Gia Luật Hỉ Tôn vẫn trầm mặc, nghe vậy nói:

- Trên tấm bản đồ đó có vẽ một mật địa, có thể tránh thủ quân của Nguyên Hạo. Sau khi ta có được tấm bản đồ, ta đã lập tức cho người đi thăm dò rồi…kết quả….

Trên nét mặt của ông ta cũng lộ ra sự dữ tợn:

- Chỉ có một người liều mạng ra được, nói cho ta biết, trong đó toàn là cạm bẫy!

Địch Thanh trong lòng toát lạnh, thất thanh nói:

- Là Nguyên Hạo đặt bẫy? Gia Luật Hỉ Tôn một lúc này mới chậm rãi gật đầu nói:

- Ta cũng cho là thế.Y biết không bắt được ta, nên mới để cho Tào Hiền Chính cố ý để lộ ra một nửa tấm bản đồ. Y biết rằng ta nhất định sẽ tìm một nửa tấm bản đồ còn lại, sau đó bày kế giết ta. Bây giờ ta đã biết, y biết có rất nhiều người muốn đến Hương Ba Lạp vì thế đã cố ý đưa ra tấm bản đồ giả để người ta đến Hương Ba Lạp, sau đó lợi dụng đặt bẫy để bắt hết những người đến đó!

Địch Thanh nghiêm nghị, nhớ tới vụ chém giết bi thảm khi xưa ở phủ Hưng Khánh,. Hắn biết Nguyên Hạo giết mẹ giết con, giết vợ giết cháu, các thần có công muốn phản, y cũng giết không tha. Với tâm địa sắt đá của một kẻ như Nguyên Hạo thì việc bày ra cái kế độc ác như vậy cũng là chuyện rất bình thường.

Công chúa Khiết Đan ở bên cạnh Nguyên Hạo, trong lòng có suy nghĩ gian dối, không ngờ Nguyên Hạo lợi dụng công chúa Khiết Đan để mưu sát những người đến Hương Ba Lạp.

Rốt cuộc Hương Ba Lạp có cái gì huyền ảo mà Nguyên Hạo lại không cho người ta tiếp cận?

Địch Thanh nghĩ tới đây, khóe miệng đột nhiên lộ ra ý cười. Gia Luật Hỉ Tôn thấy thế, không giải thích được nói:

-Vì sao Địch huynh lại cười?

Địch Thanh có chút bi ai, lắc đầu, trong lòng lại nhớ tới Chủng Thế Hành, Bát Vương gia đều dồn hết tâm hết sức đi tìm tấm bản đồ. Nếu phát hiện ra tấm bản đồ đó không chỉ là giả mà còn là một cái bẫy thì không biết sẽ có cảm tưởng như thế nào? Nghĩ đến chuyện này, Địch Thanh liền hỏi:

- Vì thế nên Đô điểm kiểm đã giết Tào Hiền Chính rồi?

Lúc đầu hắn không giải thích được vì sao Diệp Hỉ Tôn lại phải giết người họ Tào kia, bây giờ thì đã hiểu rồi.

Gia Luật Hỉ Tôn gật đầu nói:

- Đương nhiên rồi. Y giết vô số thủ hạ của ta, ta giết y còn là may rồi đó.

Lời nói của y đầy oán hận, ánh mắt lộ ra ý oán hận.

Địch Thanh thấy nhãn thần của Gia Luật Hỉ Tôn, trong lòng hơi run sợ. Hắn rốt cục đã hiểu ra rất nhiều chuyện, nhưng vẫn còn một chuyện không rõ lắm, nên mới hỏi:

- Đại vương, hôm nay ngài triệu ta đến đây, lẽ nào là muốn nói mấy chuyện này sao?

Da Luật Chân Tông nói:

- Ngươi không đến giúp ta, ta cũng đoán biết trước được rồi. Hôm nay ta muốn nói với ngươi những điều này, chẳng qua chỉ là muốn nói cho ngươi biết rằng chúng ta có chung một kẻ thù, đó chính là Nguyên Hạo. Ta và ngươi liên thủ với nhau, đối phó với y thì càng dễ dàng hơn. Nhưng nếu như ngươi thực sự không muốn thì ta cũng không miễn cưỡng.

Địch Thanh chậm rãi đứng lên, thi lễ thật sâu nói:

- Vậy tại hạ xin cáo lui.

Nói xong, hắn xoay người ra thiên điện. Gia Luật Hỉ Tôn khẽ cau mày, nhìn Gia Luật Chân Tông nói:

- Bệ hạ, lẽ nào lại để hắn đi như thế ? Cái dũng của Địch Thanh, Đại vương cũng đã nhìn thấy rồi. Nếu hắn ở Đại Tống, mà bệ hạ thực sự muốn nam hạ thì chỉ sợ hắn chính là cản trở lớn nhất.

Da Luật Chân Tông trầm mặc hồi lâu, nhìn phía ngoài điện nói:

- Hắn đã cứu ta nhiều lần. Ta thực sự còn rất cảm tạ hắn. Hơn nữa bây giờ...kẻ thù của chúng ta là Nguyên Hạo, còn Địch Thanh thì Nguyên Hạo tuyệt đối sẽ không sống yên.

Nói dứt lời, khóe miệng liền có ý cười. Gia Luật Tông Chân đưa ra kết luận thực sự:

- Chúng ta ngồi yên chờ nhìn trò thôi.

Địch Thanh ra khỏi hoàng cung, lập tức đi tìm Phú Bật.

Lúc này đêm đã khuya, mặt hơi lạnh, Địch Thanh ngẩng đầu nhìn lên mới phát hiện ra ánh trăng sáng đã ẩn đi từ lúc nào, đã có gió thổi và tuyết rơi.

Hóa ra….đã vào mùa đông rồi!

Năm tháng trôi đi như nước chảy, thời khắc đã qua không thể quay về được, còn những người đã bỏ lỡ thì sao?

Địch Thanh giẫm nhẹ lên tuyết rơi, bước vào phòng của Phú Bật với tâm trạng nặng nề. Phú Bật chưa ngủ, thấy Địch Thanh đến thì lập tức đứng dậy nói:

- Địch tướng quân, người Khiết Đan đã từ bỏ Ngõa Kiều quan, mười huyện về phía nam Tấn Dương rồi. Nhưng ngoài số tiền mỗi năm theo quy định sau liên minh Thiền Uyên ra thì mỗi năm đều phải cấp cho người Khiết Đan thêm một trăm ngàn lượng bạc và một trăm con ngựa.;

Địch Thanh lẳng lặng nhìn Phú Bật nói:

- Có lý gì để cho bọn họ không?

Phú Bật hơi có chút quẫn ý, tuyết ngoài trời lẳng lặng bay. Từ hơi thở của hai người cũng có thể nhìn thấy hơi lạnh. Tuyết biên cương phía Bắc đến sớm, khiến người ta lạnh đến tận xương cốt.

- Thực sự không có lý do. Nhưng đây là ý của triều đình.

Thần sắc của Phú Bật có chút hơi áy náy, cũng có chút khó xử. Lần này ông ta nghe theo ý của triều đình nhưng không nói về nội dung nghị hòa với Địch Thanh. Tuy là ý của triều đình nhưng ông ta chung quy vẫn cảm thấy có lỗi với Địch Thanh.

Nếu không phải là Địch Thanh, nghị hòa sẽ không thuận lợi như vậy. Nhưng lúc nghị hòa, bọn họ lại giấu Địch Thanh. Triều đình sợ gây thêm phiền phức.

Địch Thanh nhìn Phú Bật một lúc lâu, xoay người định đi thì Phú Bật đột nhiên lại gọi Địch Thanh lại, nói:

- Địch tướng quân, thực ra triều đình cũng rất khó xử. Bởi vì tây bắc có đưa tin đến rằng Nguyên Hạo lại có ý đồ xuất binh.

Địch Thanh nhíu vùng xung quanh lông mày, trong lòng thầm nghĩ “Nhưng ngươi có biết không, tin tức này là do Chủng Thế Hành khổ sở thế nào mới do thám được, lại phải trải qua bao nhiêu trắc trở mới đưa đến được Biện Kinh? Ta nghĩ là triều đình không tin. Bọn họ tuy không tin nhưng mượn cái cớ này để bào chữa.”

Phú Bật lại nói:

-Lã tướng đã qua đời, áp lực biến pháp(cải cách chính trị) rất lớn. Nghe nói thời gian gần đây, kết đảng đã lớn mạnh, bản thân Phạm Công cũng rơi vào vùng nước xoáy. Ta cũng muốn sớm quay trở về khuyên Thánh thượng.

Trong lòng thầm nghĩ “ Trước đây, Thánh thượng đã từng hỏi Phạm Công “Từ xưa tiểu nhân kết thành đảng phái, vậy có đảng quân tử không?”, Phạm Công trả lời rằng “Nếu kết đảng có lợi cho quốc sự thì cũng chẳng đáng trách.” Ôi, kẻ tiểu nhân từ xưa đến nay chưa từng nói bản thân mình là kết đảng cả. Câu nói này của Phạm Công tuy là rất uyển chuyển, nhưng nếu gặp minh quân thì chắc chắn sẽ bị chê cười. Nhưng câu nói này đích thân do Phạm Công nói ra, e rằng càng dễ khiến kẻ tiểu nhân mượn cớ. Điều khiến người ta càng không yên chính là cuốn “ Kết đảng luận” của Âu Dương Tu.

Hóa ra cách đây không lâu, Âu Dương Tu thấy Phạm Trọng Yêm vì chuyện những người kết kết đảng công kích phản đối cải cách trong triều đình mới viết nên “Kết đảng luận” để tặng. “Kết đảng luận” chủ yếu xoay quanh quan niệm lớn từ xưa là “ Quân tử không kết đảng” để làm thành bài văn, tài văn chương nổi bật, khoáng đạt dâng trào. Không nói quân tử không kết đảng mà nói quân tử luôn có bằng hữu. Cuối cùng kết luận, Quân vương thánh minh không dùng kết đảng tiểu nhân, mà dùng bằng hữu quân tử, thiên hạ chắc chắn thái bình.

Bài văn đó vừa đưa ra, dân chúng trong kinh thành, thậm chí văn nhân thiên hạ đều thi nhau truyền tụng cùng tán thưởng.

Nhưng những bài văn hay lưu truyền thiên cổ thì luôn không phải là bài văn tốt trong triều đình mà các thế lực quyền thế đấu đá. Bài văn này đến tai Phú Bật, Phú Bật liền biết ngay là không hay rồi, trong lòng thầm nghĩ Phạm Công nói với Thánh thượng về kết đảng thì không ảnh hưởng lắm, Âu Dương Tu ngươi lại dám nói với người thiên hạ về việc kết đảng, như thế chẳng phải là tìm cái chết sao? Ông lo lắng về động tĩnh của kinh thành, cũng rất sốt ruột mong quay về.

Địch Thanh không nói thêm nữa, chỉ đi tới cửa thì đột nhiên nói một câu:

- Phú đại nhân lúc này mới quay trở về không sợ sẽ bị cuốn vào chuyện kết đảng phái sao?

Nói vừa dứt lời thì bóng hắn đã khuất vào trong bóng đêm.

Có tiếng gió thổi đến, mang theo hơi lạnh của tuyết. Ngọn đèn dầu lúc sáng lúc mờ. Phú Bật đứng đó, sắc mặt cũng âm trầm bất định. Lúc đó ông ta phát hiện ra Địch Thanh dường như đã nghĩ càng sâu hơn.

Phú Bật chỉ là bị ép quay về giúp Phạm Trọng Yêm một tay, nhưng như Địch Thanh nói, nếu như ông quay v thì có mấy tác dụng chứ, là tặng than sưởi ấm ngày tuyết hay là đổ thêm dầu vào lửa đây? Đó là chuyện không thể nào biết được.

Lại mấy ngày trôi qua, cuộc hòa đàm đã đến hồi kết. Khiết Đan không hề xuất binh Yến Vân, ngược lại sẽ giúp Đại Tống cảnh cáo Tây Hạ, ép buộc Tây Hạ không được dính vào. Còn Khiết Đan sẽ vì thế mà được hưởng lợi chính là mỗi năm lượng tiền tuế từ Đại Tống sẽ tăng một trăm nghìn lượng bạc, một trăm nghìn con ngựa.

Mọi người đi về phía nam.

Cuộc hòa đàm đã thành. Bất kể là Phú Bật hay Địch Thanh, hay là nhóm cấm quân thì cũng chẳng có mấy vui mừng. Trên đường đi, mọi người trầm mặc không nói gì. Đến biên giới Đại Tống, khi đến An Túc thì trời có tuyết rơi rất nhiều, núi xa một mảnh tuyết trắng, hoa tuyết bay lượn trong giữa trời giống như một con rồng uyển chuyển uốn lượn trên không.

Tâm tư của Phú Bật rất phức tạp. Lúc đi ngang qua Địch Thanh, nhìn từ xa thấy dãy núi xa như con rồng thì đột nhiên ghìm ngựa, nói với Địch Thanh:

- Địch tướng quân, ngài không cần quay trở về kinh thành nữa.

Tuy ông ta nói với Địch Thanh nhưng lại ngước mắt nhìn tuyết bay.

Địch Thanh ngẩn ra, một lát mới nói:

- Vì sao?

Thời khắc đó, trong lòng hắn có sự chờ mong. Nhưng thấy đôi mắt trốn tránh của Phú Bật, lòng trầm xuống.

Phú Bật nói:

- Thực ra khi triều đình hạ chỉ đồng ý nghị hòa thì đồng thời cũng hạ một mật chỉ cho ta, nói rằng lần nghị hòa này Địch tướng quân có công, theo lý thì nên ngợi khen. Lưỡng Phủ đã bàn bạc và quyết định phái Địch tướng quân đến phủ Chân Định ở Hà Bắc đảm nhiệm chức Phó tổng quản, đồng thời thăng làm Phủng Nhật, Thiên võ tứ sương Đô Chỉ Huy Sứ!

Phủng nhật, Thiên võ tứ sương Đô Chỉ Huy Sứ, đây vốn là vinh quang mà tương môn danh tướng Cát Hoài Mẫn mới có đích vinh quang! Địch Thanh được thăng lên như thế, cuối cùng đã làm chủ Tam Nha, chỉ cần phải để ý đến Lưỡng phủ và thiên tử nữa mà thôi.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện