Kiệu màu xanh sẫm.
Rèm màu xanh nhạt.
Trong rèm có bóng người.
Máu nhuộm đỏ đường Lam Sam.
Đường lớn bốc cháy.
Sát phạt không ngừng.
Lương Hoạch Kiệt và Hà Thôn Nã một trái một phải nhìn chằm chằm vào chiếc kiệu, nhưng đều không lập tức ra tay.
Hiện giờ đã không phải đột kích, cũng không phải tập kích nữa.
Người trong kiệu đã sớm cảnh giác.
Bây giờ bọn họ là vây công, giáp công, hơn nữa còn chiếm hết thượng phong, rất nhiều phần thắng.
Nhưng không biết vì sao, bọn họ dùng ít người chống lại nhiều người vẫn không sợ hãi, nhưng khi hai người hợp sức tấn công chiếc kiệu này, trong lòng lại có phần sợ hãi, không rét mà run.
Tại sao? Chẳng lẽ bọn họ thật sự xem chiếc kiệu này là một miếu thờ, bọn họ có hiếu chiến hiếu sát cũng không dám xúc phạm thần linh, mạo phạm uy trời?
Tĩnh.
Yên tĩnh.
Trong kiệu hoàn toàn không có động tĩnh.
Nhưng trên đường lớn lại giết đến oanh oanh liệt liệt.
Chu Đại Khối Nhi nơi kiệu vàng đang muốn chạy tới, lại gặp phải Ôn Đoan Nhữ kiếm giận chiêu cuồng.
Ôn Hỏa Cổn ngăn cản Chu Đại Khối Nhi xông đến, tiếng sấm ầm ầm, hắn giống như có chiến chí và đấu ý của sấm sét, còn không màng sống chết.
Hắn một người một kiếm, một mình canh giữ đường dài nóng rực và cường địch đầy đường.
Hắn không nhường nửa bước, tử thủ chỗ hiểm, mục đích là để hai sư đệ của hắn có thể toàn lực giết chết đại địch số một.
Tuy hắn đang hăng hái chiến đấu, nhưng vẫn mắt nhìn tám phương, phát hiện Lương Kiếm Ma và Hà Kiếm Quái rõ ràng đã đến gần chiếc kiệu kia, nhưng lại một trái một phải cầm kiếm đứng yên, thủ thế chờ phát, chậm chạp bất động.
Vì sao không tấn công?
Nếu không tấn công, chỉ sợ quân tiếp viện của Kim Phong Tế Vũ lâu sẽ đến.
Thời cơ sẽ nhanh chóng biến mất, nếu như Hà Quái, Lương Ma không nắm lấy, e rằng mình cũng không giữ được nữa.
Trong lòng Ôn Kiếm Thần biết rõ, tên cao lớn hùng tráng khôi ngô đồ sộ kia vừa gia nhập, hắn đã cảm thấy vô cùng tốn sức. Hắn vốn dùng lực lượng bốn lạng đẩy ngàn cân, một kiếm quét ngang ngàn quân, nhưng tình hình bây giờ giống như tuyết càng thêm băng, xuống giếng xuống địa ngục, còn cố giữ thì sẽ đứt.
(Sao bọn họ còn không giết Thích Thiếu Thương?)
Hắn một mặt chống đỡ kẻ địch tấn công, một mặt kiên quyết không cho kẻ địch xông thẳng hoặc vòng qua cứu viện chiếc kiệu xanh lá kia, còn một mặt dùng khóe mắt nhanh chóng liếc nhìn tình hình chiến đấu ở chỗ Hà Phi Phàm và Lương Song Lộc. Đột ngột, thoáng chốc, bỗng nhiên hắn thoáng hiện lên tình cảnh ngày đó bái sư học kiếm, lại mới mẻ giống như đâm vào tầm mắt hắn.
Năm đó, bảy người Thất tuyệt Kiếm Thần gồm La Tống Thang, Lương Phủ Tâm, Hà Kiếm Thính, Trần Côn Lễ, Tôn Chỉ Mi, Dư Thần Phù và Ôn Lạt Hà, tuy là đồng môn, đồng lòng chống địch, nhưng văn không thứ nhất, võ không thứ hai, vẫn khó tránh khỏi muốn phân ra cao thấp.
Sau đó bọn họ cũng thật sự so kiếm tại đỉnh Lục Chu, giao chiến bảy ngày, kết quả không phân rõ ràng, nhưng lão tam Ôn Lạt Hà là người có kỹ năng cao nhất.
Có điều kết quả này cũng không thể khiến cho bọn họ thật lòng khâm phục, bọn họ cũng không muốn tranh hùng đấu thắng trước mặt đại địch mà tổn thương tình nghĩa hai bên, vì vậy bọn họ chuyển hóa tâm tình tranh đấu này thành hai loại.
Thứ nhất, bất kỳ người nào trong bọn họ đều không thể dựa vào kiếm pháp tu vi cá nhân mà vượt trội thành thiên hạ vô địch, ít nhất Nguyên Thập Tam Hạn, Lãn Tàn đại sư, Thiên Y cư sĩ, Gia Cát tiên sinh năm xưa đều từng phân biệt đánh bại bọn họ.
Nhưng bọn họ vẫn muốn trở thành thiên hạ đệ nhất.
Nếu một người bọn họ không thể hoàn thành tâm nguyện này, vậy không bằng bảy người cùng hoàn thành nó.
Vì vậy, khi bọn họ đang trong thời kỳ phong hoa rực rỡ, lại ẩn cư hai mươi năm, bí mật sáng tạo ra một loại kiếm pháp, do bảy người hợp sức thi triển, thiên hạ vô địch. Đó là kiếm pháp, không phải kiếm trận.
“Kiếm trận” cho dù không ai có thể phá được, đó cũng chỉ là “trận pháp”, không phải thành công của cá nhân.
Thứ mà bọn họ sáng tạo, tu luyện, nghiên cứu, chính là một loại kiếm pháp tuyệt thế, một người không thể phát huy được uy lực thật sự của nó, dựa vào cá nhân cũng không thể thi triển loại kiếm pháp này. Cho nên bảy người bọn họ liên thủ, tâm ý tương thông, đồng thời và đồng loạt sử dụng loại kiếm pháp này.
Loại kiếm pháp này lấy tên là “Thiên Hành Kiện”.
“Thiên Hành Kiện” kiếm pháp.
Bọn họ tin chắc, chỉ cần loại kiếm pháp này của bọn họ luyện thành xuất thế, nhất định đời không đối thủ, thiên hạ vô địch.
Bọn họ xét theo cao thủ kiếm pháp của đời trước, đó là đám người “Tam Tuyệt Thần Kiếm” Khuất Hàn Sơn, Cố Quân Sơn, Đỗ Nguyệt Sơn, cùng với “Thất Tuyệt Thần Kiếm” Khang Xuất Ngư, kết quả vẫn không thể trở thành đại tông sư một mình gánh vác một phương. Mà bảy người Ôn Trần La Dư Tôn Lương Hà đã quá trung niên cũng biết người biết ta, hiểu rõ chỉ dựa vào tài năng của mình thì không thể trở thành bậc thầy độc bá võ lâm, vì vậy tập hợp trí lực của mọi người, muốn tạo nên loại kiếm pháp “Thiên Hành Kiện” bao hàm tinh hoa của bảy người, mới có thể vô địch thiên hạ.
Thứ hai, ngoại trừ bảy người tập trung tu luyện một loại kiếm pháp cùng sử dụng, mỗi người bọn họ còn khổ tâm bồi dưỡng ra một đồ đệ, nhằm để kế thừa võ công kiếm pháp của bọn họ.
Bọn họ chuyển tâm tình tranh đấu lẫn nhau sang cho môn đồ của bọn họ.
Nói cách khác, giữa bọn họ không hề tranh đấu, chuyện phân cao so thấp lại do môn nhân đệ tử của bọn họ hoàn thành.
Cho nên, từ sau khi Thất Tuyệt Thần Kiếm thành tài xuống núi, gần như hàng năm đều phải giao đấu một lần.
Địa điểm giao đấu không ở danh sơn, cũng không ở danh phong, chỉ chọn ở núi Hoàng Nham.
Theo cách nói của Thất tuyệt Kiếm Thần, nếu chọn tỷ võ tại Hoa sơn, Thiên sơn, Hoàng sơn, Ngũ Đài sơn, Cửu Hoa sơn, Nhạn Đãng sơn gì đó, chỉ sợ tên núi nặng hơn tên người. Cho nên bọn họ đặc biệt chọn một số ngọn núi thanh tú không bị người biết, nhưng lại có linh tính làm nơi tỷ võ, biểu thị có lòng tin địa điểm sẽ thành danh nhờ người.
Trải qua một lần giao đấu của bọn họ (hoặc không chỉ một lần), núi này sẽ vì vậy mà dương danh.
Loại suy nghĩ này của bọn họ, ít nhất có ba chỗ tốt.
Thứ nhất, có thể khích lệ lòng háo thắng của đệ tử, đã giỏi còn muốn giỏi hơn, đã tốt còn muốn tốt hơn, từ trong cạnh tranh giao đấu rèn luyện lẫn nhau, lớn mạnh vượt bậc.
Thứ hai, có thể làm tiêu tan sự tranh giành háo thắng giữa bảy người bọn họ, không tổn thương hòa khí, để môn đồ hoàn thành tư tâm của bọn họ, lại cùng nhau chí công vô tư bồi dưỡng tuyệt thế kiếm pháp hợp lòng hợp sức.
Thứ ba, bọn họ truyền tất cả chiêu thức mới lạ về kiếm pháp, võ công cho đồ đệ luyện tập, phát huy, từ trong thắng bại giữa môn nhân đệ tử giao đấu so chiêu, dẫn dắt bọn họ tự kiểm điểm và cải tiến.
• Đây đều là chuyện tốt, nhưng cũng có chỗ xấu.
Chỗ xấu lại nằm ở tâm lý bảy tên môn đồ của bọn họ.
Bọn họ thường muốn hai bên giao đấu, vì vậy đã tạo thành áp lực cực lớn, cùng với không ai phục ai, người nào cũng hi vọng đàn áp đối phương, không thể hoàn toàn đoàn kết khắng khít.
Mấy năm nay một mạch so kiếm, lại là La Thụy Giác (Hán Quả) võ công nổi bật xuất chúng, sáng tạo độc đáo, tự thành phái riêng, có một không hai.
Lão tam Ôn Lạt Hà là người có tu vì kiếm pháp cao nhất trong Thất tuyệt Kiếm Thần, nhưng môn đồ Ôn Hỏa Cổn do hắn đích thân truyền thụ lại không phải là đối thủ của La lão yêu, đành phải xếp thứ hai.
Bọn họ đương nhiên trong lòng không cam, cũng không phục, huống hồ giữa đồng môn hai bên cũng tranh đấu sáng tối vô cùng kịch liệt, dần dần chia làm ba phe.
Một phe do Ôn Hỏa Cổn cầm đầu, được Hà Nan Quá và Lương Thương Tâm ủng hộ. Một phe khác do Tôn Ức Cựu làm chủ, Dư Yếm Quyện và Ngô Phấn Đấu là phụ. Còn một người chính là La Hán Quả (Thụy Giác) tự thành một phái.
Do đó, Thái Kinh một khi ban thưởng bất công, mấy “phái” đồng môn này liền đố kị phỉ báng lẫn nhau.
Ngày đó Thích Thiếu Thương tập kích ban đêm, chính là nắm được tâm lý này, thành công chia rẽ giết chết ba thành viên Dư Mặc Nhiên (Yếm Quyện), Tôn Bồ Đề (Ức Cựu) và Ngô Ưng Quân (Phấn Đấu) trong Thất Tuyệt Thần Kiếm.
Đây chính là kết quả của người đời trước xúi giục thúc đẩy môn đồ của bọn họ tranh thắng giao đấu lẫn nhau quá mức.
Nếu đồ đệ của bọn họ đánh thua, nếm mùi thất bại, người làm sư phụ cho dù có phong độ cũng sẽ không vui, khó tránh khỏi trách cứ quá nghiêm khắc (bất kể có công khai khiển trách hay không).
Cho nên bọn họ bị áp lực rất lớn.
Trong quá trình bọn họ trưởng thành và tu luyện, Ôn Hỏa Cổn, Ngô Phấn Đấu, Dư Yếm Quyện, Lương Thương Tâm, Hà Nan Quá, La Thụy Giác và Tôn Ức Cựu hàng ngày đều chịu áp lực dưới loại giao đấu cạnh tranh này.
Trong quá trình dài đằng đẵng và cô độc ở trên núi một mình luyện kiếm, bọn họ đều trải qua những chua xót khổ sở không ai biết.
Cho nên bọn họ đều có đặc tính riêng.
Ôn Hỏa Cổn có thể không biết rõ tình hình của đám người Tôn Ức Cựu, Ngô Phấn Đấu và Dư Yếm Quyện, nhưng hắn lại biết rõ tình huống khổ sở của Lương Thương Tâm và Hà Nan Quá.
Bởi vì bọn họ từng thổ lộ với hắn.
Lúc Hà Nan Quá băn khoăn nhất, ngày ngày đều đi bái thần. Hắn học kiếm tại núi Nga Mi, nơi này có miếu chùa nổi tiếng. Hắn ngày ngày bái, lớn tiếng thưa bẩm, cầu thần phù hộ, giúp hắn học thành kiếm pháp hạng nhất, vượt trội đồng lứa, để hắn không đến mức làm sư phụ thất vọng, trách mắng, để hắn không đến mức bị đám người Lương Thương Tâm, Ngô Phấn Đấu xem thường.
Hắn thành kính khẩn cầu thần linh ban cho hắn trí tuệ, ban cho hắn sức mạnh.
Bởi vì thiên tư có hạn, cho dù kiếm pháp của Hà Nan Quá đã đạt đến hàng ngũ cao thủ hạng nhất trên giang hồ, nhưng trong số bảy vị sư huynh đệ đồng môn, hắn chẳng qua là một người không trên không dưới.
Hắn không thể nổi bật xuất chúng, trấn áp đồng môn.
Vì điểm này, sư phụ Hà Kiếm Thính thường trừng phạt hắn.
Hắn rất thảm, cũng rất cô độc.
Cho nên kiếm pháp của hắn càng đi theo một đường nan quá (khó chịu), người giao thủ với hắn cho dù có thể sống, cũng cảm thấy khó chịu.
Khi hắn phát hiện thần linh cũng không phù hộ hắn, mà mỗi lần giao đấu kết quả đều làm hắn khá khó chịu, cuối cùng có một ngày, hắn lật đổ lư hương, đá ngã tượng thần, còn từng ngụm từng ngụm, từng miếng từng miếng nuốt chửng lò tro, cây nến, nhang thơm vân vân vào trong bụng.
Cũng bất kể những nhang khói đang cháy này đốt phỏng chính mình.
Rèm màu xanh nhạt.
Trong rèm có bóng người.
Máu nhuộm đỏ đường Lam Sam.
Đường lớn bốc cháy.
Sát phạt không ngừng.
Lương Hoạch Kiệt và Hà Thôn Nã một trái một phải nhìn chằm chằm vào chiếc kiệu, nhưng đều không lập tức ra tay.
Hiện giờ đã không phải đột kích, cũng không phải tập kích nữa.
Người trong kiệu đã sớm cảnh giác.
Bây giờ bọn họ là vây công, giáp công, hơn nữa còn chiếm hết thượng phong, rất nhiều phần thắng.
Nhưng không biết vì sao, bọn họ dùng ít người chống lại nhiều người vẫn không sợ hãi, nhưng khi hai người hợp sức tấn công chiếc kiệu này, trong lòng lại có phần sợ hãi, không rét mà run.
Tại sao? Chẳng lẽ bọn họ thật sự xem chiếc kiệu này là một miếu thờ, bọn họ có hiếu chiến hiếu sát cũng không dám xúc phạm thần linh, mạo phạm uy trời?
Tĩnh.
Yên tĩnh.
Trong kiệu hoàn toàn không có động tĩnh.
Nhưng trên đường lớn lại giết đến oanh oanh liệt liệt.
Chu Đại Khối Nhi nơi kiệu vàng đang muốn chạy tới, lại gặp phải Ôn Đoan Nhữ kiếm giận chiêu cuồng.
Ôn Hỏa Cổn ngăn cản Chu Đại Khối Nhi xông đến, tiếng sấm ầm ầm, hắn giống như có chiến chí và đấu ý của sấm sét, còn không màng sống chết.
Hắn một người một kiếm, một mình canh giữ đường dài nóng rực và cường địch đầy đường.
Hắn không nhường nửa bước, tử thủ chỗ hiểm, mục đích là để hai sư đệ của hắn có thể toàn lực giết chết đại địch số một.
Tuy hắn đang hăng hái chiến đấu, nhưng vẫn mắt nhìn tám phương, phát hiện Lương Kiếm Ma và Hà Kiếm Quái rõ ràng đã đến gần chiếc kiệu kia, nhưng lại một trái một phải cầm kiếm đứng yên, thủ thế chờ phát, chậm chạp bất động.
Vì sao không tấn công?
Nếu không tấn công, chỉ sợ quân tiếp viện của Kim Phong Tế Vũ lâu sẽ đến.
Thời cơ sẽ nhanh chóng biến mất, nếu như Hà Quái, Lương Ma không nắm lấy, e rằng mình cũng không giữ được nữa.
Trong lòng Ôn Kiếm Thần biết rõ, tên cao lớn hùng tráng khôi ngô đồ sộ kia vừa gia nhập, hắn đã cảm thấy vô cùng tốn sức. Hắn vốn dùng lực lượng bốn lạng đẩy ngàn cân, một kiếm quét ngang ngàn quân, nhưng tình hình bây giờ giống như tuyết càng thêm băng, xuống giếng xuống địa ngục, còn cố giữ thì sẽ đứt.
(Sao bọn họ còn không giết Thích Thiếu Thương?)
Hắn một mặt chống đỡ kẻ địch tấn công, một mặt kiên quyết không cho kẻ địch xông thẳng hoặc vòng qua cứu viện chiếc kiệu xanh lá kia, còn một mặt dùng khóe mắt nhanh chóng liếc nhìn tình hình chiến đấu ở chỗ Hà Phi Phàm và Lương Song Lộc. Đột ngột, thoáng chốc, bỗng nhiên hắn thoáng hiện lên tình cảnh ngày đó bái sư học kiếm, lại mới mẻ giống như đâm vào tầm mắt hắn.
Năm đó, bảy người Thất tuyệt Kiếm Thần gồm La Tống Thang, Lương Phủ Tâm, Hà Kiếm Thính, Trần Côn Lễ, Tôn Chỉ Mi, Dư Thần Phù và Ôn Lạt Hà, tuy là đồng môn, đồng lòng chống địch, nhưng văn không thứ nhất, võ không thứ hai, vẫn khó tránh khỏi muốn phân ra cao thấp.
Sau đó bọn họ cũng thật sự so kiếm tại đỉnh Lục Chu, giao chiến bảy ngày, kết quả không phân rõ ràng, nhưng lão tam Ôn Lạt Hà là người có kỹ năng cao nhất.
Có điều kết quả này cũng không thể khiến cho bọn họ thật lòng khâm phục, bọn họ cũng không muốn tranh hùng đấu thắng trước mặt đại địch mà tổn thương tình nghĩa hai bên, vì vậy bọn họ chuyển hóa tâm tình tranh đấu này thành hai loại.
Thứ nhất, bất kỳ người nào trong bọn họ đều không thể dựa vào kiếm pháp tu vi cá nhân mà vượt trội thành thiên hạ vô địch, ít nhất Nguyên Thập Tam Hạn, Lãn Tàn đại sư, Thiên Y cư sĩ, Gia Cát tiên sinh năm xưa đều từng phân biệt đánh bại bọn họ.
Nhưng bọn họ vẫn muốn trở thành thiên hạ đệ nhất.
Nếu một người bọn họ không thể hoàn thành tâm nguyện này, vậy không bằng bảy người cùng hoàn thành nó.
Vì vậy, khi bọn họ đang trong thời kỳ phong hoa rực rỡ, lại ẩn cư hai mươi năm, bí mật sáng tạo ra một loại kiếm pháp, do bảy người hợp sức thi triển, thiên hạ vô địch. Đó là kiếm pháp, không phải kiếm trận.
“Kiếm trận” cho dù không ai có thể phá được, đó cũng chỉ là “trận pháp”, không phải thành công của cá nhân.
Thứ mà bọn họ sáng tạo, tu luyện, nghiên cứu, chính là một loại kiếm pháp tuyệt thế, một người không thể phát huy được uy lực thật sự của nó, dựa vào cá nhân cũng không thể thi triển loại kiếm pháp này. Cho nên bảy người bọn họ liên thủ, tâm ý tương thông, đồng thời và đồng loạt sử dụng loại kiếm pháp này.
Loại kiếm pháp này lấy tên là “Thiên Hành Kiện”.
“Thiên Hành Kiện” kiếm pháp.
Bọn họ tin chắc, chỉ cần loại kiếm pháp này của bọn họ luyện thành xuất thế, nhất định đời không đối thủ, thiên hạ vô địch.
Bọn họ xét theo cao thủ kiếm pháp của đời trước, đó là đám người “Tam Tuyệt Thần Kiếm” Khuất Hàn Sơn, Cố Quân Sơn, Đỗ Nguyệt Sơn, cùng với “Thất Tuyệt Thần Kiếm” Khang Xuất Ngư, kết quả vẫn không thể trở thành đại tông sư một mình gánh vác một phương. Mà bảy người Ôn Trần La Dư Tôn Lương Hà đã quá trung niên cũng biết người biết ta, hiểu rõ chỉ dựa vào tài năng của mình thì không thể trở thành bậc thầy độc bá võ lâm, vì vậy tập hợp trí lực của mọi người, muốn tạo nên loại kiếm pháp “Thiên Hành Kiện” bao hàm tinh hoa của bảy người, mới có thể vô địch thiên hạ.
Thứ hai, ngoại trừ bảy người tập trung tu luyện một loại kiếm pháp cùng sử dụng, mỗi người bọn họ còn khổ tâm bồi dưỡng ra một đồ đệ, nhằm để kế thừa võ công kiếm pháp của bọn họ.
Bọn họ chuyển tâm tình tranh đấu lẫn nhau sang cho môn đồ của bọn họ.
Nói cách khác, giữa bọn họ không hề tranh đấu, chuyện phân cao so thấp lại do môn nhân đệ tử của bọn họ hoàn thành.
Cho nên, từ sau khi Thất Tuyệt Thần Kiếm thành tài xuống núi, gần như hàng năm đều phải giao đấu một lần.
Địa điểm giao đấu không ở danh sơn, cũng không ở danh phong, chỉ chọn ở núi Hoàng Nham.
Theo cách nói của Thất tuyệt Kiếm Thần, nếu chọn tỷ võ tại Hoa sơn, Thiên sơn, Hoàng sơn, Ngũ Đài sơn, Cửu Hoa sơn, Nhạn Đãng sơn gì đó, chỉ sợ tên núi nặng hơn tên người. Cho nên bọn họ đặc biệt chọn một số ngọn núi thanh tú không bị người biết, nhưng lại có linh tính làm nơi tỷ võ, biểu thị có lòng tin địa điểm sẽ thành danh nhờ người.
Trải qua một lần giao đấu của bọn họ (hoặc không chỉ một lần), núi này sẽ vì vậy mà dương danh.
Loại suy nghĩ này của bọn họ, ít nhất có ba chỗ tốt.
Thứ nhất, có thể khích lệ lòng háo thắng của đệ tử, đã giỏi còn muốn giỏi hơn, đã tốt còn muốn tốt hơn, từ trong cạnh tranh giao đấu rèn luyện lẫn nhau, lớn mạnh vượt bậc.
Thứ hai, có thể làm tiêu tan sự tranh giành háo thắng giữa bảy người bọn họ, không tổn thương hòa khí, để môn đồ hoàn thành tư tâm của bọn họ, lại cùng nhau chí công vô tư bồi dưỡng tuyệt thế kiếm pháp hợp lòng hợp sức.
Thứ ba, bọn họ truyền tất cả chiêu thức mới lạ về kiếm pháp, võ công cho đồ đệ luyện tập, phát huy, từ trong thắng bại giữa môn nhân đệ tử giao đấu so chiêu, dẫn dắt bọn họ tự kiểm điểm và cải tiến.
• Đây đều là chuyện tốt, nhưng cũng có chỗ xấu.
Chỗ xấu lại nằm ở tâm lý bảy tên môn đồ của bọn họ.
Bọn họ thường muốn hai bên giao đấu, vì vậy đã tạo thành áp lực cực lớn, cùng với không ai phục ai, người nào cũng hi vọng đàn áp đối phương, không thể hoàn toàn đoàn kết khắng khít.
Mấy năm nay một mạch so kiếm, lại là La Thụy Giác (Hán Quả) võ công nổi bật xuất chúng, sáng tạo độc đáo, tự thành phái riêng, có một không hai.
Lão tam Ôn Lạt Hà là người có tu vì kiếm pháp cao nhất trong Thất tuyệt Kiếm Thần, nhưng môn đồ Ôn Hỏa Cổn do hắn đích thân truyền thụ lại không phải là đối thủ của La lão yêu, đành phải xếp thứ hai.
Bọn họ đương nhiên trong lòng không cam, cũng không phục, huống hồ giữa đồng môn hai bên cũng tranh đấu sáng tối vô cùng kịch liệt, dần dần chia làm ba phe.
Một phe do Ôn Hỏa Cổn cầm đầu, được Hà Nan Quá và Lương Thương Tâm ủng hộ. Một phe khác do Tôn Ức Cựu làm chủ, Dư Yếm Quyện và Ngô Phấn Đấu là phụ. Còn một người chính là La Hán Quả (Thụy Giác) tự thành một phái.
Do đó, Thái Kinh một khi ban thưởng bất công, mấy “phái” đồng môn này liền đố kị phỉ báng lẫn nhau.
Ngày đó Thích Thiếu Thương tập kích ban đêm, chính là nắm được tâm lý này, thành công chia rẽ giết chết ba thành viên Dư Mặc Nhiên (Yếm Quyện), Tôn Bồ Đề (Ức Cựu) và Ngô Ưng Quân (Phấn Đấu) trong Thất Tuyệt Thần Kiếm.
Đây chính là kết quả của người đời trước xúi giục thúc đẩy môn đồ của bọn họ tranh thắng giao đấu lẫn nhau quá mức.
Nếu đồ đệ của bọn họ đánh thua, nếm mùi thất bại, người làm sư phụ cho dù có phong độ cũng sẽ không vui, khó tránh khỏi trách cứ quá nghiêm khắc (bất kể có công khai khiển trách hay không).
Cho nên bọn họ bị áp lực rất lớn.
Trong quá trình bọn họ trưởng thành và tu luyện, Ôn Hỏa Cổn, Ngô Phấn Đấu, Dư Yếm Quyện, Lương Thương Tâm, Hà Nan Quá, La Thụy Giác và Tôn Ức Cựu hàng ngày đều chịu áp lực dưới loại giao đấu cạnh tranh này.
Trong quá trình dài đằng đẵng và cô độc ở trên núi một mình luyện kiếm, bọn họ đều trải qua những chua xót khổ sở không ai biết.
Cho nên bọn họ đều có đặc tính riêng.
Ôn Hỏa Cổn có thể không biết rõ tình hình của đám người Tôn Ức Cựu, Ngô Phấn Đấu và Dư Yếm Quyện, nhưng hắn lại biết rõ tình huống khổ sở của Lương Thương Tâm và Hà Nan Quá.
Bởi vì bọn họ từng thổ lộ với hắn.
Lúc Hà Nan Quá băn khoăn nhất, ngày ngày đều đi bái thần. Hắn học kiếm tại núi Nga Mi, nơi này có miếu chùa nổi tiếng. Hắn ngày ngày bái, lớn tiếng thưa bẩm, cầu thần phù hộ, giúp hắn học thành kiếm pháp hạng nhất, vượt trội đồng lứa, để hắn không đến mức làm sư phụ thất vọng, trách mắng, để hắn không đến mức bị đám người Lương Thương Tâm, Ngô Phấn Đấu xem thường.
Hắn thành kính khẩn cầu thần linh ban cho hắn trí tuệ, ban cho hắn sức mạnh.
Bởi vì thiên tư có hạn, cho dù kiếm pháp của Hà Nan Quá đã đạt đến hàng ngũ cao thủ hạng nhất trên giang hồ, nhưng trong số bảy vị sư huynh đệ đồng môn, hắn chẳng qua là một người không trên không dưới.
Hắn không thể nổi bật xuất chúng, trấn áp đồng môn.
Vì điểm này, sư phụ Hà Kiếm Thính thường trừng phạt hắn.
Hắn rất thảm, cũng rất cô độc.
Cho nên kiếm pháp của hắn càng đi theo một đường nan quá (khó chịu), người giao thủ với hắn cho dù có thể sống, cũng cảm thấy khó chịu.
Khi hắn phát hiện thần linh cũng không phù hộ hắn, mà mỗi lần giao đấu kết quả đều làm hắn khá khó chịu, cuối cùng có một ngày, hắn lật đổ lư hương, đá ngã tượng thần, còn từng ngụm từng ngụm, từng miếng từng miếng nuốt chửng lò tro, cây nến, nhang thơm vân vân vào trong bụng.
Cũng bất kể những nhang khói đang cháy này đốt phỏng chính mình.
Danh sách chương