắc Xương vẫn đưa họ lên tiền tuyến để chống lại giặc Nhu Nhiên…
Nếu Tư Đồ Lăng không thể hoàn toàn nắm chắc được đội quân hổ báo này, thì nhất định sẽ nghĩ ra trăm phương ngàn kế để hủy diệt họ, hủy diệt những tướng sỹ đã cùng Tần gia vào sinh ra tử để chống ngoại địch bảo vệ tổ quốc.
Ta từ từ lên tiếng “Tần gia thực sự có lỗi với họ, thế nhưng muội hy vọng có thể bảo vệ được họ.”
Tần Triệt liền nói “Đây có lẽ cũng là điều sau cùng mà huynh muội chúng ta có thể làm được.”
Ta ở lại trong Tần phủ mà mấy đời trước của chúng ta đã phấn đấu cả đời để có được một đêm sau cùng, sáng sớm hôm sau, ta lập tức hồi cung.
Quân tình phía Bắc cấp bách, Tư Đồ Lăng thậm chí còn chẳng đợi đón hết tết nguyên tiêu đã bắt đầu hành động.
Đại Nhuế, mùng bảy tháng giêng năm Hồng Duệ thứ hai, Hoàng Đế có chỉ, mười tám ngàn quân đội Tần gia chia ra đóng quân tại ba doanh trại Thần Sách, Thần Cơ và Thần Vũ, để tăng cường lực lượng bảo vệ kinh thành. Tướng lĩnh quân đội Tần gia trước đây, Tần Triết được thăng làm quan ngự sử chuyên lo chuyện vận chuyển muối tại Hà Đông. Các chủ tướng khác cũng nhậm các chức quan khác...
Tất cả đều là chức quan văn, nhưng cũng đều là những chức vụ mà những quan lại bình thường mơ ước bấy lâu. Làm vậy coi như cũng không bạc đãi bọn họ.
Đích thân ta là người đi tuyên chỉ, đồng thời phụ trách việc sắp xếp chia quân nhập ba doanh trại kia. Tất cả mọi người dường như đều nhận ra được điều khác lạ của sự việc, sỹ khí trong quân trầm hẳn xuống, có mấy tướng soái quỳ mãi trong lều không chịu rời đi.
Ta liền giữ bọn họ lại, uống rượu cả đêm trời, hát hò ca múa, sau đó lặng lẽ rời đi trong sắc đêm đen tối, để lại tất cả huynh đệ nằm ngủ say mèn trong lều.
Chiến tranh vẫn còn đang diễn ra. Bất luận là Nhu Nhiên, là Nam Lương, tương lai đều khó mà an lành.
Tư Đồ Lăng không muốn lòng quân nguội lạnh, chắc sẽ không đối xử quá đáng với những tướng lĩnh của Tần gia. Xem ra cuộc sống sau này của bọn họ cũng không quá khó khăn.
Sau khi quay về cung, Cận Đại Hữu đã đưa tới cho ta một danh sách dài, đồng thời bên cạnh cũng đề luôn quan chức ban xuống cho họ.
Đây đều là tên của những Tương Tướng lĩnh quân đội Tần gia đang đóng quân tại biên cương, có điều chuyển, có thăng chức, có người lớn tuổi cho hồi hương dưỡng lão.
Ngoài ra còn có một đạo thánh chỉ, bề ngoài thì nói sẽ để binh mã mà Đỗ Đắc Xương dẫn theo nhập vào quân đội Tần gia, giao cho Chiếu Hầu thống lãnh, nhưng lại để Đỗ Đắc Xương làm giám quân, đồng thời chỉ định cho hơn mười vị phó tướng, tham tướng... đến nhậm chức, để ta sắp xếp vào trong quân.
Cận Đại Hữu nói “Hoàng thượng nói, để cho Hoàng Hậu xem qua những thứ này, nếu có gì không thỏa đáng, có thể tự mình sửa đổi, thêm vào. Hoàng thượng còn nói, xin Hoàng hậu cứ an tâm, ngài chưa chắc là minh quân nhưng nhất định sẽ không phải là bạo quân.”
Ta bình thản đọc lại một lần, mỉm cười nói “Hoàng thượng nói đùa sao? Một đạo thánh chỉ tỏ rõ tâm ý thế này, không phải là minh quân thì còn ai có thể hạ xuống được? Xin mời Cận công công chuyển lời lại cho Hoàng thượng. Tần Vãn ta xin tuân theo thánh dụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ sau cùng này.”
Cận Đại Hữu mỉm cười gượng gạo, bê đống văn kiện này lui xuống.
Đến khi bước ra khỏi thềm cửa, Cận Đại Hữu liền cúi người, lặng lẽ đưa ống tay lên lau mắt. Người đâu phải cây cỏ, sao mà vô tình được? Ta than dài, bước ra khỏi cung Vị Ương huy hoàng, tráng lệ, nhìn ra bầu trời rộng lớn vô hạn trước mắt.
Phía Bắc, có máu nóng của ta rải đầy sa trường, cũng có các huynh đệ trong quân đồng cam cộng khổ với ta bao năm nay, nhưng cũng đã trở nên nhạt nhòa trước những nỗi uất ức, đau đớn mà ta phải chịu đựng, thậm chí còn nhẹ hơn cả đám mây trên trời kia.
Phương Nam, có ba năm kí ức mà ta đánh mất đã chẳng thể nào tìm lại, thế nhưng thứ ta quên đi chỉ là kí ức chứ không phải tình cảm.
Tình yêu sâu đậm nhất cuộc đời đã ăn sâu vào xương tủy, đến chết không thôi. Không biết cánh hoa từ đâu bay tới, phất phơ trong gió lạnh, vương lên mái tóc của ta một hồi, rồi lặng lẽ rơi xuống y phục Hoàng hậu gắn đầy trân châu phỉ thúy của ta. Khi đặt lên tay nhìn, thì ra là một cánh hoa mai Chu Sa.
Sắc hoa tiều tụy, không biết đã rời cành được bao lâu, không ngờ vẫn còn vùng vẫy, lại chẳng biết chuẩn bị bay tới nơi thanh tịnh nào khác.
Ta khẽ thả nó xuống, dùng chân ấn vào trong đất. Thực sự ngốc nghếch, nơi này đâu phải là chỗ nó nên ở lại chứ? Càng hoa lệ lại càng hiểm nguy.
Ngày hôm sau, bầu trời âm u, như thể săp có một trận bão tuyết lớn.
Các thái y liên tục đi lại giữa cung Vị Ương và viện thái y, mục đích duy nhất chính là truyền ra tin tức Tân Hoàng hậu bệnh nặng.
Không bao lâu sau, sẽ có một đạo thánh chỉ tuyên bố với toàn thiên hạ rằng, Tân Hoàng hậu mắc bệnh nặng, không trụ nổi, bất hạnh qua đời, sắc phong thụy hiệu Hoàng hậu gì gì đó, rồi cử hành quốc tang, đưa vào nhập táng trong lăng mộ. Cũng giống như Hoàng hậu Đoan Mộc đã từng ở trong cung Vị Ương, rõ ràng Đoan Mộc Hoa Hy chưa từng vào sống trong cung Vị Ương một ngày , và cả Tần Đức Phi suýt chút nữa có thể vào sống trong cung Vị Ương nhưng cam nguyện thất sủng một đời.
Chết không nhìn thấy mặt trời, nhưng lại được chôn cất một cách quang minh chính đại.
Lúc này, ta đã thay sang y phục của võ tướng, lãnh thánh chỉ, tiến về điện Vũ Anh để khấu biệt thánh giá. Kể từ lần giao ước mười ngày cùng Tư Đồ Lăng rồi đi về phương Nam, đến nay, đã hơn nửa tháng trời chúng ta chưa hề gặp mặt.
Ngài vẫn thích một mình ở trong đại điện nguy nga mà lạnh giá, đơn côi, không giữ bất cứ một cung nữ, thái giám nào, lặng lẽ ngồi trên long ỷ.
Cận Đại Hữu đẩy cánh cửa lớn, dẫn ta đi vào, trong điện tối tăm, ta gần như chẳng thể nhìn rõ khuôn mặt của người ngồi trên bảo tọa. Thế nhưng nhìn vào thường phục Đế vương thêu rồng thêu phượng cùng thân hình rắn chắc, cao lớn đó, ta đã biết ngay đó chính là ngài.
Ta khấu bái xong, ngài không hề động đậy, thậm chí còn chẳng hề nói lấy một câu ‘bình thân’.
Ta đành hạ giọng lên tiếng “Hoàng thượng, thần phải đi rồi. Nếu Hoàng thượng không còn lời nào dặn dò khác, thần sẽ rời khỏi kinh thành luôn, tuyệt đối... sẽ không bao giờ xuất hiện trước mặt Hoàng thượng thêm lần nào nữa.”
Thân người ngài cứng sựng, vẫn không nói tiếng nào. Cận Đại Hữu nhìn ta lo lắng, lại nhìn về phía ngài, lúc khom người xuống định nói gì, cuối cùng ngài đã lên tiếng.
“Tần Vãn.”
Giọng nói trầm lắng mà mệt mỏi, thậm chí là... già nua. Dường như ngài đã vất vả mấy đêm trời không ngủ, giống như chỉ trong nửa tháng thôi mà ngài đã già đi hai mươi tuổi vậy.
Ta ngước đầu, đột nhiên hy vọng có thể nhìn thấy dáng vẻ trước kia của ngài. Mặt như ngọc tạc, trầm lặng, chín chắn, thi thoảng lại ngước mắt nhìn ta mỉm cười, mắt sáng như sao trời, toàn thân toát lên vẻ lạnh lùng, giống như đại sư huynh biết yêu thương, ra sức bảo vệ sư đệ sư muội của mình trên núi Tử Nha năm nào.
Thế nhưng các cửa sổ đều bị đóng kín, sắc trời âm u chẳng thể nào chiếu ánh sáng vào trong, khiến cho cả đại điện cực kỳ tối tăm.
Ta chẳng thể nào nhìn rõ được khuôn mặt cũng như thần thái của ngài nữa chỉ có thể nghe được nhịp thở nặng nề của ngài, sau đó là giọng nói dõng dạc vang lên “Trẫm hy vọng, Hoàng hậu của trẫm có thể tỉnh lại, cùng trẫm tận hưởng phú quý trăm năm, cùng hưởng thái bình thịnh trị.”
Đại điện nguy nga tráng lệ, vang vọng giọng nói trầm lắng của ngài, âm cuối cùng kéo dài mãi, nghe mà bi thương, tuyệt vọng làm sao.
Ta ngảng đầu lên, chỉ nói ra vài từ “Sống chết có số, phú quý do trời. Xin Hoàng thượng bảo trọng.”
Đứng dậy, ta tự kéo cánh cửa to lớn, bước ra ngoài mà không hề quay đầu nhìn lại, rời khỏi đại điện, bước xuống thềm, đi về con đường mà ngài đã định sẵn cho mình.
Đại điện sau lưng vẫn tĩnh lặng vô thanh. Giống như ngôi miếu đứng trên chúng sinh, cao cao tại thượng, nhưng chẳng có một bóng người.
Đại Nhuế, ngày mười ba tháng giêng năm Hồng Duệ thứ hai, thánh chỉ truyền tới doanh trại của quân đội Tần gia đang giao chiến kịch liệt cùng quân Nhu Nhiên. Mọi người kinh ngạc, thậm chí còn nhiều lần tỏ ra kích động. Thế nhưng lúc này chủ tướng đã ở trong quân, đích thân an ủi lòng quân, ra sức tuân theo mong muốn của thánh quân, cưỡng ép mọi người phải thực hiện theo thánh chỉ. Các tướng dưới quyền Tần gia đã biết Tần gia công cao át chủ, Đế vương chẳng thể chấp nhận, âm thầm chia rẽ, tất cả đều tỏ ra bất bình, nhưng mọi người đều là võ phu hữu dũng vô mưu, nhiều người khuyên chủ tướng tự lập môn hộ.
Ngày mười bảy tháng giêng, đại quân Nhu Nhiên thâm nhập vào U Châu, quân đội Tần gia đã hợp lực cùng đoàn quân của Đỗ Đắc Xương anh dũng chống lại, đẩy lùi giặc Nhu Nhiên ra khỏi địa phận núi Yến Nhiên. Đỗ Đắc Xương không đợi viện binh tiến lên đã đề nghị thừa tháng xông lên.
Hắn nói “Giặc Nhu Nhiên kiên trì xâm nhập, đây đều là chủ ý của Tả Hiền Vương bên chúng. Hiện nay nhân lúc chủ lực của bọn chúng bị đánh tán loạn, chúng ta chia ra tấn công, giết chết Tả Hiền Vương đó rồi tính sau. Chúng ta binh hùng tướng mạnh, một khi phát hiện ra bóng dáng của quân thù, lập tức sẽ báo cho đội binh mã khác, hợp lực bao vây, như vậy cũng sẽ kịp thời ứng phó.”
Phía sau liền có tướng lĩnh âm thầm máng nhiếc “Cho chết.”
Ta liếc mắt nhìn viên tướng đó, ra hiệu im miệng rồi nói với Đỗ Đắc Xương “Được.”
Dẫn theo một đội kị binh hơn ngàn người, ta đi men theo con đường mà Đỗ Đắc Xương đề nghị trước đó, chẳng hề bất ngờ khi nhanh chóng rơi vào trùng trùng bao vây của giặc Nhu Nhiên.
Đối diện với quân địch nhiều hơn gấp mười, thậm chí hai mươi lần, binh mã Tần gia chúng ta dẫn theo, vẫn hung hãn thiện chiến khiến người khác phải khiếp sợ.
Bọn họ vẫn dùng thân thể của mình kết thành bức tường máu, mở ra một con đường để cho mười mấy thân binh đưa theo ta xông ra ngoài. Thấm đẫm máu tươi thoát ra khỏi trùng vây, ta đã đánh mất bảo kiếm Thừa Ảnh trong trận hỗn chiến, lập tức cho ngựa dừng lại bên gò đất, quay người nhìn vào những ánh đao sắc nhọn cùng thân hình quen thuộc dần dần biến mất trong biển máu, mỉm cười khổ sở.
Các thân binh bên cạnh hổn hển thét lớn “Tướng quân, chúng ta mau chạy thôi. Bọn chúng hình như đã phát hiện ra thân phận của tướng quân, lại xông về phía này rồi.”
Ta khẽ than “Đợi chốc nữa có cơ hội, các ngươi hãy đường ai nấy đi. Cũng không cần phải quay về quân doanh nữa... hãy quay về quê hương cày ruộng hưởng thái bình đi.”
Mọi người lặng đi, máu tươi trên người vẫn không ngừng chảy xuống mặt đất rồi biến mất.
Sau đó, có người phẫn uất thét lên “Tại sao tướng quân lại phải nói lời thối chí như vậy? Binh mã tinh nhuệ, dũng mãnh nhất của Tần gia đều vẫn còn. Chỉ cần tướng quân ra lệnh một câu, chém đứt đầu chó của tên họ Xã kia, trước tiên chiếm lấy U Châu, Tề Châu, lại tấn công Tấn Châu, trước có Hổ Hiệp Quan, sau có núi Yến Nhiên, xem giặc Nhu Nhiên với tên cẩu Hoàng đế kia có thể làm gì quân đội Tần gia chúng ta?”
“Tần gia...” Ta nhìn về phía Đông Nam, hoảng hốt nhìn về hàng ngàn con phố, gấm lụa phồn hoa, cung điện nguy nga ở Bắc Đô.
Ta khẽ lên tiếng “Tần gia trăm năm đến đây là hết.”
Thỏa mối hận của ngài, trả lại ân tình cho ngài, như vậy chắc là đủ rồi.
Ánh trăng bên núi Yến Nhiên, trắng xóa như tuyết. Ta cũng chẳng cần thiết phải kéo theo nhiều người hơn nữa đi xuống suối vàng cùng mình. Dưới kia, bóng đen rầm rộ, binh mã Nhu Nhiên đang hùng hổ xông tới.
Ta âm thầm nghe bọn chúng đang gào thét “Tả Hiền Vương có lệnh, nhất định phải bắt sống được Tần Vãn. Nhất định phải bắt sống được Tần Vãn.”
Bắt sống Tần Vãn, bắt sống Tần Vãn... Thì ra người cùng quốc gia còn mong ta chết đi hơn là kẻ ở địch quốc.
“Đi thôi, ta sẽ đưa các ngươi xông ra ngoài.”
Ta lấy ra túi gấm thêu hoa mai trong người, lấy bông hoa Giải Ưu kia ngậm trong miệng, sau đó nhấc cây thương bạc sáng lóa lên, thúc ngựa xông ra khỏi mỏm đất còn chưa bị giặc Nhu Nhiên vây kín.
“Được thôi, chúng ta cùng xông ra, cùng sống chết bên nhau.”
Gió lạnh nổi lên, ngựa hí bi thương, nam nhi quyết chí anh hùng. Thế nhưng nhìn thấy mũi dao sắc nhọn, trường kiếm tung ra, chỉ có mười mấy kị binh, thực sự chẳng thể phân định rõ là ai đang thét vào mặt quân thù nữa.
Tay nâng thương bạc, quân địch ngã xuống dưới chân ngựa chiến... Đao kiếm giao tranh, vết thương lại trào máu tươi... Như một chiếc thuyền bị cuốn vào biển lớn, chìm chìm nổi nổi, hoặc là vượt qua sóng lớn, hoặc là chìm xuống đáy sau. Thế nào cũng chỉ là một nạn kiếp mà thôi.
Ta đã đau đớn và mỏi mệt đến mức mất hết tri giác, trái tim thảng thốt vì tiếng chém giết, thét gào, cả người tỏa sáng giống như đang đứng trong ánh nắng rực rỡ của mùa xuân.
Đột nhiên ta đã trở về Giang Nam. Giang Nam cỏ mọc xanh mướt ánh trăng thanh tịnh như nước.
Ta mơ màng nằm trong lòng của người thiếu niên xa lạ, ngửi mùi hương dịu dàng tựa hoa mai của chàng, hoàn toàn khác biệt với Lăng sư huynh và Vĩnh sư đệ...
Trong rừng trúc, chàng đột nhiên trở nên xấu xa, khiến ta hoang mang sợ hãi, nhưng cũng chẳng ngăn được niềm vui sướng trào dâng mạnh mẽ, truyền đi khắp các nơi trong người...
Ánh mắt của chàng chứa một ma lực đáng sợ, chàng khẽ nói “Nàng là Doanh Doanh, nàng là của ta, nàng chính là... thê tử... của Thuần Vu Vọng ta.”
Ta vừa sợ hãi, vừa thẹn thùng lại vừa phẫn nộ đẩy chàng ra, mắt lệ long lanh, cắn lên vai chàng. Lúc này chân tay chàng luống cuống lau nước mắt cho ta, dáng vẻ đó cũng rất xấu hổ, hối hận...
Ta vui vẻ chạy khắp núi thẳm, lấy cành cây đánh cho người thiếu niên trẻ tuổi ôm đầu, gào thét vì đau đớn mà vẫn chẳng chịu rời đi...
Chàng nằm bên đá núi với phần đầu đầy máu, không nói năng, chẳng động đậy, ta như rơi vào nỗi hoảng sợ, hoang mang vô ngần, bỗng nhiên phát hiện ra rằng, ta đã chẳng thể nào rời khỏi chàng, dù chỉ trong chốc lát...
Chúng ta nhanh chóng có một bé gái...
Ta nói, chúng ta hãy sinh thêm một bé trai nhé...
Chàng nói, chúng ta hãy cùng luyện kiếm pháp...
Sơ Ảnh, Ám Hương...
Mai bay ngợp trời, tiếng cười đầy tai...
“Doanh Doanh, Doanh Doanh, nàng chính là Doanh Doanh của ta...”
Chàng gọi ta, trong tay đang dắt theo Tương Tư mỉm cười tươi tắn bước về chỗ ta. Thế nhưng chúng ta lại bị ngăn cách bởi một lớp sương trắng lạnh giá, mờ ảo, chẳng thể nào nhìn rõ được nhau.
Ta vẫn nghe thấy Tương Tư đang khóc gọi “Mẫu thân, mẫu thân, đến bao giờ người mới quay về?”
“A Vọng, Tương Tư...”
Ta khẽ thét lên, quất vào lưng ngựa như điên, xông thẳng về phía trước, xông về màn sương lạnh giá ngăn cách ta đi về phía Thuần Vu Vọng và Tương Tư, vứt bỏ tất cả những người và vật cản trở ta...
Con ngựa đau đớn, cũng hí lên điên cuồng, đưa ta tiến nhanh về phía trước.
Ta vẫn loáng thoáng nghe thấy có người đang vẫy gọi, có người đang gào thét.
Đám giặc Nhu Nhiên dường như đang nói, trước mặt là vực thẳm, vực thẳm...
Vực thẳm... Ta đã phi tới bên bờ vực thẳm từ lâu rồi. Chẳng còn đường đi, cũng chẳng thể lùi lại, chỉ có thể xông thẳng về trước...
Khi con ngựa hí dài một tiếng, cơ thể ta đột nhiên nhẹ bẫng, thoải mái. Ta cuối cùng đã có thể thoát ra khỏi không gian bé nhỏ đã vây khốn mình bao năm, bay ra khỏi màn đêm lạnh giá đáng sợ. Cả bầu trời đều hiện lên trước mắt, gốc mai già bên vực thẳm rung động, cánh hoa ngợp trời.
Ta khẽ mỉm cười “A Vọng, hãy xem kiếm pháp Ám Hương của ta.”
Danh sách chương