Đúng lúc này thì thấy
Họa Châu đi qua hành lang, Lâm Lang nhân cơ hội đó liền nói với Lý Đức
Toàn: “Nếu công công không còn gì sai bảo, nô tỳ quay về đấy!” Thấy Lý
Đức Toàn gật đầu, nàng liền tiến tới đi cùng Họa Châu, hai người sóng
vai đi thẳng về phòng trực. Họa Châu xưa nay hay nói, lúc này nói không
ngừng: “Hôm nay tỷ cũng đã thấy Thành chủ nhân rồi. Tỷ vừa đi ra từ Cảnh Hòa môn thì đúng lúc gặp được. Tỷ thỉnh an chủ nhân, Thành chủ nhân rất khách sáo, còn nói chuyện với tỷ vài câu. Thành chủ nhân đúng là vô
cùng xinh đẹp. Tỷ thấy, chủ nhân còn nhã nhặn hơn nhiều so với Nghi chủ
nhân.” Thấy Lâm Lang hơi cau mà, Họa Châu liền bắt chước giọng của Lâm
Lang: “Sao tỷ lại bàn luận chuyện của chủ nhân sau lưng?” Nói xong thì
thè lưỡi trêu nàng.
Lâm Lang bị nàng trêu thì không kìm được cười mỉm. “Rõ ràng tỷ biết quy định mà còn thích nói lung tung. Người khác nghe thấy là không tốt đâu.”
Họa Châu đáp: “Muội đâu phải người khác chứ!”
Lâm Lang lại nói: “Tỷ nói nhiều thành quen rồi, có người hay không cũng buột miệng nói ra, như vậy chẳng phải là rước họa vào thân sao?”
Họa Châu cười cười. “Muội ấy à, giống hệt Gia Cát Vũ Hầu[1], thận trọng cả đời.”
[1]Sau khi mất, Gia Cát Lượng được phong là Trung Vũ Hầu, người đời thường gọi ông là Gia Cát Vũ Hầu.
Lâm Lang “ồ” một tiếng, hỏi: “Tỷ học ở đâu câu văn vẻ như thế?”
Họa Châu nói: “Muội quên rồi sao? Không phải là hôm trước Hoàng thượng đã nói hay sao?”
Lâm Lang vô tình nhìn về phía cung điện, rèm trúc rủ xuống nặng trĩu ở cổng điện, mành cửa thượng hạng màu vàng, thấp thoáng thấy bóng thái giám đang trực tại ngự tiền, hắn đứng im như tượng gỗ.
Vì tình hình động đất nghiêm trọng nên Tết Trung thu, trong cung chỉ tổ chức qua loa. Hoàng đế theo lệ mở tiệc ở thư phòng phía nam cùng sư phó và các vị hầu cận học tập. Trong Càn Thanh cung chỉ còn lại cung nữ, thái giám, bầu không khí yên lặng, vắng vẻ. Ngược lại, phòng bếp lại có không khí Trung thu, ngoài trái cây điểm tâm ra còn đặc biệt chuẩn bị bánh trung thu. Họa Châu ham chơi, ăn xong điểm tâm liền kéo Lâm Lang ra ngoài đình ngắm trăng. Nàng nói: “Bình thường chẳng phải muội thích ngắm trăng ngắm tuyết gì đó, hôm nay có trăng đẹp sao lại không ngắm?”
Lâm Lang ngẩng đầu nhìn, trên trời là một mảnh trăng tròn vành vạnh nổi lên trên những đám mây mỏng. Ánh trăng lành lạnh chiếu xuống mặt đất như dòng nước nhẹ trôi. Dưới ánh trăng, ngói lưu ly của Càn Thanh cung lung linh như thủy ngân. Trước hành lang là cây hoa quế mới được tiến cống, trồng trong chậu to. Quế đỏ ra nhụy, hương thơm thoang thoảng, bóng cây đung đưa dưới ánh trăng phác họa nên một bức tranh. Gió đêm lạnh thổi vào khiến người ta run rẩy. Cảm xúc này, hình ảnh này dường như đã từng thấy đâu đó trong mơ. Bóng trúc trên cửa sổ lay động, hương quế đỏ len vào qua khe cửa, nàng cất bút mực, quay đầu mỉm cười với bóng dáng dưới bậc thềm... Đêm Trung thu, liên cú vần thập tứ hàn... “Ánh trăng sáng ngày đó, từng chiếu lên bóng người.”
Họa Châu chợt nói: “Hôm nay, Tiểu Tứ Nhi ở Ngự Thiện phòng đến, nghe hắn nói một chuyện... Muội còn nhớ Thúy Tuyển không, người xinh đẹp ấy, nghe nói là một người nhã nhặn. Hắn bảo có ý chỉ chỉ hôn nàng cho đại công tử của Minh Châu đại nhân.”
Lâm Lang đang định ngắt một nhánh hoa quế, vô thức buông tay khiến bông hoa quế kia rơi xuống nền gạch xanh. Họa Châu nói: “Suy cho cùng thì phụ mẫu của nàng ấy cũng có thể diện, tuy chưa từng được nhậm chức nhưng vẫn có tước vị. Hoàng thượng tứ hôn, đúng là nở mặt nở mày. Tuy Minh Châu đại nhân là đại thần trong triều nhưng nếu nàng ấy được gả vào nhà, chắc cũng không dám ức hiếp cô con dâu được chỉ hôn này.”
Họa Châu nói hết câu này đến câu khác. Lâm Lang chỉ thấy tiếng nó đó cách mình rất xa, đang phất phơ trôi nổi, đột nhiên trôi tới thật gần, gần đến mức như đang la hét ầm ĩ trong tai. Bầu trời ngày càng xa, ánh trăng lạnh băng, như mũi dao nhọn hoắc đâm vào lòng người. Nàng hoàn toàn không nghe thấy Họa Châu đang nói gì, chỉ nhìn thấy môi nàng ấy không ngập ngừng mấp máy, nói cười vui vẻ. Xung quanh đều là gió, lạnh lùng quất vào người. Vạt áo nàng tung bay, cả người khẽ run rẩy. Họa Châu nói chuyện to nhỏ hồi lâu mới để ý đến sắc mặt bất thường của Lâm Lang, vội nắm tay, kêu lên một cách lo lắng: “Muội sao thế này, sao tay lạnh thế?” Nàng lặp đi lặp lại hai lần, dường như lúc này Lâm Lang mới lấy lại tinh thần, chỉ đáp: “Gió lạnh quá!”
Họa Châu nói: “Muội phải mặc thêm nhiều áo vào mới được, gió đêm lạnh, chúng ta quay về thôi!”
Về tới phòng, Lâm Lang mặc thêm một chiếc áo không tay màu tím xanh rồi mới đi dọn dẹp cho gọn gàng, loáng thoáng nghe thấy tiếng vỗ tay ở bên ngoài, là ám hiệu ngự giá về Càn Thanh cung. Hai người đều đang trong giờ trực, vội vã đi về hướng cung điện.
Thái giám theo hầu vây quanh Hoàng đế đi vào điện. Ngoài những người hầu hạ thân cận thì những người khác đều lui xuống. Lý Đức Toàn nhìn thấy Lâm Lang bèn nói với nàng: “Hôm nay Hoàng thượng uống rượu, mau mang trà giải rượu đến.”
Lâm Lang đáp “vâng”, một lát sau trở lại, Hoàng đế đang thay y phục, thấy nàng mang một tách trà Định Diêu với hoa văn trúc màu trắng, đựng đầy trà Phong Lộ. Trà Phong Lộ hay còn gọi là nước lá phong pha với trà, cách pha trà Phong Lộ, đầu tiên là lấy lá non của cây phong hương, cho vào nồi chưng, hứng lấy hơi nước bốc lên. Sau đó pha với nước nóng thành trà Phong Lộ. Hoàng đế nhìn nàng một cái rồi hỏi: “Sao lại lấy chén này ra?”
Lâm Lang hoảng hốt đáp: “Nô tỳ chỉ nghĩ rằng trà này hợp với chiếc tách Định Diêu, nhất thời sơ suất quên mất điều kiêng kỵ, xin Hoàng thượng trách phạt.”
Tách trà này vốn có một đôi, chiếc còn lại là chiếc mà nàng đã đánh vỡ trên ngự tiền lần trước. Theo quy định, tách trà còn lại không được phép dùng nữa. Hoàng đế nhớ lại lần nọ bị đổ trà, vẻ mặt nàng cũng hoảng sợ y như thế này. Bây giờ nàng đang cầm khay trà, do lại phạm lỗi nên ánh mắt vô cùng hoảng hốt, ống tay áo xanh biếc hơi run rẩy, vết bỏng hình trăng lưỡi liềm trên cổ tay trắng mịn hiện rõ dưới ánh đèn.
Hoàng đế cầm lấy ly trà, nhấp một ngụm rồi đặt xuống, nói: “Trà này phải pha ba, bốn lượt mới ngon. Đi đổi trà Cam Hòa lên!”
Lâm Lang vâng mệnh, lui ra ngoài noãn các. Hoàng đế cảm thấy hơi say nên gọi Lý Đức Toàn: “Mang một chiếc khăn ấm lại đây!”
Lý Đức Toàn vâng lời, còn chưa kịp đi ra thì chợt nghe một tiếng “Xoảng”. Tiểu thái giám theo sau hô khẽ một tiếng. Hoàng đế hỏi: “Sao vậy?”
Tiểu thái giám bên ngoài vội trả lời: “Bẩm Hoàng thượng, không biết Lâm Lang bị làm sao, Lâm Lang choáng váng rồi ngã ra đất.”
Hoàng đế đứng dậy đi ra. Lý Đức Toàn lập tức chạy lên vén mành. Thái giám, cung nữ đang vây thành nhiều vòng xung quanh. Phương Cảnh đang đỡ vai Lâm Lang, khẽ gọi tên nàng. Sắc mặt nàng trắng nhợt, hai mắt nhắm nghiền, dường như đã mất tri giác.
Hoàng đế ra lệnh: “Đừng vây quanh nữa, mau tản ra để Lâm Lang hít thở!”
Mọi người sợ đến loạn cả lên, nay lại nghe Hoàng đế sai bảo, đều vội lùi ra vài bước.
Hoàng đế lại nói với Phương Cảnh: “Cởi hai khuy trên cổ áo Lâm Lang.”
Phương Cảnh nhanh chóng làm theo. Hoàng đế vốn tinh thông Kỳ Hoàng[2], duỗi tay đặt lên mạch của nàng rồi quay đầu nói với Lý Đức Toàn: “Mang muối ngửi mà vị truyền giáo người phương Tây kia cống lên đây!”
[2] Kỳ Hoàng chỉ Kỷ Bá và Hiên Viên Hoàng đế, hai người cùng soạn nên cuốn sách y thuật Hoàng đế nội kinh.
Lý Đức Toàn sai người đi lấy. Đó là một chiếc chai thủy tinh màu xanh ngọc bích nhỏ, Hoàng đế vặn nút chai nạm vàng ra rồi đưa qua đưa lại trước mũi Lâm Lang. Tất cả mọi người đều đang nhìn chằm chằm vào nàng, bốn bề lặng ngắt, loáng thoáng nghe thấy tiếng chuông sắt ở đầu hiên, gió thổi khiến nó kêu hai tiếng lanh lảnh.
Tiếng vang của chiếc chuông sắt lộn xộn. Một làn gió thổi qua như đem theo hương thơm của hoa quế. Lâu nay vẫn dùng nến thắp sáng thư phòng, còn bên ngoài thì đặt chiếc chao đèn sáng rực. Ánh sáng mãnh liệt tỏa ra từ chiếc đèn đó làm lu mờ cả vẻ đẹp của vầng trăng trên cao. Nạp Lan ngồi lặng lẽ trước chiếc bàn hoa lê. Đại a hoàn Nghê Quan dâng trà lên, cười cười hỏi hắn: “Hôm nay đại gia có đại hỷ, việc vui ắt hẳn sẽ có thơ, nô tỳ giúp đại gia mài mực nhé?”
Mười tám thỏi mực thường hạng do tuần phủ An Huy biếu tặng đựng đầy trong chiếc hộp màu vàng. Mười ngón tay thon thả nhón lấy một thỏi mực, rồi ngón tay trắng trẻo đó mở nắp nghiên mực. Là mực mới lại được mài không đúng cách nên cọ sàn sạt vào nghiên. Ánh mắt hắn nhìn mải miết vào nghiên mực kia, chẳng nói một lời. Bản thân như biến thành thỏi mực, bị mài mòn từng tấc, từng phân.
Cuối cùng hắn cũng cầm bút lên, cổ tay hơi run rẩy, một giọt mực đen nhỏ xuống nền giấy Tuyên Thành trắng muốt. Hai màu đen trắng rõ ràng. Hắn giơ tay cất chiếc bút lên giá rồi bỗng cầm tờ giấy kia lên. Sau vài tiếng loạt soạt, tờ giấy đã bị xé thành vô số mảnh nhỏ. Nghê Quan sợ đến mức không dám lên tiếng, chỉ thấy vị đại gia kia từ từ buông tay, những mảnh giấy rơi lả tả xuống đất. Hắn lại chầm chậm trải một tờ giấy khác ra, chấm mực viết qua loa mấy câu. Nghê Quan mới vào phủ chưa lâu, lúc đầu nàng ta là a hoàn theo hầu Nạp Lan phu nhân. Vì nàng ta có biết sơ sơ vài chữ nên Nạp Lan phu nhân mới cố ý sai đến hầu hạ mài mực cho Dung Nhược. Lúc này nàng ta chỉ dám thở nhẹ. Nạp Lan viết xong liền quăng luôn chiếc bút.
Nghê Quan nhìn mặt giấy, bài theo điệu Gió đông cùng thổi mạnh: “Thấm thoát thoi đưa, trời sinh bạc mệnh, nước mắt lăn dài. Gượng cười vui vẻ, cuối cùng vẫn buồn đau. Xa cách đã nhiều năm, lời đã tận, hận mãi chưa tan. Là ai thổi, những khúc tiêu ngọc, tháng ngày xót thương. Qúa khứ như nước chảy, trăng trước cửa, mấy hồi vô ích chiếu non. Vui cũ mộng xưa, chân bước lên cầu nào. Đêm tối Nguyên tiêu ngày nọ, rượu hương bồ đào. Bi ai quá, đèn đường soi rọi, mưa gió liêu xiêu...”
Nàng ta không biết rất nhiều chữ, mấy chữ nàng ta biết hiện lên lộn xộn trước mắt: Bạc mệnh... Nước mắt... Xót thương... Qúa khứ... Trăng trước cửa... Bi ai...
Tâm trạng đầy bất an, khiếp sợ, nàng ta luôn nghĩ đại gia tôn quý như vậy, hôm nay còn có được vinh dự lớn như thế... Nội vụ phủ truyền ý chỉ tới, Hoàng đế đã có khẩu dụ tứ hôn. Cả phủ tên dưới ai cũng vui mừng. Nhân cơ hội đón Tết Trung thu mà giăng đèn kết hoa, mở tiệc rượu vui cùng họ hàng thân thích. Đến lão gia ngày thường vốn nghiêm nghị nay cũng cười vui vẻ. “Thiên ân mênh mông, đúng là thiên ân mênh mông!”
Nàng ta chẳng dám nói bừa, chỉ hỏi: “Đại gia, có viết nữa không?”
Nạp Lan hờ hững đáp: “Không viết nữa, ngươi bảo bọn họ châm đèn đi, ta về phòng ngủ.”
A hoàn cầm đèn lồng đi trước soi đường. Lúc đó, ánh trăng trong vắt. Trong viện, cây cối tươi tốt, có thể nhìn rõ mồn một dưới trăng. Lúc đầu hắn định bảo a hoàn thổi tắt đèn nhưng lười đến mức chẳng muốn mở miệng. Đi qua cổng tròn, hắn bất chợt ngẩng lên, bên tường có một hàng trúc xanh biếc, gió thổi khiến nó vang lên tiếng rì rào như tiếng mưa.
Loáng thoáng nghe thấy tiếng đàn sáo xa xa, du dương trầm bổng. A hoàn nói: “Là chỗ Nhị lão gia, người mở tiệc mời các tướng công uống rượu trong thư phòng, nghe nói bây giờ đang làm thơ liên cú nữa.”
Hắn yên lặng, ngửa mặt nhìn. Trời cao trăng sáng, mặt trăng trong suốt như gương, chiếu vào cái bóng lẻ loi của hắn, vô hạn nỗi thê lương.
Lâm Lang bị nàng trêu thì không kìm được cười mỉm. “Rõ ràng tỷ biết quy định mà còn thích nói lung tung. Người khác nghe thấy là không tốt đâu.”
Họa Châu đáp: “Muội đâu phải người khác chứ!”
Lâm Lang lại nói: “Tỷ nói nhiều thành quen rồi, có người hay không cũng buột miệng nói ra, như vậy chẳng phải là rước họa vào thân sao?”
Họa Châu cười cười. “Muội ấy à, giống hệt Gia Cát Vũ Hầu[1], thận trọng cả đời.”
[1]Sau khi mất, Gia Cát Lượng được phong là Trung Vũ Hầu, người đời thường gọi ông là Gia Cát Vũ Hầu.
Lâm Lang “ồ” một tiếng, hỏi: “Tỷ học ở đâu câu văn vẻ như thế?”
Họa Châu nói: “Muội quên rồi sao? Không phải là hôm trước Hoàng thượng đã nói hay sao?”
Lâm Lang vô tình nhìn về phía cung điện, rèm trúc rủ xuống nặng trĩu ở cổng điện, mành cửa thượng hạng màu vàng, thấp thoáng thấy bóng thái giám đang trực tại ngự tiền, hắn đứng im như tượng gỗ.
Vì tình hình động đất nghiêm trọng nên Tết Trung thu, trong cung chỉ tổ chức qua loa. Hoàng đế theo lệ mở tiệc ở thư phòng phía nam cùng sư phó và các vị hầu cận học tập. Trong Càn Thanh cung chỉ còn lại cung nữ, thái giám, bầu không khí yên lặng, vắng vẻ. Ngược lại, phòng bếp lại có không khí Trung thu, ngoài trái cây điểm tâm ra còn đặc biệt chuẩn bị bánh trung thu. Họa Châu ham chơi, ăn xong điểm tâm liền kéo Lâm Lang ra ngoài đình ngắm trăng. Nàng nói: “Bình thường chẳng phải muội thích ngắm trăng ngắm tuyết gì đó, hôm nay có trăng đẹp sao lại không ngắm?”
Lâm Lang ngẩng đầu nhìn, trên trời là một mảnh trăng tròn vành vạnh nổi lên trên những đám mây mỏng. Ánh trăng lành lạnh chiếu xuống mặt đất như dòng nước nhẹ trôi. Dưới ánh trăng, ngói lưu ly của Càn Thanh cung lung linh như thủy ngân. Trước hành lang là cây hoa quế mới được tiến cống, trồng trong chậu to. Quế đỏ ra nhụy, hương thơm thoang thoảng, bóng cây đung đưa dưới ánh trăng phác họa nên một bức tranh. Gió đêm lạnh thổi vào khiến người ta run rẩy. Cảm xúc này, hình ảnh này dường như đã từng thấy đâu đó trong mơ. Bóng trúc trên cửa sổ lay động, hương quế đỏ len vào qua khe cửa, nàng cất bút mực, quay đầu mỉm cười với bóng dáng dưới bậc thềm... Đêm Trung thu, liên cú vần thập tứ hàn... “Ánh trăng sáng ngày đó, từng chiếu lên bóng người.”
Họa Châu chợt nói: “Hôm nay, Tiểu Tứ Nhi ở Ngự Thiện phòng đến, nghe hắn nói một chuyện... Muội còn nhớ Thúy Tuyển không, người xinh đẹp ấy, nghe nói là một người nhã nhặn. Hắn bảo có ý chỉ chỉ hôn nàng cho đại công tử của Minh Châu đại nhân.”
Lâm Lang đang định ngắt một nhánh hoa quế, vô thức buông tay khiến bông hoa quế kia rơi xuống nền gạch xanh. Họa Châu nói: “Suy cho cùng thì phụ mẫu của nàng ấy cũng có thể diện, tuy chưa từng được nhậm chức nhưng vẫn có tước vị. Hoàng thượng tứ hôn, đúng là nở mặt nở mày. Tuy Minh Châu đại nhân là đại thần trong triều nhưng nếu nàng ấy được gả vào nhà, chắc cũng không dám ức hiếp cô con dâu được chỉ hôn này.”
Họa Châu nói hết câu này đến câu khác. Lâm Lang chỉ thấy tiếng nó đó cách mình rất xa, đang phất phơ trôi nổi, đột nhiên trôi tới thật gần, gần đến mức như đang la hét ầm ĩ trong tai. Bầu trời ngày càng xa, ánh trăng lạnh băng, như mũi dao nhọn hoắc đâm vào lòng người. Nàng hoàn toàn không nghe thấy Họa Châu đang nói gì, chỉ nhìn thấy môi nàng ấy không ngập ngừng mấp máy, nói cười vui vẻ. Xung quanh đều là gió, lạnh lùng quất vào người. Vạt áo nàng tung bay, cả người khẽ run rẩy. Họa Châu nói chuyện to nhỏ hồi lâu mới để ý đến sắc mặt bất thường của Lâm Lang, vội nắm tay, kêu lên một cách lo lắng: “Muội sao thế này, sao tay lạnh thế?” Nàng lặp đi lặp lại hai lần, dường như lúc này Lâm Lang mới lấy lại tinh thần, chỉ đáp: “Gió lạnh quá!”
Họa Châu nói: “Muội phải mặc thêm nhiều áo vào mới được, gió đêm lạnh, chúng ta quay về thôi!”
Về tới phòng, Lâm Lang mặc thêm một chiếc áo không tay màu tím xanh rồi mới đi dọn dẹp cho gọn gàng, loáng thoáng nghe thấy tiếng vỗ tay ở bên ngoài, là ám hiệu ngự giá về Càn Thanh cung. Hai người đều đang trong giờ trực, vội vã đi về hướng cung điện.
Thái giám theo hầu vây quanh Hoàng đế đi vào điện. Ngoài những người hầu hạ thân cận thì những người khác đều lui xuống. Lý Đức Toàn nhìn thấy Lâm Lang bèn nói với nàng: “Hôm nay Hoàng thượng uống rượu, mau mang trà giải rượu đến.”
Lâm Lang đáp “vâng”, một lát sau trở lại, Hoàng đế đang thay y phục, thấy nàng mang một tách trà Định Diêu với hoa văn trúc màu trắng, đựng đầy trà Phong Lộ. Trà Phong Lộ hay còn gọi là nước lá phong pha với trà, cách pha trà Phong Lộ, đầu tiên là lấy lá non của cây phong hương, cho vào nồi chưng, hứng lấy hơi nước bốc lên. Sau đó pha với nước nóng thành trà Phong Lộ. Hoàng đế nhìn nàng một cái rồi hỏi: “Sao lại lấy chén này ra?”
Lâm Lang hoảng hốt đáp: “Nô tỳ chỉ nghĩ rằng trà này hợp với chiếc tách Định Diêu, nhất thời sơ suất quên mất điều kiêng kỵ, xin Hoàng thượng trách phạt.”
Tách trà này vốn có một đôi, chiếc còn lại là chiếc mà nàng đã đánh vỡ trên ngự tiền lần trước. Theo quy định, tách trà còn lại không được phép dùng nữa. Hoàng đế nhớ lại lần nọ bị đổ trà, vẻ mặt nàng cũng hoảng sợ y như thế này. Bây giờ nàng đang cầm khay trà, do lại phạm lỗi nên ánh mắt vô cùng hoảng hốt, ống tay áo xanh biếc hơi run rẩy, vết bỏng hình trăng lưỡi liềm trên cổ tay trắng mịn hiện rõ dưới ánh đèn.
Hoàng đế cầm lấy ly trà, nhấp một ngụm rồi đặt xuống, nói: “Trà này phải pha ba, bốn lượt mới ngon. Đi đổi trà Cam Hòa lên!”
Lâm Lang vâng mệnh, lui ra ngoài noãn các. Hoàng đế cảm thấy hơi say nên gọi Lý Đức Toàn: “Mang một chiếc khăn ấm lại đây!”
Lý Đức Toàn vâng lời, còn chưa kịp đi ra thì chợt nghe một tiếng “Xoảng”. Tiểu thái giám theo sau hô khẽ một tiếng. Hoàng đế hỏi: “Sao vậy?”
Tiểu thái giám bên ngoài vội trả lời: “Bẩm Hoàng thượng, không biết Lâm Lang bị làm sao, Lâm Lang choáng váng rồi ngã ra đất.”
Hoàng đế đứng dậy đi ra. Lý Đức Toàn lập tức chạy lên vén mành. Thái giám, cung nữ đang vây thành nhiều vòng xung quanh. Phương Cảnh đang đỡ vai Lâm Lang, khẽ gọi tên nàng. Sắc mặt nàng trắng nhợt, hai mắt nhắm nghiền, dường như đã mất tri giác.
Hoàng đế ra lệnh: “Đừng vây quanh nữa, mau tản ra để Lâm Lang hít thở!”
Mọi người sợ đến loạn cả lên, nay lại nghe Hoàng đế sai bảo, đều vội lùi ra vài bước.
Hoàng đế lại nói với Phương Cảnh: “Cởi hai khuy trên cổ áo Lâm Lang.”
Phương Cảnh nhanh chóng làm theo. Hoàng đế vốn tinh thông Kỳ Hoàng[2], duỗi tay đặt lên mạch của nàng rồi quay đầu nói với Lý Đức Toàn: “Mang muối ngửi mà vị truyền giáo người phương Tây kia cống lên đây!”
[2] Kỳ Hoàng chỉ Kỷ Bá và Hiên Viên Hoàng đế, hai người cùng soạn nên cuốn sách y thuật Hoàng đế nội kinh.
Lý Đức Toàn sai người đi lấy. Đó là một chiếc chai thủy tinh màu xanh ngọc bích nhỏ, Hoàng đế vặn nút chai nạm vàng ra rồi đưa qua đưa lại trước mũi Lâm Lang. Tất cả mọi người đều đang nhìn chằm chằm vào nàng, bốn bề lặng ngắt, loáng thoáng nghe thấy tiếng chuông sắt ở đầu hiên, gió thổi khiến nó kêu hai tiếng lanh lảnh.
Tiếng vang của chiếc chuông sắt lộn xộn. Một làn gió thổi qua như đem theo hương thơm của hoa quế. Lâu nay vẫn dùng nến thắp sáng thư phòng, còn bên ngoài thì đặt chiếc chao đèn sáng rực. Ánh sáng mãnh liệt tỏa ra từ chiếc đèn đó làm lu mờ cả vẻ đẹp của vầng trăng trên cao. Nạp Lan ngồi lặng lẽ trước chiếc bàn hoa lê. Đại a hoàn Nghê Quan dâng trà lên, cười cười hỏi hắn: “Hôm nay đại gia có đại hỷ, việc vui ắt hẳn sẽ có thơ, nô tỳ giúp đại gia mài mực nhé?”
Mười tám thỏi mực thường hạng do tuần phủ An Huy biếu tặng đựng đầy trong chiếc hộp màu vàng. Mười ngón tay thon thả nhón lấy một thỏi mực, rồi ngón tay trắng trẻo đó mở nắp nghiên mực. Là mực mới lại được mài không đúng cách nên cọ sàn sạt vào nghiên. Ánh mắt hắn nhìn mải miết vào nghiên mực kia, chẳng nói một lời. Bản thân như biến thành thỏi mực, bị mài mòn từng tấc, từng phân.
Cuối cùng hắn cũng cầm bút lên, cổ tay hơi run rẩy, một giọt mực đen nhỏ xuống nền giấy Tuyên Thành trắng muốt. Hai màu đen trắng rõ ràng. Hắn giơ tay cất chiếc bút lên giá rồi bỗng cầm tờ giấy kia lên. Sau vài tiếng loạt soạt, tờ giấy đã bị xé thành vô số mảnh nhỏ. Nghê Quan sợ đến mức không dám lên tiếng, chỉ thấy vị đại gia kia từ từ buông tay, những mảnh giấy rơi lả tả xuống đất. Hắn lại chầm chậm trải một tờ giấy khác ra, chấm mực viết qua loa mấy câu. Nghê Quan mới vào phủ chưa lâu, lúc đầu nàng ta là a hoàn theo hầu Nạp Lan phu nhân. Vì nàng ta có biết sơ sơ vài chữ nên Nạp Lan phu nhân mới cố ý sai đến hầu hạ mài mực cho Dung Nhược. Lúc này nàng ta chỉ dám thở nhẹ. Nạp Lan viết xong liền quăng luôn chiếc bút.
Nghê Quan nhìn mặt giấy, bài theo điệu Gió đông cùng thổi mạnh: “Thấm thoát thoi đưa, trời sinh bạc mệnh, nước mắt lăn dài. Gượng cười vui vẻ, cuối cùng vẫn buồn đau. Xa cách đã nhiều năm, lời đã tận, hận mãi chưa tan. Là ai thổi, những khúc tiêu ngọc, tháng ngày xót thương. Qúa khứ như nước chảy, trăng trước cửa, mấy hồi vô ích chiếu non. Vui cũ mộng xưa, chân bước lên cầu nào. Đêm tối Nguyên tiêu ngày nọ, rượu hương bồ đào. Bi ai quá, đèn đường soi rọi, mưa gió liêu xiêu...”
Nàng ta không biết rất nhiều chữ, mấy chữ nàng ta biết hiện lên lộn xộn trước mắt: Bạc mệnh... Nước mắt... Xót thương... Qúa khứ... Trăng trước cửa... Bi ai...
Tâm trạng đầy bất an, khiếp sợ, nàng ta luôn nghĩ đại gia tôn quý như vậy, hôm nay còn có được vinh dự lớn như thế... Nội vụ phủ truyền ý chỉ tới, Hoàng đế đã có khẩu dụ tứ hôn. Cả phủ tên dưới ai cũng vui mừng. Nhân cơ hội đón Tết Trung thu mà giăng đèn kết hoa, mở tiệc rượu vui cùng họ hàng thân thích. Đến lão gia ngày thường vốn nghiêm nghị nay cũng cười vui vẻ. “Thiên ân mênh mông, đúng là thiên ân mênh mông!”
Nàng ta chẳng dám nói bừa, chỉ hỏi: “Đại gia, có viết nữa không?”
Nạp Lan hờ hững đáp: “Không viết nữa, ngươi bảo bọn họ châm đèn đi, ta về phòng ngủ.”
A hoàn cầm đèn lồng đi trước soi đường. Lúc đó, ánh trăng trong vắt. Trong viện, cây cối tươi tốt, có thể nhìn rõ mồn một dưới trăng. Lúc đầu hắn định bảo a hoàn thổi tắt đèn nhưng lười đến mức chẳng muốn mở miệng. Đi qua cổng tròn, hắn bất chợt ngẩng lên, bên tường có một hàng trúc xanh biếc, gió thổi khiến nó vang lên tiếng rì rào như tiếng mưa.
Loáng thoáng nghe thấy tiếng đàn sáo xa xa, du dương trầm bổng. A hoàn nói: “Là chỗ Nhị lão gia, người mở tiệc mời các tướng công uống rượu trong thư phòng, nghe nói bây giờ đang làm thơ liên cú nữa.”
Hắn yên lặng, ngửa mặt nhìn. Trời cao trăng sáng, mặt trăng trong suốt như gương, chiếu vào cái bóng lẻ loi của hắn, vô hạn nỗi thê lương.
Danh sách chương