Minh Đức trên danh nghĩa là nằm nhà đọc sách suốt mấy tuần liền, thực tế lại bị giam lỏng ấy thế mà Kiền Vạn Đế vẫn một mực nhẫn nhịn, không triệu y vào cung. Mãi đến khi xuân vi sắp sửa bắt đầu, quan Chánh Chủ khảo là Đinh Hoảng mang danh sách thí sinh đến ngự thư phòng, Kiền Vạn Đế thoáng nhìn thì đã trông thấy bốn chữ ‘Thượng Quan Minh Đức’ nằm trên cùng.

Hắn khẽ đưa tay ve vuốt bốn chữ rất mực thân thương kia, nét mặt vẫn phẳng lặng yên ổn, lát sau mới chậm rãi trầm giọng: “Ái khanh vất vả rồi. Sau khi chấm xong, nhớ đem bài thi [1] của tam giáp Tiến sĩ dẫn đầu đến cho trẫm xem thử.”

Hoàng đế tự mình duyệt bài thi, tiền lệ này không phải là không có, nhưng… cùng lúc duyệt quá nhiều như vậy, trước giờ rõ ràng chưa thấy một ai… Đinh Hoảng nghe xong toát mồ hôi, bèn bạo gan mạnh mồm hỏi lại: “Bệ hạ muốn xem hết toàn bộ sao ạ?? Hay để thần chọn lọc những bài tối ưu, rồi dâng lên cho bệ hạ xem qua?”

Kiền Vạn Đế nhíu mày: “Trẫm không nên tự mình thẩm duyệt lương đống [2] ngày sau của vương triều chúng ta hay sao?”

Đinh Hoảng vội vàng quỳ phịch xuống đất: “Thần tuân chỉ!”

Trương Khoát lặng lẽ thị hầu một bên, đến khi thấy Đinh Hoảng đã hoàn toàn khuất dạng, mới nháy mắt ra hiệu cho bọn cung nữ. Cung nữ vội vã dâng lên một chén canh sâm, lão đón lấy, cẩn trọng bưng đến cạnh án thư mà khẽ khàng cất tiếng: “Bệ hạ.”

Kiền Vạn Đế mới như giật mình sực tỉnh: “Hử?”

Trương Khoát vừa nghiêng người khuấy nhè nhẹ chén canh kia, vừa thỉnh thị ý chỉ của chủ tử: “Bệ hạ đêm nay định lật thẻ bài của nương nương cung nào ạ?”

Kiền Vạn Đế lơ đễnh quét mắt qua mớ thẻ ngà đặt trên chiếc mâm ngọc trước mặt mình. Hoàng đế đang tận hưởng những năm khang cường thịnh trị, lạ kỳ thay hậu cung lại đa phần vắng ngắt vắng tanh. Thời điểm đông đúc nhất cũng chỉ chừng hai mươi người sau khi Minh Duệ Hoàng hậu bị giết, Quý phi bị giết, Hạ Chiêu nghi cũng bị giết, Tứ phi [3]căn bản chưa từng được sắc phong đầy đủ, lớp người cũ ai chạy được đã mất dạng, ai bị giết cũng đã mất xác, hiện tại chỉ còn khoảng mười người.

Mười nữ nhân này cũng chẳng sướng sung gì, kẻ thì thân phận quá đỗi thấp hèn, người lại chưa từng nếm mùi ái ân sủng nịch… Tính đi tính lại, năng được vời tới thị tẩm chỉ chừng một hai người.

“Trương Khoát à…” Kiền Vạn Đế trầm mặc một lúc lâu, rồi bỗng nhếch cười, “Ngươi nói thử xem, nếu trẫm chơi trò tổng tuyển chọn tú nữ trước mặt Minh Đức… thì tên nhóc đó sẽ làm gì?”

Trương Khoát cung kính khom người: “Hồi bẩm bệ hạ, Minh Đức công tử võ công ngày càng tiến bộ vượt bậc, bệ hạ tốt nhất đừng nên mạo hiểm ạ…”

Kiền Vạn Đế phá lên cười ha hả: “Trương Khoát, ngươi hiểu rõ vật nhỏ [4] kia thật đấy… Cũng phải, trước giờ hắn vốn hết mực nâng niu gìn giữ Hoàng hậu mà… Quả là một hiếu tử hiếm có xưa nay…”

Nói đoạn hắn khoan thai đứng dậy: “Nào, chúng ta hãy đi xem thử Hoàng hậu đang làm gì…”

Từ lúc bị cấm túc đến giờ, Hoàng hậu đã thiết lập ngay trong Đông Noãn Các của mình một Tĩnh An Đường, ngày ngày tụng kinh niệm Phật, bảo là để cầu mong thái bình cho toàn thể hoàng triều. Kiền Vạn Đế cùng Hoàng hậu bất hòa, mang tiếng là bí mật nhưng triều đình từ trên xuống dưới ai mà không biết… Hoàng hậu chưa từng sinh nở, thiếu hẳn một thế lực ngoại thích mạnh mẽ chống lưng, lại không còn trẻ trung xinh đẹp, trước giờ đã bị cấm túc vài lần, ai ai cũng cho rằng vị trí này nàng giữ chẳng được bao lâu, thế mà quái lạ thay, dù bị ghẻ lạnh triệt để, chiếc ngai Hoàng hậu kia nàng vẫn ngồi vững vàng từ ngày này qua tháng nọ, nửa điểm xê dịch cũng chả có.

Kẻ không biết thì tưởng Đế-Hậu hai người tình thâm nghĩa trọng, biết rồi lại suy diễn rằng hậu cung của Hoàng đế không mấy dồi dào chỉ vì ngài chưa tìm được giai nhân nào tâm đầu ý hợp, thế nên vội vội vàng vàng tống tiễn con gái mình vào cung. Quãng thời gian Minh Đức phải bế quan học hành, trùng hợp thay gia đình của Đinh Quý phi đã chết kia lại dâng lên Hoàng đế thêm một nữ tử nữa, trẻ trung xinh đẹp có thừa, không lâu sau liền được sắc phong Chiêu dung. Kiền Vạn Đế vừa bước vào cửa Tĩnh An Đường của Hoàng hậu thì chợt nghe thấy tiếng cười trong trẻo ngọt ngào của Đinh Chiêu dung nọ vẳng ra: “Hoàng hậu nương nương đã chuẩn bị lễ vật gì cho sinh thần của bệ hạ vậy ạ? Đây là gì thế ạ, là một bản chép tay Bàn Nhược Ba La Mật Kinh [5] phải không ạ? Lần đầu tiên thần thiếp được nhìn thấy kinh thư chép tay đấy ạ, nương nương có thể ban cho thiếp xem thử được không ạ?”

Tên tiểu thái giám ngoài cửa vừa định cao giọng thông truyền thì đã bị Kiền Vạn Đế khoát tay miễn thứ, bởi hắn đột nhiên thích đứng bên ngoài nghe lén một phen…

Bên trong khung cửa nguyệt lượng [6] khảm ngọc lưu ly [7] hình phượng hoàng, thanh âm an tĩnh của Hoàng hậu chậm rãi vọng ra: “Nữ tử tuổi còn trẻ như vậy mà lại có hứng thú với những thứ này, thật hiếm thấy. Muội muội muốn xem thì cứ việc tự nhiên.”

Đinh Chiêu dung liền hoan hoan hỉ hỉ cầm quyển kinh thư lên, vừa săm soi ngắm nghía vừa nức nở ngợi khen: “Chữ viết của Hoàng hậu nương nương thật là đẹp mắt quá đi! Muội muội cũng đang luyện thư pháp kiểu trâm hoa tiểu khải [8], nhưng quả tình kém xa chữ viết của nương nương a… Lễ vật nặng tình nặng nghĩa như vậy, nhất định sẽ khiến bệ hạ hài lòng!”

Hoàng hậu cười rất nhạt: “Trong thâm cung này có việc gì để giết thời gian đâu chứ, ngoại trừ viết vài ba chữ, vẽ mấy bức tranh cho qua ngày đoạn tháng… Muội muội nếu rảnh rỗi thì cứ sang đây luyện tập cùng ta… nước chảy mãi rồi đá cũng mòn…”

Đinh Chiêu dung che miệng cười hi hi: “Ây da, nói ra chỉ sợ nương nương chê cười, thiếp làm sao có thời gian thanh tu như người được chứ? Bệ hạ ngày nào cũng tạt qua, khiến thiếp nửa khắc thư thả cũng chả có… Hôm qua sứ thần các nước yết kiến, thiếp cứ tưởng mình sẽ được nhàn nhã một ngày, ai ngờ lại bị bệ hạ triệu đi thị yến…”

Hoàng hậu chau mày, định mở miệng nhưng lại thấy người đối diện dáng vẻ quá đỗi hồn nhiên khờ khạo, bèn giữ nguyên im lặng.

Đinh Chiêu dung kỳ thực cũng khá là tinh mắt, chỉ thoáng trông thái độ của Hoàng hậu thì đã vội hoảng hồn đứng dậy: “Nương nương sao vậy ạ? Người cảm thấy khó ở phải không ạ? Có cần tuyên Thái y không ạ?”

Kiền Vạn Đế nghe đoạn liền đưa mắt ra hiệu cho Trương Khoát, lão lập tức mở mồm cao giọng: “Bệ hạ giá đáo —— ”

Nghi trượng vàng chói lóa đứng sừng sững hai bên phượng môn, Kiền Vạn Đế hùng hổ bước thật nhanh vào bên trong, chỉ thấy Hoàng hậu cùng Đinh Chiêu dung đang ngơ ngác ngây người ra vì hắn cứ như thể từ trên trời giáng xuống.

Đinh Chiêu dung nhanh nhảu quỳ xuống sợ sệt kêu lên: “Bệ hạ! Bệ hạ, nguy rồi! Thần thiếp không biết mình đã nói sai điều gì, khiến cho Hoàng hậu nương nương nổi giận sinh bệnh rồi ạ…”

Hoàng hậu sắc mặt vẫn nghiêm nghị, bấy giờ mới đứng dậy hành lễ: “Thần thiếp bái kiến bệ hạ.”

Kiền Vạn Đế phẩy phẩy tay, ý bảo Hoàng hậu hãy ngồi xuống, rồi thân hành nâng Đinh Chiêu dung đang sướt mướt tỉ tê lên, ôn tồn cất tiếng: “Hoàng hậu là bậc mẫu nghi thiên hạ, bao dung độ lượng như nước trên nguồn, sao lại vì một hai câu nói vô tâm mà giận nàng cho đành?”

Hắn nói đoạn bèn xoay sang hỏi Hoàng hậu: “Phải không?”

Hoàng hậu nghiến răng nghiến lợi, gắng gượng phun ra một chữ ‘phải’.

“Vậy thì tốt,” Kiền Vạn Đế đỡ Đinh Chiêu dung ngồi xuống ghế, vui vẻ hỏi: “Chiêu dung đến tìm Hoàng hậu làm gì vậy?”

Đinh Chiêu dung bèn e lệ nhoẻn cười: “Thần thiếp đang ngắm quyển kinh thư chép tay cực kỳ đẹp mắt của Hoàng hậu nương nương, cảm thấy hổ thẹn khôn cùng ạ…”

“Thật à?” Kiền Vạn Đế nhón lấy quyển kinh thư nọ, tùy tiện lật xem vài ba trang: “Hoàng hậu rảnh rỗi như vậy, chẳng thà hãy đi cai quản hậu cung, coi sóc nhân sự, so với việc tốn thời gian tin thần tin quỷ còn hay ho hơn rất nhiều. Những thứ mê tín hủ lậu thế này, lẽ ra một mẫu nghi thiên hạ như nàng chẳng nên vướng vào mới đúng?”

Hoàng hậu bị mắng như tát nước vào mặt, chỉ biết hạ giọng đáp khẽ: “Thần thiếp xin ghi nhớ.”

Kiền Vạn Đế nói xong liền tiện tay quẳng quyển kinh thư lên bàn, có ngờ đâu quyển sách văng trúng làm chiếc bình cao cổ bằng ngọc lưu ly bày sẵn chao đảo, nước lập tức trào ra ướt đẫm khiến chữ viết nhanh chóng nhòe đi.

Đinh Chiêu dung trông thấy cảnh tượng đó, vội vàng sợ hãi kêu lên: “Hoàng hậu nương nương! Thế này…”

Hoàng hậu cũng cầm lấy quyển kinh thư kia, thản nhiên vất xuống đất: “Hư rồi thì thôi. Muội muội không cần hoảng hốt, cũng đâu phải thứ gì đáng giá.”

Đinh Chiêu dung vẫn đang khiếp sợ ngập tràn, ngược lại Kiền Vạn Đế cứ hành xử như chưa từng có chuyện gì xảy ra, ngang nhiên hào hứng hỏi lớn: “Ái phi hôm nay muốn ăn món gì?”

Đinh Chiêu dung e dè liếc chừng Hoàng hậu rồi mới thỏ thẻ chỉ vào những thức mình chọn lựa: bánh bao thủy tinh, sủi cảo tôm, mấy loại bánh trôi… như thể muốn đánh giá tay nghề của đầu bếp hoàng cung, hoa văn màu sắc ra sao, hương vị thế nào… Nàng ta càng nói thì sắc mặt của Hoàng hậu càng trở nên khó coi, ngược lại Kiền Vạn Đế tựa hồ mắt điếc tai ngơ, hớn hở nhơn nhơn ôm ấp trêu đùa phi tử ngay trong Phật đường thanh tịnh của Hoàng hậu, càng lúc càng quá đáng.

Họ rành rành là một cặp vợ chồng bất hoà.

Thật ra Hoàng hậu chưa từng làm gì nên tội. Nàng độ lượng có thừa, không bao giờ gây nên sóng gió chốn hậu cung, lại biết giữ trọn tam tòng tứ đức. Thậm chí, chính nàng là người đã đưa Thượng Quan Minh Đức lên giường của hắn.

Nhưng Kiền Vạn Đế vẫn không chút vừa mắt với nàng. Minh Đức hao tổn tâm tư bảo vệ nàng bao nhiêu, càng khiến hắn chán ghét căm tức nàng bấy nhiêu.

Đinh Chiêu dung đang thao thao bất tuyệt bỗng nhiên im bặt, rồi thẹn thùng nũng nịu nhỏ giọng: “Bệ hạ, trời đã sẩm tối, chi bằng…”

Kiền Vạn Đế tựa như sực tỉnh, bất thần đứng dậy, lạnh lùng ra lệnh: “Hoàng hậu cứ tự nhiên nghỉ ngơi đi nhé.”

Hoàng hậu chẳng nói chẳng rằng cúi người thi lễ, tuy sắc mặt nàng khó coi hết sức, nhưng đương nhiên chẳng có kẻ nào thèm chú ý đến điều này. Kiền Vạn Đế vừa nắm tay Đinh Chiêu dung định rời khỏi, bỗng từ phía sau hắn chìa ra một chiếc khay dát vàng, bên trên đặt hai chén trà Tây Hồ Long Tỉnh.

Kiền Vạn Đế liếc sang bên cạnh, thấy kẻ dâng trà là một tên thị vệ đang cúi đầu, bèn gắt gỏng đanh giọng: “Ngươi làm gì vậy hả?”

Tên thị vệ chậm rãi ngẩng đầu, ôn nhu nhã nhặn hồi đáp: “ —— Thần thay mặt Hoàng hậu, bưng trà tiễn khách!”

Kiền Vạn Đế ngay lập tức chết sững tại chỗ.

Tên thị vệ kia, chính là thằng tiểu quỷ Thượng Quan Minh Đức đã hơn nửa tháng hắn không thấy mặt.



Đinh Chiêu dung ngơ ngáo liếc trộm Hoàng đế một cái, rồi xoay sang ngắm nghía dò xét tên thị vệ bạo gan kia. Ấn tượng đầu tiên của nàng… chính là… đẹp quá! Thiếu niên nọ chỉ chừng mười mấy tuổi, làn thu thủy nét xuân sơn tinh anh sắc sảo như được tỉ mẩn họa nên, tiềm ẩn đôi chút cảm xúc bất đồng nào đó… vừa lãnh đạm vừa nghiêm trang, lại vừa phảng phất vẻ bạo ngược hung hãn…

Nàng tuy đã gặp qua không ít người trong chốn hậu cung, nhưng tất thảy so với y đều khác hẳn. Khác biệt lớn nhất, có lẽ chính là ở thái độ. Trong cung ai nấy cũng đều cung kính hiền hòa an phận thủ thường, còn y rõ ràng là kiểu người ngang tàng hoạt bát, cao cao tại thượng như một cây kim bé nhỏ, mỏng mảnh mà nhọn hoắt.

Kiền Vạn Đế đột ngột thoái lui nửa bước, trầm giọng hỏi: “Bưng trà tiễn khách? …Tiễn ai? Ai là khách?”

Nếu bây giờ y dám trả lời là Tiễn người, người chính là khách, hắn không thể đảm bảo rằng mình sẽ chẳng gây nên bất cứ chuyện quá đáng nào.

Minh Đức lại mỉm cười, một nụ cười làm cả khuôn mặt y như sáng bừng lên: “ —— Cũng phải, khắp thiên hạ này nơi nào chả là vương thổ… bệ hạ đương nhiên là chủ nhân tối thượng… Thôi vậy, nếu tiễn không được bệ hạ, chén trà này thần đành tự mình uống cạn…”

Y nói đoạn bèn cầm chén trà lên, vừa ngửa đầu uống một hớp, cái chén đã bị đoạt phắt lấy. Trên phiến môi phớt hồng của tiểu mỹ nhân, vài giọt nước loang loáng vẫn còn vương, đẹp đến nao lòng.

Một tiếng ‘xoảng’ chói tai vang lên, bởi Kiền Vạn Đế đã quăng bừa món cổ vật bằng ngọc xanh biêng biếc giá trị liên thành đó xuống nền nhà, nhoài người chộp lấy cánh tay của Minh Đức, thô bạo kéo y đến đối diện Hoàng hậu rồi chỉ vào giữa mặt nàng mà hỏi: “Ngươi đường đường là một Hoàng hậu, thế mà chuyện nhỏ nhặt vặt vãnh nào cũng nhất nhất phải dựa vào hắn mới có thể đã nư? Nếu vậy ngươi đừng nên chiếm cứ vị trí này thêm nữa! Bảo hắn làm Hoàng hậu luôn đi!”

Kỳ thực Hoàng hậu cũng đâu hề ngờ tới tình huống Minh Đức sẽ cải trang thành thị vệ canh giữ ngoài cung, nhưng nàng vẫn lẳng lặng cúc cung quỳ xuống.

“Quỳ quỳ quỳ! Suốt ngày chỉ biết quỳ! Ngoài việc quỳ lạy ngươi còn biết làm cái quái gì? Đúng là thứ phế vậti!”

Kiền Vạn Đế mắng còn chưa dứt câu thì Minh Đức đã bất thần quỳ sụp xuống theo: “Bệ hạ, xin nguôi giận.”

Đinh Chiêu dung sợ sẽ gây nên điều chi thất thố, vội núp vào phía sau chiếc đại trụ sơn son thếp vàng mà len lén ngắm Minh Đức. Thiếu niên nọ tuy rằng đang khẩn cầu Hoàng đế nguôi giận, nhưng chẳng hiểu vì sao, nàng lại có cảm giác y thực chất đang mỉm cười — một nụ cười đầy ắp mỉa mai, khinh miệt cùng tàn ác.

Kiền Vạn Đế dùng một tay nâng mặt y lên: “Ngươi lại định cầu xin ta điều gì?”

“Thần chỉ muốn xin bệ hạ nguôi giận thôi a…” Minh Đức nhỏ nhẹ đáp, “ —— Người đường đường là một Hoàng đế, thế mà chuyện nhỏ nhặt vặt vãnh nào cũng đều phải dựa vào những lời đay nghiến nhục mạ Hoàng hậu để hả cơn bực tức… Nếu vậy Hoàng hậu nương nương đừng nên phạm lỗi thêm nữa, trì hoãn đêm xuân của bệ hạ và Đinh Chiêu dung, thật chẳng ý tứ chút nào…”

Từng câu từng chữ của y mới dịu dàng nhu thuận làm sao, thậm chí so với các cung phi mỹ nữ của hắn, còn có phần hơn.

Đinh Chiêu dung càng nghe càng thấy hai tai mình ù đi. Trên đời này có kẻ nào dám nói năng như thế với đương kim Hoàng đế, trừ phi muốn ‘được’ giải đến trước Ngọ Môn [9], trừ phi muốn liên lụy đến cửu tộc…? Gương mặt Kiền Vạn Đế quả nhiên vặn vẹo méo mó hẳn. Trong một khắc ngắn ngủi, hết thảy chúng nhân đều nảy sinh ảo giác rằng những ngón tay của hắn ngay lập tức sẽ chuyển từ cằm xuống chiếc cổ thon mảnh của y, siết chặt nó, bẻ nát nó.

“Thượng Quan Minh Đức,” Kiền Vạn Đế Lý Ký hạ giọng rin rít qua kẽ răng, “ —— ngươi cho rằng ngày mai khai khảo xuân vi, nghĩa là ngươi đã bước được một chân ra khỏi cửa hoàng thành??”

“Thần nào dám.”

“Trẫm có thể hủy bỏ tư cách dự thi của ngươi ngay bây giờ, ngươi có tin không?”

Minh Đức vẫn rất mực hòa nhã: “Thần sao lại không tin…”

Kiền Vạn Đế không hề cử động, cứ đứng đó mà chú mục vào y một lúc lâu. Ánh mắt hắn u ám lạnh lẽo thấu xương, tựa như dã thú đang nhìn chằm chằm vào con mồi khó nhằn. Thượng Quan Minh Đức vẫn ngoan ngoãn im lìm như vậy, dù quai hàm đang bị đối phương siết chặt, hàng mi sẫm mờ buông rũ, tạo nên cảm giác y sắp phó mặc cho người ra tay xé nát.

Kiền Vạn Đế quỳ một gối xuống, thô bạo kéo y sát vào người mình.

“Minh Đức,” hắn hỏi rất khẽ, “Ngươi đang định uy hiếp ta?”

Minh Đức cười rất tươi: “Thần đâu dám.”

“Vậy ngươi đang chơi trò gì?”

“Thần biết mình sai.”

“Ngươi biết sai chuyện gì?”

“Thần đã nói rồi,” Nụ cười vẫn lững lờ vờn quanh khóe môi, y khoan thai điềm đạm trả lời: “ —— Thần thấy cảnh cưu chiêm thước sào [10] hậu cung uế loạn, không chịu nổi bèn mạo muội thay mặt bệ hạ cùng Hoàng hậu nương nương, giáo dục Đinh Chiêu dung rằng ai mới là mẫu nghi thiên hạ, ai mới là chính chủ hậu cung, ngờ đâu lại khiến bệ hạ phải trì hoãn việc sủng hạnh Đinh Chiêu dung, thật có lỗi quá đi…”

Nói toạc ra, thằng nhóc này thuộc kiểu người hết sức nhỏ nhen chấp nhặt, chỉ cần bị chọc ghẹo nguýt háy tí ti, y nhất định sẽ trả thù gấp trăm gấp ngàn lần. Mấy năm trở lại đây, số phi tử bị Minh Đức ngấm ngầm thị uy giúp Hoàng hậu không hề ít ỏi, mà bọn ngu xuẩn khờ khạo như Đinh Chiêu dung thì lại càng nhiều, bất hạnh ở chỗ, Đinh Chiêu dung đã trót ngây ngô khoe mẽ ngay trước mặt y, thế nên dĩ nhiên nàng ta sẽ ‘được’ y ưu ái nhớ mong hơn bọn kia vài ba bậc…

Kiền Vạn Đế bật cười gằn, giọng không chút giận hờn: “Giỏi, giỏi lắm! Ái khanh ưu tư tận tụy như vậy, trẫm sao có thể đừng tưởng thưởng cho ngươi?”

Hắn nói đoạn bèn một tay túm áo buộc y đứng dậy, tay còn lại siết chặt lấy cánh tay của y, chẳng hề quan tâm tên tiểu quỷ kia có theo kịp hay không, vừa lôi vừa kéo y ra khỏi đại điện. Đinh Chiêu dung trước sự biến bất ngờ này chỉ biết đứng đực ra ngơ ngẩn ngó theo, rồi đột nhiên nghe một tiếng ‘phịch’ vang lên, nàng ta vội quay đầu, chỉ thấy Hoàng hậu đã vô lực ngã ngồi xuống chiếc ghế dựa dát vàng nạm ngọc cực lớn đằng sau.

Đinh Chiêu dung run rẩy mở miệng: “Hoàng hậu… Bệ hạ… ngài ấy…”

Hoàng hậu xẵng giọng quát trả: “Ngươi còn đứng thất thần ở đó làm gì?!”

Vẻ đoan trang tĩnh tại trong thanh âm của nàng đã hoàn toàn biến mất, chỉ còn một thoáng ảo giác đầy rẫy hung ác nanh nọc.

Đinh Chiêu dung chân đã nhũn như con chi chi, nghe vậy bất chợt bừng tỉnh, hớt hải liều mạng đuổi theo. 

CHÚ THÍCH:

[1] nguyên văn “quyển tử”, “quyển” có nghĩa là “cuốn/cuộn tròn lại”, vì bài thi ngày xưa đều được cuộn tròn lại, bỏ vào một chiếc ống tre, niêm phong rồi mới giao cho các quan ở trường thi. Chi tiết mời tìm đọc tác phẩm “Lều chõng” của Ngô Tất Tố tiên sinh.

[2] lương đống: rường cột nghĩa bóng: người tài đức, trụ cột của nước nhà

[3] Tứ phi: bốn vị phi tử cao nhất trong hậu cung [tất nhiên dưới Hoàng hậu], danh xưng này xuất hiện từ thời Đường, gồm Quý phi, Đức phi, Thục phi và Hiền phi

[4] nguyên văn “tiểu đông tây”, Babel Fish, Google và Babylon đều dịch là “little thing” aka “vật nhỏ” XD

[5] Bàn Nhược Ba La Mật Kinh [tên gốc là “Bàn Nhược Ba La Mật Đa Tâm Kinh”, còn gọi là “Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh” hay chỉ ngắn gọn là “Bát Nhã Tâm Kinh” hoặc “Tâm Kinh”, phiên âm từ tiếng Phạn Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra] là kinh ngắn nhất [chỉ có khoảng 260 chữ] của Phật giáo Đại Thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn. Kinh này được hầu hết các Phật tử tại Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên biết đến, và rất thường được dùng trong việc tụng niệm. 

Sau đây là hai câu mở đầu của Bàn Nhược Ba La Mật Kinh, qua bản dịch của Đường Tam Tạng Pháp Sư Trần Huyền Trang:

Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

“Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị…”

[nguồn: wiki VN]

[Vị nào chưa thể minh bạch thấu đáo các thuật ngữ trong hai câu trên, có thể vào link này http://www.phatviet.com/tuesy/thienbatnha/thienbn.htm để tìm hiểu:”>]

[6] nguyệt lượng: trăng sáng

[“Nguyệt lượng môn” là kiểu cửa tròn khá phổ biến, có thể dùng ở trong nhà lẫn ngoài vườn của người Trung Quốc.]

Một vài kiểu “nguyệt lượng môn” thường gặp:

[7] ngọc lưu ly: một thứ bảo thạch trong suốt nhưng đa sắc có nguồn gốc từ Tây Vực, thường được dùng làm trang sức, vật cúng tế, đồ tùy táng. Ngọc lưu ly còn là nguyên liệu chủ đạo để khảm trên cổng, tường hoặc bình phong, và chế tạo nên ngói lưu ly, lợp ở cung điện, lăng tẩm, đền chùa, v.v…

Một phần bức tường khảm chín con rồng [cửu long bích] bằng ngọc lưu ly ở công viên Bắc Hải, Tử Cấm Thành, Bắc Kinh:

[bonus] Ngói hoàng lưu ly và ngói thanh lưu ly ở Cố đô Huế, Việt Nam:

[Giời ơi đất nước mình đẹp quá đi thôi… TT]

[8] trâm hoa tiểu khải: chữ khải [còn gọi là “chính thư” hoặc “chân thư”] là kiểu chữ chính thức, chuẩn mực, dễ nhận biết, dễ đọc và phổ thông nhất trong các kiểu viết chữ Hán hiện nay. 

“Trâm hoa tiểu khải” [Hán tự: 簪花小楷] theo tôi chính là kiểu chữ khải nhỏ nhắn và khá liền lạc mà nữ giới thường dùng. (Đây chỉ là ý kiến chủ quan và thiển cận của tôi, rất mong nhận được sự chỉ giáo của cao nhân tứ phương, chân thành cảm ơn! ^^)

Minh họa “trâm hoa tiểu khải”:

[9] Ngọ Môn: cổng chính dẫn thẳng vào Tử Cấm Thành tại Bắc Kinh. Cổng này nằm ở hướng Nam, phương chính Ngọ (từ 11:00 AM đến 1:00 PM), hướng chí dương, có tên cổ là Đoan Môn hoặc Thiên An Môn (thời nhà Thanh), xưa kia chỉ dùng để vua chúa ra vào.

[10] cưu chiêm thước sào: chim cưu chiếm tổ chim khách [chim cưu là một loại bồ câu hết sức vụng về, không biết làm tổ, thường dùng vũ lực chiếm đoạt tổ của chim khách nghĩa bóng: một người dùng sức mạnh hoặc thủ đoạn để cướp lấy nhà cửa hoặc vị trí của người khác]
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện