Vào độ hạ thu giao mùa, Hán thái tử Lưu Thiện, thống lĩnh cấm vệ Kinh Trầm Kích suất lĩnh đại quân xuôi nam tới Kinh Châu.
Thượng tướng quân Triệu Vân hợp lực cùng Quan Vũ ở thành Giang Lăng, thế như chẻ tre, thẳng tiến Nam Quận, chính quyền Đông Ngô đã là ngọn nến leo lét trong gió, Tôn Quyền già hay đa nghi, Lục Tốn bị lưu vong, Lữ Mông lao lực quá độ bệnh không dậy nổi, Nam Quận có binh vô tướng, phái Chu Tuyên thủ thành.
Lớp tướng lĩnh mới của Đông Ngô đều thiếu kinh nghiệm đối địch, người nào có thể cản bước được Triệu Vân? Không tới mười ngày, thành Nam Quận bị phá, Quan Vân Trường trảm Chu Tuyên ngay tại trận, kế tiếp phân binh tới thành Tương Dương, Triệu Vân đóng giữ Nam Quận, chỉnh quân chờ xuất phát, giở cẩm nang Gia Cát Lượng giao phó trước khi đi ra.
Lúc này A Đẩu hãy còn đang ở ngoại thành Giang Lăng.
Giang Lăng phòng thủ nghiêm ngặt như thiết dũng, có lẽ sợ lúc Quan Vũ ra ngoài chinh chiến thì bị Tư Mã Ý, Tôn Quyền thừa cơ chiếm sào huyệt.
Chu Thương ở trên thành lâu vừa thấy Lưu Thiện, lập tức mở cổng thành ra nghênh đón, A Đẩu ra hiệu miễn đi, chỉ kêu Chu Thương xuất thành hỏi vài câu, rồi cùng Lữ Bố vội vã đuổi tới Nam Quận.
Mưa bụi lất phất, cơn mưa nhỏ cuối hạ nhuyễn mà dầy đặc, dệt nên vô số tấm lưới khắp không trung, phủ chụp xuống.
A Đẩu thở dài, về đến Kinh Châu rồi, mấy năm trước hắn từ Kinh Châu đi ra ngoài, mà nay về lại nơi này, có chút cảm thụ nói không nên lời.
Trầm Kích giục ngựa không nhanh không chậm theo bên cạnh hắn, thoáng nhìn về phương xa, im lặng không lên tiếng.
A Đẩu cười nói: “Kinh gia thôn”
Trầm Kích gật gật đầu, nói: “Kinh gia thôn”
Đó là nơi bọn hắn gặp nhau lần đầu, năm ấy Quan Vũ suất quân mãnh công Tương Dương, A Đẩu mang thư của Điêu Thiền tới cầu viện, vốn không bao giờ ngờ rằng, một tên thị vệ tầm thường cư nhiên lại có thể xoay chuyển chiến cục Kinh Châu, thậm chí là toàn thiên hạ.
A Đẩu nhịn không được nói: “Tử tế ngẫm lại, cục diện bây giờ, có hơn phân nửa là do ngươi định ra”
Trầm Kích hơi trầm ngâm, đáp: “Ta là sĩ”
A Đẩu đã hiểu ý trong lời nói của hắn, nếu lấy phương châm tác chiến đóng vững đánh chắc, thận trọng từng bước của đám người Triệu Vân, Gia Cát Lượng, thì trong vòng mấy năm ngắn ngủi sẽ chẳng cách nào vượt qua Hán Trung, nhất cử phá Tào được, cứ cò cưa miếng thịt béo Hán Trung này, phỏng chừng còn phải kéo dài thêm vài năm.
Trầm Kích là một con cờ mang tính quyết định, đẫm máu xung phong, bước vào hiểm cảnh, một mình một ngựa giết tới đâu, thì nơi đó vạn quân táng đảm, không gì cản nổi. Cũng chính vì như thế, một kẻ võ dũng khó lòng gánh vác được vị trí tướng soái với cái nhìn đại cục toàn diện, suy cho cùng bất quá chỉ là một sĩ tốt cảm tử.
Bản thân Trầm Kích cũng minh bạch điều này, thượng binh phạt mưu đều cần có người chỉ huy hắn, hắn mới có thể phát huy lực chiến đấu lớn nhất, bằng không sẽ rơi vào kết cục bỏ mình như ở Bạch Môn lâu.
A Đẩu cười cười, nói: “Ngươi đập tan vô số cục diện bế tắc, nếu không phải ngươi dám xông dám liều, thì trận chiến này chẳng biết đánh đến bao giờ mới xong, sớm một khắc định thiên hạ, cũng coi như là tạo phúc cho bách tính”
Trầm Kích hờ hững gật đầu, chẳng đưa ra ý kiến gì, A Đẩu lại bổ sung thêm một câu: “Cảm ơn ngươi, ta…cũng không biết phải nói sao nữa”
Lúc này Trầm Kích mới cười nói: “Không cần, ngươi thích là được rồi”
Hai người tâm linh tương thông, nhìn nhau mỉm cười, đuổi về phía Nam Quận.
Cổng thành Nam Quận đóng chặt, trên tường gác hơn ngàn cây liên nỏ, như hổ rình mồi mà chỉa về phía Trầm Kích, chỉ sợ là quân phản công Đông Ngô cải trang tới đoạt thành.
Trầm Kích giục ngựa rời hàng, dừng giữa đồng hoang ngoài thành, coi liên nỏ lấp lóe hàn quang như vô hình, lạnh lùng nói: “Triệu Tử Long ở đâu?”
Thủ quân thành môn đi xuống thông báo, lát sau Triệu Vân vài bước lên thành môn, đưa mắt nhìn xuống Trầm Kích, nhíu mày nói: “Kinh tướng quân?”
“Mở cổng” Trầm Kích nói.
Triệu Vân cất cao giọng nói: “Kinh tướng quân tới đây có chuyện gì?”
Vừa nghe lời này, thủ quân trên thành môn rối rít thu liên nỏ về, xác nhận là người phe mình, lập tức liền có người đi xuống mở cổng thành.
Triệu Vân tức giận quát: “Ai cho phép các ngươi rút nỏ về?”
Chúng binh sĩ sợ hết hồn, đành phải ngoan ngoãn đem cung nỏ gác lên lần nữa.
Triệu Vân nói: “Một mình Tử Long là đủ phá Kiến Nghiệp rồi, xin tướng quân trở về cho”
Mấy vạn người trong thành, ngoài thành đều âm thầm gạt mồ hôi, đây là nội chiến Hán doanh chăng?
Trầm Kích nói: “Ta phụng lệnh thừa tướng và chủ công tới trợ giúp ngươi, thỉnh Triệu tướng quân mở cổng thành”
Triệu Vân đáp: “Tướng ở bên ngoài, lệnh vua có thể bất tuân, xin tướng quân trở về cho”
Trầm Kích nói: “Chủ công ở ngay phía sau, đang suất lĩnh một vạn cung nỏ binh đuổi tới đây”
Triệu Vân trầm mặc một hồi, A Đẩu rốt cuộc cũng đuổi tới, gạt mọi người ra, đưa mắt nhìn Triệu Vân trên thành lâu, thấp thỏm gọi: “Sư phụ”
“Sư phụ, ta tới…bái tế mẹ ta” A Đẩu gắng lấy dũng khí nói.
“Sư phụ!” Lúc này Khương Duy cũng đã tới.
Triệu Vân đành phải thở dài, phất tay ra hiệu mở cổng thành.
Thủ quân Nam Quận lúc này mới như được đại xá mà thở phào nhẹ nhõm, giỡn chơi à, Thượng tướng quân cùng hoàng đế phân cao thấp, qua được thì thôi, chứ mấy ngàn cây cung tiễn trên cổng thành đồng loạt chỉa vào hoàng đế và thống lĩnh cấm vệ, tới lúc tính sổ lôi tiểu binh đi khai đao cũng chẳng phải chuyện đùa đâu.
A Đẩu và Khương Duy sóng vai vào thành, Trầm Kích thức thời đi an bài binh mã.
Triệu Vân chỉ lộ diện một lần trên thành lâu rồi mất tăm mất tích, A Đẩu nhìn cảnh hoang tàn khắp nơi trên đường một hồi, nhà cửa Nam Quận nám đen, cùng với dân chúng thất lạc thân nhân ở hai bên đường, bản thân gần như có thể cảm nhận được cơn tức giận ẩn nhẫn của Triệu Vân.
Hắn hỏi vị phó tướng tiến tới nghênh tiếp: “Sư phụ đâu?”
Phó tướng mờ mịt lắc đầu, một mạch dẫn A Đẩu và Khương Duy vào trong phủ thành chủ, lại nói: “Triệu tướng quân thỉnh chủ công nghỉ ngơi trước, nơi này đã thu thập thỏa đáng rồi”
A Đẩu thở dài, đuổi phó tướng kia đi, Khương Duy đi truyền ngọ phạn, lát sau Trầm Kích tới, hai người ngồi trong chính sảnh trong phủ một hồi, nhìn nhau không nói gì, chợt A Đẩu nói: “Binh của ngươi đâu?”
Trầm Kích đáp: “An bài hảo rồi, chờ ăn cơm”
Bỗng A Đẩu nói: “Lát nữa ta ăn cùng Bá Ước, giờ ta đi dạo chút”
Trầm Kích và A Đẩu nhìn nhau thật lâu, A Đẩu dè dặt hỏi: “Ta đi tìm sư phụ nói chuyện lát, được không?”
Trầm Kích hết sức khó hiểu, đáp: “Cứ đi đi, ta có bao giờ cản ngươi chưa?”
A Đẩu mỉm cười, xoay người rời phủ.
Tìm tới trướng trung quân, Hán quân thấy thái tử thân lâm, đều đua nhau chấn động, nhường ra một con đường.
Đã vào giờ ngọ phạn, A Đẩu men theo đường tìm tới, đuổi tên binh sĩ dẫn đường đi, tìm được soái trướng của Triệu Vân, nhưng trong trướng không một bóng người.
Ngoài cửa ngồi mấy chục tên hắc y quân, chính là thân binh của Triệu Vân, ai nấy tự bưng chén sành ăn cơm, A Đẩu vội bảo bọn họ quay về vị trí, hỏi: “Sư phụ đâu?”
Có người bẩm: “Tướng quân chưa về”
A Đẩu nói: “Cứ ăn cơm đi, mặc kệ ta” Đoạn tìm chỗ ngồi xuống, thấy bên băng ghế gỗ đặt một bộ bát đũa, trong bát là vài cái màn thầu, lại thấy vài tên binh sĩ kề sát bên một chậu dưa muối, một chậu đậu ướp mà ăn đến quên trời quên đất, bèn mỉm cười nói: “Đây là vị trí của sư phụ à?”
Chúng nhân gật gật đầu, thần tình lãnh đạm.
A Đẩu bẻ một miếng màn thầu nhỏ ra, nhai vào vừa khô vừa đắng, đậu nành ướp thì mặn chát, nhịn không được nghĩ thầm, cuộc sống cùng ăn cùng ở với các binh sĩ quả nhiên chẳng sung sướng gì. Vẫn là Ách ba thông minh, đi theo chủ công ăn ở một chỗ, toàn thịt cá.
So ra, Lữ Bố toàn lấy hình tượng cá nhân để thống lĩnh quân đội, Triệu Vân mới giống như một tướng lĩnh chân chính, rất có phong phạm của Hoắc Khứ Bệnh tiền triều, hậu nhân Nhạc Phi.
A Đẩu phì cười, thầm nghĩ lúc nào đó phải đuổi Lữ Bố tới ở chung với binh sĩ mới được, chứ cứ sùng bái cá nhân mãi thì không xong.
Chờ mãi chờ hoài mà không thấy Triệu Vân trở về, binh sĩ ai nấy ăn xong đã tự thu dọn bát đũa, A Đẩu đành phải mệt mỏi đứng dậy, rời quân doanh.
Hắn đi về phía thành Tây, túy ý dạo chơi, cũng chẳng biết đi bao lâu, rốt cuộc tới trước một khu vườn xanh biếc.
Trong vườn cây cối tốt tươi, còn phòng ốc xung quanh thì sụp đổ, rõ ràng là dù chiến hỏa lan tràn, cũng chưa từng lan tới chỗ này, do Triệu Vân hạ lệnh không được quấy nhiễu chủ nhân trong vườn chăng?
Đây là nơi nào? Ai ở? A Đẩu nổi lòng hiếu kỳ, thơ thẩn đi vào trong vườn.
Bên ngoài vườn chỉ có một căn nhà gỗ tồi tàn xiêu xiêu vẹo vẹo, giống như có người vừa thu dọn qua, ngay giữa vườn dựng một khối thạch bia bạch ngọc.
Khi nhìn thấy người đang đưa lưng về phía mình, A Đẩu ngừng bước, núp sau bụi cây.
Triệu Vân một thân ngân khải chưa cởi, trên người đầy bụi đất, quỳ trước mộ của Cam phu nhân. Bên gối đặt một vò rượu, trước mặt bày một cái lư hương đồng nho nhỏ.
Mộ bia được lau sạch đến không có lấy một hạt bụi, mớ cỏ trước mộ đã được cắt tỉa gọn gàng vô cùng, lá rụng, nhánh cây khô đều bị dẹp bỏ, dòng chữ đỏ đề bằng bút son trên mộ lại được tỉ mỉ tô lên một lớp nữa.
Triệu Vân thắp hương, mỉm cười nói: “Thiến nhi, ca tới thăm ngươi đây”
Hắn cung cung kính kính bái ba cái, cắm nhang ngay ngắn vào trong lư hương, rồi châm đầy ba chung rượu ở trước mộ, đoạn cũng châm cho mình một chung, nâng rượu, chăm chú nhìn tấm bia mộ bạch ngọc kia.
“Thiến nhi, A Đẩu trưởng thành rồi, không còn là cây củ cải đỏ bé bỏng đi long nhong theo Tử Long nữa…”
“A Đẩu đã chẳng còn thích khóc nữa, so với đứa bé khóc la hồ nháo thuở trước, hiện tại hắn càng hiểu rõ phải khóc như thế nào, bao giờ thì khóc”
“Tử Long chưa bao giờ nghĩ rằng, sẽ có một ngày như thế…”
“Thiến nhi, mỗi năm Tử Long đều thay ngươi dẫn hắn đi quá tiết”
Triệu Vân cư nhiên không hề nhắc tới chuyện quân lữ chinh chiến, bình định thiên hạ, hắn quỳ trước mộ, nói toàn những chuyện vụn vặt thường ngày của A Đẩu. Khi nào thì bị thương, hay sinh bệnh gì, đều nhớ rõ mồn một.
Triệu Vân thở dài, nói: “Thiến nhi, A Đẩu sắp làm hoàng đế rồi”.
Lời đó chỉ nhẹ nhàng nhắc thế thôi, rồi cho qua, dường như chẳng chút liên quan nào tới hắn.
Cuối cùng Triệu Vân nói: “Lần này A Đẩu dời ngươi về Thành Đô, hợp táng với chủ công; đợi khi nào công phá Kiến Nghiệp rồi, Tử Long sẽ quải ấn phong kim*, trở về Liêu Đông” [*quải ấn: từ quan; phong kim: đem vàng bạc của cải niêm phong cất vào kho, ý nói không muốn nhận]
“Chuyện của Tử Long đã làm xong rồi, từ đâu tới, thì về lại nơi ấy. Mai sau nơi hắc thổ ngàn dặm, tuyết trắng miên man, Tử Long sẽ vì ngươi thắp lên một ngọn…trường minh đăng”
Triệu Vân ngưỡng cổ uống cạn chung rượu, kế tiếp xoay người rời khỏi lăng viên.
Nửa ngày trôi qua, A Đẩu mới từ sau đám cây bước ra, nhang đã cháy hết, tro tàn trầm nặng như sương, chung rượu Triệu Vân uống qua vẫn còn ném trên mặt đất.
A Đẩu tiến lên dùng bào tụ lau thạch bia, cũng quỳ xuống.
A Đẩu nói: “Lão mẹ, mẹ sinh được cái xiên nướng, xiên nướng…tới dập đầu trước mẹ đây”
A Đẩu dập đầu trước mộ bia, chợt giơ tay lên tát mình một cái, đỏ mắt, đứng dậy bỏ đi.
Sau khi rời mộ viên, A Đẩu không đi tìm Triệu Vân nữa, hắn về đến phủ thành chủ lặng lẽ nằm xuống, suy nghĩ xem phải làm cách nào để giữ Triệu Vân lại.
Trầm Kích ở ngoại gian tập trung tinh thần xem một quyển sách.
“Gì thế”
Trầm Kích không đáp, A Đẩu đứng dậy liếc một cái, thấy đó là cuốn đạo pháp kinh quyển, bên trên vẽ kinh mạch và huyệt vị toàn thân nam tử, bèn mỉa mai: “Xem mấy năm trời rồi mà vẫn chưa hết à?”
Trầm Kích hờ hững nói: “Làm gì có thời gian”
A Đẩu trở mình, nằm úp sấp, lát sau, Khương Duy tới.
“Ta hỏi ngươi, Khương Tiểu Duy, aizz, đừng sờ nữa”
Khương Duy cười nói: “Tiểu gia đang giúp ngươi thả lỏng gân cốt đó chứ”
A Đẩu bị Khương Duy xoa nắn rên hừ hừ, bỗng nói: “Sư phụ muốn đi sao?”
Khương Duy chợt ngừng động tác, A Đẩu nói: “Ngươi biết à?”
Khương Duy trầm mặc hồi lâu, mới hỏi ngược lại: “Sao ngươi biết được?”
A Đẩu nói: “Hắn muốn về Liêu Đông ư?”
Khương Duy chẳng ừ hử gì, A Đẩu lại nói: “Ngươi đi nói thử được không?”
Khương Duy đáp: “Ta nói rồi, không được”
Trầm Kích nhìn Khương Duy và A Đẩu một cái, vành mắt A Đẩu ửng đỏ, nói: “Ngươi nói lại với hắn lần nữa đi”
Khương Duy nói: “Ta với ngươi cùng nói?”
A Đẩu lẩm bẩm: “Hắn không cần ta nữa, hắn hận ta muốn chết”
Khương Duy thở dài, sờ sờ đầu A Đẩu, cười nói: “Sao hận ngươi được, để ta nghĩ cách”
A Đẩu kéo Khương Duy, nói: “Ngươi ngàn vạn…Bá Ước, hắn cũng là sư phụ của ngươi mà”
Tay A Đâu nắm rất chặt, giống như đang bắt lấy cọng rơm cứu mạng, Khương Duy rốt cuộc không đành lòng nói thêm gì nữa, bảo: “Biết rồi, cứ giao hết cho ta”
A Đẩu nằm sấp trên tháp, chờ Khương Duy trở về, giống như đợi cái phán xét cuối cùng cũng tới, trời rất nhanh liền sập tối, bên ngoài phòng huyên náo vô cùng, binh tới mã lui, hắn ngồi dậy, nhìn thoáng ra ngoài, rồi mệt mỏi nằm xuống.
Khương Duy đi không bao lâu thì trở về, nói: “Ta không thấy sư phụ, hắn đi mất rồi, tối nay đã khởi hành tới Thọ Xuân. Chúng ta làm sao giờ?”
A Đẩu đem gối đầu ném sang một bên, đứng dậy nói: “Chúng ta cũng đi thôi”
Nhưng Khương Duy nói: “Ta đi không được, sư phụ để lại thư, dặn ta thủ thành…Ngươi đi đi” Nói xong nhìn Trầm Kích một cái, cùng A Đẩu hai người hiểu rõ trong bụng.
Trong lúc nói chuyện, Tôn Lượng vội vã chạy vào trong doanh,hỏi: “Đêm nay Triệu Tử Long tướng quân đã đi rồi à?”
A Đẩu chợt nảy ra một kế, nói: “Muội phu, ta nghĩ ra cách này”
A Đẩu, Khương Duy, Tôn Lượng ba người ngồi kề sát nhau, nhỏ giọng thương nghị chốc lát, mặt Tôn Lượng như nước lặng, không nhìn ra hỉ nộ.
A Đẩu hỏi: “Ngươi thấy vậy được không?”
Tôn Lượng trầm ngâm chốc lát, nhìn sang Lưu Thiện, nói: “Nhị cữu đã phân phó, thì sao có thể nói không được chứ?”
A Đẩu nói tiếp: “Ách ba, ngươi qua đây nói rõ cho Tử Minh nghe, năm đó trong nhà hắn rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì”
Trầm Kích đi tới giữa ba người ngồi xuống, hờ hững nói: “Sau khi cha ngươi bị môn đồ của Hứa Cống đâm trọng thương, vốn không chết”
Tôn Lượng động dung, có vẻ đây là lần đầu nghe được chuyện này, vội nhíu mày hỏi: “Chuyện này là sao?”
Trầm Kích nói: “Hôm đó ta làm khách Giang Đông, cùng hắn đi săn thú…”
Mấy chục năm trước, bởi vì trận chiến thảo phạt Viên Thuật mà Lữ Bố và Tôn Sách đã kết giao với nhau.
Tôn Sách trọng võ, cố ý lung lạc Lữ Bố cho mình dùng, nên đương nhiên hết sức nhiệt tình, dùng võ kết bạn, chỉ vài chiêu là thành, rất hợp với Lữ Bố, hai người mới quen mà như đã thân, lập tức kết thành mạc nghịch chi giao*. [*nghĩa là bằng hữu tâm đầu ý hợp, rất ăn ý với nhau]
A Đẩu nhịn không được cười nói: “Ngươi và Tôn Bá Phù cũng hợp nhau nhỉ”
Trầm Kích hơi trầm ngâm, bèn đáp: “Hắn có cốt khí của ngươi, nhưng không có bĩ khí giống ngươi”
A Đẩu nghĩ tới Tôn Sách ân uy đều xem trọng, khi đối địch thì không từ thủ đoạn diệt trừ chướng ngại, còn đối với người có thể dung được, thì cực lực lung lạc, như vậy cũng có chút tương tự với tính tình của mình.
Chỉ tiếc lòng khoan dung của Tôn Sách không đủ rộng, cuối cùng vô pháp đạt thành đế nghiệp, danh sĩ Giang Đông chết trong tay thủ hạ hắn nhiều vô số kể. Trước có Cao Đại, Vu Cát, sau có Hứa Cống. Phàm kẻ nào được lòng người, uy danh vượt trên Tôn gia mà không phục sự cai quản của hắn, thì Tôn Sách chắc chắn sẽ tàn nhẫn hạ sát.
Trong nhất thời dẫn đến sĩ tộc Giang Đông người người cảm thấy bất an, không đầu Tôn thì chẳng còn đường nào để đi, Hứa Cống dâng thư lên Hiến đế, nói Tôn Sách kiêu dũng, phải triệu về Lạc Dương để khống chế dưới chân thiên tử.
Sau khi nhận được tin tức, Lữ Bố phái người thông báo cho Tôn Sách biết, Tôn Sách liền hạ lệnh treo cổ Hứa Cống ngay trước mặt công chúng.
Tự ý trảm sát mệnh quan triều đình chính là tử tội, vì thế Hiến đế phái Ôn hầu tới tra rõ chuyện này.
Trầm Kích ngẫm nghĩ, rồi nói: “Khi đó vốn chỉ định nhắc hắn đề phòng thôi, nào ngờ Bá Phù so với ta còn ngoan độc hơn, giết chết Hứa Cống tại chỗ”
A Đẩu chỉ cười không nói gì, thầm nghĩ tác phong hành sự của hai người này thật đúng là tương tự nhau.
Sau khi dẫn Điêu Thiền tới Giang Đông, Lữ Bố giả vờ khiển trách Tôn Sách một trận, chuyện này cứ thế bỏ qua. Tôn Sách thấy cố hữu tới, cực lực mời Lữ Bố ra ngoài săn thú, còn Điêu Thiền thì có tình đồng môn với Đại Kiều, nên lưu lại Kiến Nghiệp.
Lữ Bố cưỡi thần tuấn, cùng Tôn Sách đuổi theo một con nai, lúc rong ruổi đã vứt Tôn Sách lại tuốt phía sau, tọa kỵ của Tôn Sách cũng là hảo mã, cũng bỏ những người theo sau cả một quãng dài. Khi hai người đi tới một mảng rừng, môn đồ của Hứa Cống rắp tâm vì chủ báo thù mai phục đã lâu, đột nhiên lủi ra, ám tiễn bay vùn vụt, Tôn Sách không kịp đề phòng, bị bắn trúng ngay mặt, lập tức té ngựa.
May mà trong ngực Tôn Sách có giấu Kế đô la hầu thuấn ngục tiễn do Đại Kiều giao phó, nên bắn chết mấy tên thích khách ngay tại chỗ.
Trầm Kích không liếc mắt tới cái hộp kim kia, nói: “Chính là cái này”
A Đẩu cất hộp tiễn vào, nói: “Khi đó ngươi chạy đi một mình luôn à?”
Trầm Kích nói: “Sao ta biết sẽ có người ám sát hắn chứ?”
Tôn Lượng nhịn không được nói: “Nhị cữu đừng cắt ngang, sau đó thế nào?”
Lữ Bố bắn được con nai kia xong mới quay về, thấy Tôn Sách thụ thương, nhất thời ngạc nhiên, bèn vội vàng đưa hắn về Kiến Nghiệp, gọi Tiểu Kiều tới chẩn trị.
A Đẩu vẫn nhịn không được nói leo vào: “Nghe đồn Tôn Sách được gọi là ‘mỹ Tôn lang’, bộ dáng chắc đẹp mắt lắm nhỉ, bị trúng một tiễn ngay mặt, thật đáng tiếc”
Trầm Kích mỉa mai: “Trên mặt trúng một tiễn thì đã sao? Hầu gia trước đây cũng có bị phá tướng đâu?”
Tuy mặt Tôn Sách bị thương, nhưng tính mạng vô ngại, xảy ra chuyện này, Lữ Bố cũng không tiện lưu lại nữa, đợi tận mắt thấy tiểu Kiều điều dược, đắp lên một lớp thật dầy, rồi quấn băng vải lại cho Tôn Sách, hắn mới yên tâm.
Suy cho cùng, tuy Tôn Sách tự mình gây chuyện, nhưng vô luận là từ chuyện của Hứa Cống, hay từ chuyện ám sát, Lữ Bố đều không thoát khỏi trách nhiệm.
Tôn Sách là bằng hữu duy nhất của hắn, nếu mình không phái người tới truyền tin tức, thì Hứa Cống đâu có chết.
Bên cạnh đó, hôm đi săn thú, nếu hai người một tấc không rời, thì Tôn Sách cũng sẽ không gặp phải tai họa này.
Trầm Kích lại nói: “Đêm đó ta nhìn hắn nghỉ ngơi, rồi nói với hắn rằng, nam nhi dù diện mạo có bị thương tổn, nhưng tâm vô tổn, thì có sao đâu?”
A Đẩu nói: “Hắn chịu nghe không?”
Trầm Kích gật gật đầu, A Đẩu nói: “Nghe bảo cuối cùng khi hắn soi gương…đã vô cùng tức giận, làm vết thương nứt toác mà chết”
Trầm Kích cười mỉa: “Tôn Bá Phù há lại là loại người như thế?”
Tôn Lượng nói: “Chuyện này…có liên quan gì tới Đại nương ta?”
Trầm Kích nhướng mày nói: “Lúc từ trong phòng hắn đi ra, ta thấy Đại Kiều và Tôn Quyền chẳng biết đang nói gì đó với nhau, ánh mắt của tên tiểu tử Tôn Quyền kia lóe sáng, thấy Hầu gia thì hai chân run rẩy, ăn nói lắp ba lắp bắp, hiển nhiên không phải người tốt”
A Đẩu nhất thời không biết nên khóc hay nên cười, Lữ Bố toàn dựa vào ấn tượng đơn giản như vậy để phán đoán đối phương là người tốt hay xấu, cũng thực quá cứng nhắc đi.
Trầm Kích lại nói: “Đêm đó hắn vốn không sao, hôm sau ta liền khởi hành về Lạc Dương, trước khi đi, cư nhiên không ai tới tiễn”
Tôn Lượng nói: “Tiểu thúc không ra tiễn ngươi ư?”
Trầm Kích nói: “Toàn thành giới nghiêm, trừ ta, Điêu Thiền và thân thị ra, không cho phép bất cứ ai xuất thành”
A Đẩu không khỏi ngồi thẳng người, nói: “Đêm đó hắn đã chết ư? Cũng quá nhanh đi”
Trầm Kích hờ hững nói: “Ta phát hiện bất thường, vốn định về xem thử, nhưng Điêu Thiền cứ giục ta xuất thành”
A Đẩu loáng thoáng cảm giác được trong lời nói của Lữ Bố tràn đầy hối hận, bèn nói lảng đi: “Điêu Thiền trộm viên Hỗn nguyên trường sinh đan kia, có tật giật mình, nên đương nhiên sẽ hối ngươi đi gấp rồi”
Trầm Kích nói: “Chẳng lẽ Đại Kiều thì không có tật giật mình sao? Ta hết cách, đành phải xuất thành, nửa đường nhận được thiếp viếng, Tôn Sách đã chết, hôm đó Tôn Quyền kế vị, ta liền quay về Kiến Nghiệp, cổng thành cư nhiên đóng chặt, không cho ta vào thành”
“Bá Phù đã đáp ứng ta sẽ an tâm tĩnh dưỡng, lý nào hôm sau lại chết được, rốt cuộc là duyên cớ gì?”
“Ta ở ngoài thành, vạch một nhát kiếm lên mặt mình, phát thệ ngày sau phải báo thù cho Bá Phù…”
Ba thiếu niên đồng thời hít vào một hơi lãnh khí.
A Đẩu run giọng nói: “Ngươi…Vết thương trên mặt ngươi, là do vậy mà có ư?!”
Trầm Kích lạnh lùng nói: “Phải”
Cứ nghĩ tới vết sẹo kia, A Đẩu liền cảm thấy rất đau đớn, hắn nắm lấy ngón tay ấm áp thon dài của Trầm Kích, ngẫm nghĩ, rồi nói: “Sau này ngươi không được…không được bảo thủ như thế nữa”
Trầm Kích lại nói: “Sau khi trở về, khi ta đang suy nghĩ muốn dẫn binh tới công Giang Đông, thì Quách Tị, Lý Nho liền tới công thành Trường An, ta đành phải dẫn Điêu Thiền rời đi, vốn muốn tìm Bá Phù nương tựa, nhưng Bá Phù đã chết rồi, đành phải lên bắc tìm Viên Thiệu, sau đó nữa, chính là trận chiến Quan Độ, Bạch Môn lâu…Các ngươi đều đã biết rồi. Tuy ta không giết Bá Phù, nhưng Bá Phù lại vì ta mà chết”
Trầm Kích không lên tiếng nữa, đi ra ngoài trướng, tìm một nơi, dựa vào hàng rào gỗ ngồi xuống, bắt đầu thổi sáo trong ánh trăng.
Đêm hôm đó, Lưu Thiện điểm binh mã, lệnh Tôn Lượng hành quân gấp đuổi tới phía đông bắc, tốc độ hành quân của Triệu Vân cực nhanh, gần như ngựa không ngừng vó mà công thành chiếm đất, khi tới Hợp Phì thì hội hợp cùng Tôn Lượng.
Tôn Lượng được Lưu Thiện bày kế, lấy danh nghĩa hậu duệ của Tôn Sách chiêu hàng ngoài thành Thọ Xuân, đồng thời vạch trần chuyện Tôn Sách mất mạng năm đó.
Thái thú Thọ Xuân Lưu Bình mấy phen do dự, lúc giao đàm với Tôn Lượng ở trên thành lâu thì vâng dạ khúm núm, nghị định mất ba ngày, nhưng mặt khác lại phái người xuất thành trình báo chuyện này, tính trì hoãn để chờ Kiến Nghiệp phái quân tới cứu viện.
Triệu Vân phẫn nộ giương cung lắp tiễn, thần kỹ bách phát bách trúng, tựa như cung thần hàng thế nháy mắt một phát bắn chết hắn!
Phó tướng Thi Tích không dám dựa vào địa thế hiểm yếu để kháng cự nữa, kết cục thành phá ở ngay trước mắt, bèn đầu hàng.
Mấy ngày sau, Cam Ninh suất quân tới giúp, mắt thấy trên thành lâu đã đổi sang Hán kỳ, đành phải sai bộ hạ về thông báo, còn mình thì do dự, ngụ lại ở một tiểu trấn cách thành hơn mười dặm.
Lúc này, Lưu Thiện và Kinh Trầm Kích mới đuổi tới Thọ Xuân.
Thọ Xuân và Kiến Nghiệp chỉ cách nhau có một con sông, Tôn Quyền trăm triệu không ngờ rằng Triệu Vân sẽ tới mau như vậy, lập tức triều dã Đông Ngô người người bất an, sợ hãi vô cùng, đại quân áp cảnh, chỉ cần vượt qua Dĩnh thủy, binh mã xuôi nam, là đã có thể công hãm Kiến Nghiệp.
Những nơi như Sài Tang, Hạ Bi không kịp cứu viện, binh đạo dọc đường Tương Dương bị Quan Vũ phát binh cản trở, nếu Triệu Vân mặc kệ bì binh và sĩ tốt thương vong, ỷ mạnh mãnh công Kiến Nghiệp, thì Tôn Quyền chỉ đành phải dời đô về phía Đông, trốn ở Ngô Quận.
Cùng lúc đó, tin tức Lưu Thiện phái người gieo rắc cũng đã truyền tới các nơi Kiến Nghiệp, Ngô Quận, vạch trần chân tướng cái chết của Tôn Sách năm đó.
Tôn Sách chết bất đắc kỳ tử trong đêm, vốn có rất nhiều nghi vấn, kế đánh vào tâm ký khiến mấy lão thần còn sống của Đông Ngô nhân tâm bàng hoàng, liên tiếp rời đi.
Đông Ngô nằm trên đất Sở, rất không thích hợp để chiến đấu, năm đó Xích Bích, Tào Tháo xuôi nam, thì vẫn còn Trương Chiêu xin nghị hòa, hôm nay Chu Du đã chết, Lục Tốn bị trục xuất, Đông Ngô đã thiếu đi tướng chủ chiến.
Vạn bất đắc dĩ, dưới sự xúi giục của Tư Mã Ý, Tôn Quyền hạ quyết định cuối cùng_____nghị hòa.
Sứ giả Kiến Nghiệp nâng thư của Tôn Quyền tới, cận kiến Lưu Thiện trong phủ thái thú Thọ Xuân, dùng tình giảng giải, dùng lý đả động, ngôn từ chuẩn xác, dùng thân phận thần tử hành đại lễ dập đầu, chứng tỏ Đông Ngô nguyện thần phục dưới triều đình Hán gia.
Mặt khác, Tôn Quyền bố trí phòng thủ nghiêm ngặt ở Kiến Nghiệp, đồng thời mang vợ con rút về Ngô Quận, phái người truyền thư tới Oa quốc, cầu trợ Ti Di Hô. [*Oa quốc là nước Nhật, Ti Di Hô là nữ hoàng Himiko]
Lúc A Đẩu tiếp kiến sứ giả, chỉ đảo mắt khinh thường, nói: “Lần trước lão cữu còn thiếu bốn vạn lượng hoàng kim chưa trả đấy, trước hết hãy trả đủ đi rồi tính chuyện nghị hòa sau”
Sứ tiết bi thương vạn phần bỏ đi.
Tôn Lượng ngồi ở ngoại thành, đưa mắt nhìn đám ngựa của đoàn sứ tiết Đông Ngô, hai mắt chợt bị một bàn tay nhỏ nhắn mềm mại che lại.
“Ngân Bình?!”
Tôn Lượng vội kéo tay Quan Phượng, để nàng ngồi xuống, nhíu mày nói: “Sao ngươi tới đây? Thanh nhi đâu?”
Quan Phượng cười dài nói: “Còn không phải lo lắng cho ngươi và ca sao, Thanh nhi đang ở Lạc Dương, có người chiếu cố nó rồi, yên tâm đi”
“Ra mắt nhị cữu chưa?”
Quan Phượng dịu dàng cười nói: “Chưa, ca đang gặp sứ giả của cha ngươi, ta mới từ trong thành ra, nghe đám tiểu tử bảo ngươi đang phát ngốc ở chỗ này, bèn tự đi tìm”
Tôn Lượng lập tức lý giải được một phen tâm ý của nàng, nàng sợ trượng phu mình gia quốc lưỡng nan, vô pháp chọn lựa, thế nên mới phong trần mệt mỏi tới đây, cùng mình chống cự cường địch, trong lòng cảm động, nhất thời không biết phải mở miệng như thế nào.
Quan Phượng trước giờ thích vung đao sử bổng, dù đã sinh tiểu hài cũng chẳng có chút thần thái của phụ nhân, khí thế nữ hiệp giữa mi mục kia vẫn như cũ không giảm, cư nhiên lại suất mấy ngàn người một đường xuôi nam, tìm đến Thọ Xuân, nghĩ tới đây, Tôn Lượng không khỏi mỉm cười.
Quan Phượng đưa mắt nhìn mấy con ngựa trong chuồng đằng xa, chợt phì cười nói: “Ba con kia sao lại trở thành như thế?”
Tôn Lượng kéo bàn tay nhỏ nhắn mềm mại của thê tử, nhìn theo ánh mắt nàng, chỉ thấy Đích lô, Trảo hoàng phi điện và Xích thố đứng dàn hàng trong chuồng ngựa, đuôi đứa nào cũng trụi lủi, nhịn không được cười nói: “Còn không phải chuyện tốt do nhị cữu làm ra sao”
Chỉ thấy Đích lô hí một tiếng, Trảo hoàng phi điện nhìn nhìn Xích thố, rồi nhìn sang Đích lô, cuối cùng ngượng ngùng bước tới bên cạnh Đích lô, cúi đầu xuống, lại không ngừng nhìn trộm Xích thố.
Xích thố cũng ý thức được mình rất không hợp đàn, giống như muốn theo qua, Đích lô giơ giơ vó, Xích thố liền sợ sệt rụt trở về.
Lát sau, Xích thố khó có thể phát giác mà dịch về phía trước một chút, Đích lô liền cảnh giác quay đầu lại, Xích thố hoảng hồn lui trở về.
Trảo hoàng phi điện không an phận tiến tới trước tào cỏ, dùng mũi cọ cọ đống rơm khô trong tào, đẩy phân nửa qua cho Đích lô, nửa còn lại đẩy qua cho Xích thố.
Còn mình thì đứng lẻ loi trước cái tào trống rỗng, nuốt nước miếng, dùng đôi mắt vô tội nhìn sang hai phu thê đang sóng vai nói cười phía sau chuồng ngựa.
Quan Phượng chỉ cảm thấy thú vị nói không nên lời, cúi lên vai Tôn Lượng, cười nói: “Ba con ngựa đó cũng thật thú vị nhỉ…”
Tôn Lượng ôm eo Quan Phượng, trêu ghẹo: “Nhị cữu muốn cha ta trả nốt bốn vạn lượng hoàng kim còn sót lại kia…”
Quan Phượng sẳng giọng: “Tiểu thúc mới đúng đó”
Tôn Lượng ngượng ngùng nói: “Ngươi nghe rồi à?”
Quan Phượng trêu ghẹo: “Lúc các ngươi rời Lạc Dương đã sớm truyền ra rồi”
Tôn Lượng gật gật đầu, đoán chừng quá nửa là đòn tâm lý do Gia Cát Lượng đã chuẩn bị hảo từ trước, lại thở dài.
Quan Phượng thấy Tôn Lượng thần tình thấp thỏm, có lẽ vẫn chưa quyết định được, bèn thức thời không nhắc nhiều tới chuyện này nữa, chỉ nói lảng đi: “Theo tính nết của ca á, hoàng kim bất quá chỉ là ngụy trang thôi, vài ngày nữa người ta đưa hoàng kim tới, thế nào hắn cũng mở miệng đòi cái khác à”
Quan Phượng nói trúng phóc, mấy ngày sau sứ tiết quay lại, áp tám rương tổng cộng bốn vạn lượng hoàng kim đưa tới trước trướng Lưu Thiện, A Đẩu vừa thấy hoàng kim, lại khinh khỉnh đảo mắt, nói: “Lần trước nói gì ngươi quên rồi hả, còn di nương ta nữa chi? Đi, mang Tôn Thượng Hương tới đây rồi hẳn tính chuyện nghị hòa”
Hoàn toàn cho rằng người nọ sẽ khấu đầu rời đi, nhưng sứ giả vừa nghe xong, sắc mặt tức khắc trắng bệch, cả người run rẩy không ngừng như sàng trấu, A Đẩu nghi hoặc nói: “Có vấn đề gì?!”
Sứ tiết run giọng nói: “Cho phép…cho phép tiểu nhân trở về bẩm báo với Ngô vương”
A Đẩu phất tay lệnh hắn lui xuống, Quan Phượng mới cười nói: “Ca không biết bọn họ muốn kéo dài thời gian sao, còn đem một chuyện chia thành hai để nói làm gì?”
A Đẩu cười đáp: “Đương nhiên biết chứ, hắn muốn kéo dài, ta sẽ cho hắn kéo dài, chờ di nương tới rồi sẽ đánh hắn luôn, tránh cho tới lúc đó thành vừa phá, lão cà lăm lại cầm đao gác lên cổ di nương thì nan giải lắm”
Lại qua thêm mấy ngày nữa, hôm nay là lần đầu tiên A Đẩu gặp được Triệu Vân từ sau khi rời Nam Quận tới giờ.
Triệu Vân dường như mấy ngày liên tiếp chưa từng nghỉ ngơi đàng hoàng, hết sức mỏi mệt, đứng ở bên sảnh xuất thần, không biết đang nghĩ ngợi chuyện gì.
Kinh Trầm Kích, Tôn Lượng, Quan Phượng vào vị trí, chư tướng Hán doanh tập hợp trong phủ, tiếp kiến sứ giả chính thức từ Đông Ngô phái tới_____Cam Ninh.
Cam Ninh thay đổi bộ dáng lưu manh cợt nhả thường ngày, toàn thân mặc thiết khải, ôm quyền nói: “Ngô vương phái ta mang thư tới”
Hắn móc hắc tiên* ra, Trầm Kích tiến lên một bước, A Đẩu nói: “Không sao” [*một thứ giấy khổ nhỏ mà vẽ màu đẹp dùng để viết thơ từ cho lịch sự, gọi là giấy hoa tiên, vì thế mới gọi thư từ là tiên]
A Đẩu cười nói: “Cam đại ca, trước khi mở phong thư này, chúng ta vẫn còn là bằng hữu, đúng không?”
Cam Ninh thở dài, hơi trầm ngâm, rồi gật gật đầu.
A Đẩu tiếp lấy bức thư kia, thuận tay đặt nó lên án, vui vẻ nói: “Nếu đã thế, bức thư này ta sẽ mở sau, ta tiễn Cam đại ca một đoạn, đang có lời muốn hỏi ngươi”
Hắn làm động tác “Thỉnh”, cùng Cam Ninh dắt tay nhau ra khỏi phủ đệ, quay đầu lại nói: “Tiện thể ta dẫn đại ca đi dạo trong thành luôn”
Chúng tướng đưa mắt nhìn hai người rời phủ, những chuyện được A Đẩu cải biến vào lúc nguy cấp có rất nhiều, nếu để Lưu Thiện dẫn Cam Ninh tới quân doanh, có lẽ lần này sẽ cải biến được gì đó không biết chừng.
Quan Phượng bóc bức thư kia ra, thoáng nhìn qua, sáu chữ xúc mục kinh tâm trên bức thư đập vào mắt: “Ngươi muốn chiến, thì tới chiến”
Trầm Kích vẫn một mực im lặng nãy giờ bỗng lên tiếng: “Triệu Tử Long, ta có mấy câu muốn nói với ngươi”
Triệu Vân đáp: “Vừa lúc, Tử Long cũng có vài lời muốn nói”
Quan Phượng kéo Tôn Lượng thức thời rời đi, trong sảnh chỉ còn lại Trầm Kích và Triệu Vân, im lặng đến độ châm rơi cũng có thể nghe thấy, chỉ nghe tiếng hô hấp của Trầm Kích dồn dập hơn một chút.
Lát sau, Trầm Kích hỏi: “Ngươi muốn về Liêu Đông?”
Triệu Vân không đáp, hơi khàn giọng nói: “Tào Phi đã đền tội, ván cuối cùng, coi như ngươi thắng đi”
Thượng tướng quân Triệu Vân hợp lực cùng Quan Vũ ở thành Giang Lăng, thế như chẻ tre, thẳng tiến Nam Quận, chính quyền Đông Ngô đã là ngọn nến leo lét trong gió, Tôn Quyền già hay đa nghi, Lục Tốn bị lưu vong, Lữ Mông lao lực quá độ bệnh không dậy nổi, Nam Quận có binh vô tướng, phái Chu Tuyên thủ thành.
Lớp tướng lĩnh mới của Đông Ngô đều thiếu kinh nghiệm đối địch, người nào có thể cản bước được Triệu Vân? Không tới mười ngày, thành Nam Quận bị phá, Quan Vân Trường trảm Chu Tuyên ngay tại trận, kế tiếp phân binh tới thành Tương Dương, Triệu Vân đóng giữ Nam Quận, chỉnh quân chờ xuất phát, giở cẩm nang Gia Cát Lượng giao phó trước khi đi ra.
Lúc này A Đẩu hãy còn đang ở ngoại thành Giang Lăng.
Giang Lăng phòng thủ nghiêm ngặt như thiết dũng, có lẽ sợ lúc Quan Vũ ra ngoài chinh chiến thì bị Tư Mã Ý, Tôn Quyền thừa cơ chiếm sào huyệt.
Chu Thương ở trên thành lâu vừa thấy Lưu Thiện, lập tức mở cổng thành ra nghênh đón, A Đẩu ra hiệu miễn đi, chỉ kêu Chu Thương xuất thành hỏi vài câu, rồi cùng Lữ Bố vội vã đuổi tới Nam Quận.
Mưa bụi lất phất, cơn mưa nhỏ cuối hạ nhuyễn mà dầy đặc, dệt nên vô số tấm lưới khắp không trung, phủ chụp xuống.
A Đẩu thở dài, về đến Kinh Châu rồi, mấy năm trước hắn từ Kinh Châu đi ra ngoài, mà nay về lại nơi này, có chút cảm thụ nói không nên lời.
Trầm Kích giục ngựa không nhanh không chậm theo bên cạnh hắn, thoáng nhìn về phương xa, im lặng không lên tiếng.
A Đẩu cười nói: “Kinh gia thôn”
Trầm Kích gật gật đầu, nói: “Kinh gia thôn”
Đó là nơi bọn hắn gặp nhau lần đầu, năm ấy Quan Vũ suất quân mãnh công Tương Dương, A Đẩu mang thư của Điêu Thiền tới cầu viện, vốn không bao giờ ngờ rằng, một tên thị vệ tầm thường cư nhiên lại có thể xoay chuyển chiến cục Kinh Châu, thậm chí là toàn thiên hạ.
A Đẩu nhịn không được nói: “Tử tế ngẫm lại, cục diện bây giờ, có hơn phân nửa là do ngươi định ra”
Trầm Kích hơi trầm ngâm, đáp: “Ta là sĩ”
A Đẩu đã hiểu ý trong lời nói của hắn, nếu lấy phương châm tác chiến đóng vững đánh chắc, thận trọng từng bước của đám người Triệu Vân, Gia Cát Lượng, thì trong vòng mấy năm ngắn ngủi sẽ chẳng cách nào vượt qua Hán Trung, nhất cử phá Tào được, cứ cò cưa miếng thịt béo Hán Trung này, phỏng chừng còn phải kéo dài thêm vài năm.
Trầm Kích là một con cờ mang tính quyết định, đẫm máu xung phong, bước vào hiểm cảnh, một mình một ngựa giết tới đâu, thì nơi đó vạn quân táng đảm, không gì cản nổi. Cũng chính vì như thế, một kẻ võ dũng khó lòng gánh vác được vị trí tướng soái với cái nhìn đại cục toàn diện, suy cho cùng bất quá chỉ là một sĩ tốt cảm tử.
Bản thân Trầm Kích cũng minh bạch điều này, thượng binh phạt mưu đều cần có người chỉ huy hắn, hắn mới có thể phát huy lực chiến đấu lớn nhất, bằng không sẽ rơi vào kết cục bỏ mình như ở Bạch Môn lâu.
A Đẩu cười cười, nói: “Ngươi đập tan vô số cục diện bế tắc, nếu không phải ngươi dám xông dám liều, thì trận chiến này chẳng biết đánh đến bao giờ mới xong, sớm một khắc định thiên hạ, cũng coi như là tạo phúc cho bách tính”
Trầm Kích hờ hững gật đầu, chẳng đưa ra ý kiến gì, A Đẩu lại bổ sung thêm một câu: “Cảm ơn ngươi, ta…cũng không biết phải nói sao nữa”
Lúc này Trầm Kích mới cười nói: “Không cần, ngươi thích là được rồi”
Hai người tâm linh tương thông, nhìn nhau mỉm cười, đuổi về phía Nam Quận.
Cổng thành Nam Quận đóng chặt, trên tường gác hơn ngàn cây liên nỏ, như hổ rình mồi mà chỉa về phía Trầm Kích, chỉ sợ là quân phản công Đông Ngô cải trang tới đoạt thành.
Trầm Kích giục ngựa rời hàng, dừng giữa đồng hoang ngoài thành, coi liên nỏ lấp lóe hàn quang như vô hình, lạnh lùng nói: “Triệu Tử Long ở đâu?”
Thủ quân thành môn đi xuống thông báo, lát sau Triệu Vân vài bước lên thành môn, đưa mắt nhìn xuống Trầm Kích, nhíu mày nói: “Kinh tướng quân?”
“Mở cổng” Trầm Kích nói.
Triệu Vân cất cao giọng nói: “Kinh tướng quân tới đây có chuyện gì?”
Vừa nghe lời này, thủ quân trên thành môn rối rít thu liên nỏ về, xác nhận là người phe mình, lập tức liền có người đi xuống mở cổng thành.
Triệu Vân tức giận quát: “Ai cho phép các ngươi rút nỏ về?”
Chúng binh sĩ sợ hết hồn, đành phải ngoan ngoãn đem cung nỏ gác lên lần nữa.
Triệu Vân nói: “Một mình Tử Long là đủ phá Kiến Nghiệp rồi, xin tướng quân trở về cho”
Mấy vạn người trong thành, ngoài thành đều âm thầm gạt mồ hôi, đây là nội chiến Hán doanh chăng?
Trầm Kích nói: “Ta phụng lệnh thừa tướng và chủ công tới trợ giúp ngươi, thỉnh Triệu tướng quân mở cổng thành”
Triệu Vân đáp: “Tướng ở bên ngoài, lệnh vua có thể bất tuân, xin tướng quân trở về cho”
Trầm Kích nói: “Chủ công ở ngay phía sau, đang suất lĩnh một vạn cung nỏ binh đuổi tới đây”
Triệu Vân trầm mặc một hồi, A Đẩu rốt cuộc cũng đuổi tới, gạt mọi người ra, đưa mắt nhìn Triệu Vân trên thành lâu, thấp thỏm gọi: “Sư phụ”
“Sư phụ, ta tới…bái tế mẹ ta” A Đẩu gắng lấy dũng khí nói.
“Sư phụ!” Lúc này Khương Duy cũng đã tới.
Triệu Vân đành phải thở dài, phất tay ra hiệu mở cổng thành.
Thủ quân Nam Quận lúc này mới như được đại xá mà thở phào nhẹ nhõm, giỡn chơi à, Thượng tướng quân cùng hoàng đế phân cao thấp, qua được thì thôi, chứ mấy ngàn cây cung tiễn trên cổng thành đồng loạt chỉa vào hoàng đế và thống lĩnh cấm vệ, tới lúc tính sổ lôi tiểu binh đi khai đao cũng chẳng phải chuyện đùa đâu.
A Đẩu và Khương Duy sóng vai vào thành, Trầm Kích thức thời đi an bài binh mã.
Triệu Vân chỉ lộ diện một lần trên thành lâu rồi mất tăm mất tích, A Đẩu nhìn cảnh hoang tàn khắp nơi trên đường một hồi, nhà cửa Nam Quận nám đen, cùng với dân chúng thất lạc thân nhân ở hai bên đường, bản thân gần như có thể cảm nhận được cơn tức giận ẩn nhẫn của Triệu Vân.
Hắn hỏi vị phó tướng tiến tới nghênh tiếp: “Sư phụ đâu?”
Phó tướng mờ mịt lắc đầu, một mạch dẫn A Đẩu và Khương Duy vào trong phủ thành chủ, lại nói: “Triệu tướng quân thỉnh chủ công nghỉ ngơi trước, nơi này đã thu thập thỏa đáng rồi”
A Đẩu thở dài, đuổi phó tướng kia đi, Khương Duy đi truyền ngọ phạn, lát sau Trầm Kích tới, hai người ngồi trong chính sảnh trong phủ một hồi, nhìn nhau không nói gì, chợt A Đẩu nói: “Binh của ngươi đâu?”
Trầm Kích đáp: “An bài hảo rồi, chờ ăn cơm”
Bỗng A Đẩu nói: “Lát nữa ta ăn cùng Bá Ước, giờ ta đi dạo chút”
Trầm Kích và A Đẩu nhìn nhau thật lâu, A Đẩu dè dặt hỏi: “Ta đi tìm sư phụ nói chuyện lát, được không?”
Trầm Kích hết sức khó hiểu, đáp: “Cứ đi đi, ta có bao giờ cản ngươi chưa?”
A Đẩu mỉm cười, xoay người rời phủ.
Tìm tới trướng trung quân, Hán quân thấy thái tử thân lâm, đều đua nhau chấn động, nhường ra một con đường.
Đã vào giờ ngọ phạn, A Đẩu men theo đường tìm tới, đuổi tên binh sĩ dẫn đường đi, tìm được soái trướng của Triệu Vân, nhưng trong trướng không một bóng người.
Ngoài cửa ngồi mấy chục tên hắc y quân, chính là thân binh của Triệu Vân, ai nấy tự bưng chén sành ăn cơm, A Đẩu vội bảo bọn họ quay về vị trí, hỏi: “Sư phụ đâu?”
Có người bẩm: “Tướng quân chưa về”
A Đẩu nói: “Cứ ăn cơm đi, mặc kệ ta” Đoạn tìm chỗ ngồi xuống, thấy bên băng ghế gỗ đặt một bộ bát đũa, trong bát là vài cái màn thầu, lại thấy vài tên binh sĩ kề sát bên một chậu dưa muối, một chậu đậu ướp mà ăn đến quên trời quên đất, bèn mỉm cười nói: “Đây là vị trí của sư phụ à?”
Chúng nhân gật gật đầu, thần tình lãnh đạm.
A Đẩu bẻ một miếng màn thầu nhỏ ra, nhai vào vừa khô vừa đắng, đậu nành ướp thì mặn chát, nhịn không được nghĩ thầm, cuộc sống cùng ăn cùng ở với các binh sĩ quả nhiên chẳng sung sướng gì. Vẫn là Ách ba thông minh, đi theo chủ công ăn ở một chỗ, toàn thịt cá.
So ra, Lữ Bố toàn lấy hình tượng cá nhân để thống lĩnh quân đội, Triệu Vân mới giống như một tướng lĩnh chân chính, rất có phong phạm của Hoắc Khứ Bệnh tiền triều, hậu nhân Nhạc Phi.
A Đẩu phì cười, thầm nghĩ lúc nào đó phải đuổi Lữ Bố tới ở chung với binh sĩ mới được, chứ cứ sùng bái cá nhân mãi thì không xong.
Chờ mãi chờ hoài mà không thấy Triệu Vân trở về, binh sĩ ai nấy ăn xong đã tự thu dọn bát đũa, A Đẩu đành phải mệt mỏi đứng dậy, rời quân doanh.
Hắn đi về phía thành Tây, túy ý dạo chơi, cũng chẳng biết đi bao lâu, rốt cuộc tới trước một khu vườn xanh biếc.
Trong vườn cây cối tốt tươi, còn phòng ốc xung quanh thì sụp đổ, rõ ràng là dù chiến hỏa lan tràn, cũng chưa từng lan tới chỗ này, do Triệu Vân hạ lệnh không được quấy nhiễu chủ nhân trong vườn chăng?
Đây là nơi nào? Ai ở? A Đẩu nổi lòng hiếu kỳ, thơ thẩn đi vào trong vườn.
Bên ngoài vườn chỉ có một căn nhà gỗ tồi tàn xiêu xiêu vẹo vẹo, giống như có người vừa thu dọn qua, ngay giữa vườn dựng một khối thạch bia bạch ngọc.
Khi nhìn thấy người đang đưa lưng về phía mình, A Đẩu ngừng bước, núp sau bụi cây.
Triệu Vân một thân ngân khải chưa cởi, trên người đầy bụi đất, quỳ trước mộ của Cam phu nhân. Bên gối đặt một vò rượu, trước mặt bày một cái lư hương đồng nho nhỏ.
Mộ bia được lau sạch đến không có lấy một hạt bụi, mớ cỏ trước mộ đã được cắt tỉa gọn gàng vô cùng, lá rụng, nhánh cây khô đều bị dẹp bỏ, dòng chữ đỏ đề bằng bút son trên mộ lại được tỉ mỉ tô lên một lớp nữa.
Triệu Vân thắp hương, mỉm cười nói: “Thiến nhi, ca tới thăm ngươi đây”
Hắn cung cung kính kính bái ba cái, cắm nhang ngay ngắn vào trong lư hương, rồi châm đầy ba chung rượu ở trước mộ, đoạn cũng châm cho mình một chung, nâng rượu, chăm chú nhìn tấm bia mộ bạch ngọc kia.
“Thiến nhi, A Đẩu trưởng thành rồi, không còn là cây củ cải đỏ bé bỏng đi long nhong theo Tử Long nữa…”
“A Đẩu đã chẳng còn thích khóc nữa, so với đứa bé khóc la hồ nháo thuở trước, hiện tại hắn càng hiểu rõ phải khóc như thế nào, bao giờ thì khóc”
“Tử Long chưa bao giờ nghĩ rằng, sẽ có một ngày như thế…”
“Thiến nhi, mỗi năm Tử Long đều thay ngươi dẫn hắn đi quá tiết”
Triệu Vân cư nhiên không hề nhắc tới chuyện quân lữ chinh chiến, bình định thiên hạ, hắn quỳ trước mộ, nói toàn những chuyện vụn vặt thường ngày của A Đẩu. Khi nào thì bị thương, hay sinh bệnh gì, đều nhớ rõ mồn một.
Triệu Vân thở dài, nói: “Thiến nhi, A Đẩu sắp làm hoàng đế rồi”.
Lời đó chỉ nhẹ nhàng nhắc thế thôi, rồi cho qua, dường như chẳng chút liên quan nào tới hắn.
Cuối cùng Triệu Vân nói: “Lần này A Đẩu dời ngươi về Thành Đô, hợp táng với chủ công; đợi khi nào công phá Kiến Nghiệp rồi, Tử Long sẽ quải ấn phong kim*, trở về Liêu Đông” [*quải ấn: từ quan; phong kim: đem vàng bạc của cải niêm phong cất vào kho, ý nói không muốn nhận]
“Chuyện của Tử Long đã làm xong rồi, từ đâu tới, thì về lại nơi ấy. Mai sau nơi hắc thổ ngàn dặm, tuyết trắng miên man, Tử Long sẽ vì ngươi thắp lên một ngọn…trường minh đăng”
Triệu Vân ngưỡng cổ uống cạn chung rượu, kế tiếp xoay người rời khỏi lăng viên.
Nửa ngày trôi qua, A Đẩu mới từ sau đám cây bước ra, nhang đã cháy hết, tro tàn trầm nặng như sương, chung rượu Triệu Vân uống qua vẫn còn ném trên mặt đất.
A Đẩu tiến lên dùng bào tụ lau thạch bia, cũng quỳ xuống.
A Đẩu nói: “Lão mẹ, mẹ sinh được cái xiên nướng, xiên nướng…tới dập đầu trước mẹ đây”
A Đẩu dập đầu trước mộ bia, chợt giơ tay lên tát mình một cái, đỏ mắt, đứng dậy bỏ đi.
Sau khi rời mộ viên, A Đẩu không đi tìm Triệu Vân nữa, hắn về đến phủ thành chủ lặng lẽ nằm xuống, suy nghĩ xem phải làm cách nào để giữ Triệu Vân lại.
Trầm Kích ở ngoại gian tập trung tinh thần xem một quyển sách.
“Gì thế”
Trầm Kích không đáp, A Đẩu đứng dậy liếc một cái, thấy đó là cuốn đạo pháp kinh quyển, bên trên vẽ kinh mạch và huyệt vị toàn thân nam tử, bèn mỉa mai: “Xem mấy năm trời rồi mà vẫn chưa hết à?”
Trầm Kích hờ hững nói: “Làm gì có thời gian”
A Đẩu trở mình, nằm úp sấp, lát sau, Khương Duy tới.
“Ta hỏi ngươi, Khương Tiểu Duy, aizz, đừng sờ nữa”
Khương Duy cười nói: “Tiểu gia đang giúp ngươi thả lỏng gân cốt đó chứ”
A Đẩu bị Khương Duy xoa nắn rên hừ hừ, bỗng nói: “Sư phụ muốn đi sao?”
Khương Duy chợt ngừng động tác, A Đẩu nói: “Ngươi biết à?”
Khương Duy trầm mặc hồi lâu, mới hỏi ngược lại: “Sao ngươi biết được?”
A Đẩu nói: “Hắn muốn về Liêu Đông ư?”
Khương Duy chẳng ừ hử gì, A Đẩu lại nói: “Ngươi đi nói thử được không?”
Khương Duy đáp: “Ta nói rồi, không được”
Trầm Kích nhìn Khương Duy và A Đẩu một cái, vành mắt A Đẩu ửng đỏ, nói: “Ngươi nói lại với hắn lần nữa đi”
Khương Duy nói: “Ta với ngươi cùng nói?”
A Đẩu lẩm bẩm: “Hắn không cần ta nữa, hắn hận ta muốn chết”
Khương Duy thở dài, sờ sờ đầu A Đẩu, cười nói: “Sao hận ngươi được, để ta nghĩ cách”
A Đẩu kéo Khương Duy, nói: “Ngươi ngàn vạn…Bá Ước, hắn cũng là sư phụ của ngươi mà”
Tay A Đâu nắm rất chặt, giống như đang bắt lấy cọng rơm cứu mạng, Khương Duy rốt cuộc không đành lòng nói thêm gì nữa, bảo: “Biết rồi, cứ giao hết cho ta”
A Đẩu nằm sấp trên tháp, chờ Khương Duy trở về, giống như đợi cái phán xét cuối cùng cũng tới, trời rất nhanh liền sập tối, bên ngoài phòng huyên náo vô cùng, binh tới mã lui, hắn ngồi dậy, nhìn thoáng ra ngoài, rồi mệt mỏi nằm xuống.
Khương Duy đi không bao lâu thì trở về, nói: “Ta không thấy sư phụ, hắn đi mất rồi, tối nay đã khởi hành tới Thọ Xuân. Chúng ta làm sao giờ?”
A Đẩu đem gối đầu ném sang một bên, đứng dậy nói: “Chúng ta cũng đi thôi”
Nhưng Khương Duy nói: “Ta đi không được, sư phụ để lại thư, dặn ta thủ thành…Ngươi đi đi” Nói xong nhìn Trầm Kích một cái, cùng A Đẩu hai người hiểu rõ trong bụng.
Trong lúc nói chuyện, Tôn Lượng vội vã chạy vào trong doanh,hỏi: “Đêm nay Triệu Tử Long tướng quân đã đi rồi à?”
A Đẩu chợt nảy ra một kế, nói: “Muội phu, ta nghĩ ra cách này”
A Đẩu, Khương Duy, Tôn Lượng ba người ngồi kề sát nhau, nhỏ giọng thương nghị chốc lát, mặt Tôn Lượng như nước lặng, không nhìn ra hỉ nộ.
A Đẩu hỏi: “Ngươi thấy vậy được không?”
Tôn Lượng trầm ngâm chốc lát, nhìn sang Lưu Thiện, nói: “Nhị cữu đã phân phó, thì sao có thể nói không được chứ?”
A Đẩu nói tiếp: “Ách ba, ngươi qua đây nói rõ cho Tử Minh nghe, năm đó trong nhà hắn rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì”
Trầm Kích đi tới giữa ba người ngồi xuống, hờ hững nói: “Sau khi cha ngươi bị môn đồ của Hứa Cống đâm trọng thương, vốn không chết”
Tôn Lượng động dung, có vẻ đây là lần đầu nghe được chuyện này, vội nhíu mày hỏi: “Chuyện này là sao?”
Trầm Kích nói: “Hôm đó ta làm khách Giang Đông, cùng hắn đi săn thú…”
Mấy chục năm trước, bởi vì trận chiến thảo phạt Viên Thuật mà Lữ Bố và Tôn Sách đã kết giao với nhau.
Tôn Sách trọng võ, cố ý lung lạc Lữ Bố cho mình dùng, nên đương nhiên hết sức nhiệt tình, dùng võ kết bạn, chỉ vài chiêu là thành, rất hợp với Lữ Bố, hai người mới quen mà như đã thân, lập tức kết thành mạc nghịch chi giao*. [*nghĩa là bằng hữu tâm đầu ý hợp, rất ăn ý với nhau]
A Đẩu nhịn không được cười nói: “Ngươi và Tôn Bá Phù cũng hợp nhau nhỉ”
Trầm Kích hơi trầm ngâm, bèn đáp: “Hắn có cốt khí của ngươi, nhưng không có bĩ khí giống ngươi”
A Đẩu nghĩ tới Tôn Sách ân uy đều xem trọng, khi đối địch thì không từ thủ đoạn diệt trừ chướng ngại, còn đối với người có thể dung được, thì cực lực lung lạc, như vậy cũng có chút tương tự với tính tình của mình.
Chỉ tiếc lòng khoan dung của Tôn Sách không đủ rộng, cuối cùng vô pháp đạt thành đế nghiệp, danh sĩ Giang Đông chết trong tay thủ hạ hắn nhiều vô số kể. Trước có Cao Đại, Vu Cát, sau có Hứa Cống. Phàm kẻ nào được lòng người, uy danh vượt trên Tôn gia mà không phục sự cai quản của hắn, thì Tôn Sách chắc chắn sẽ tàn nhẫn hạ sát.
Trong nhất thời dẫn đến sĩ tộc Giang Đông người người cảm thấy bất an, không đầu Tôn thì chẳng còn đường nào để đi, Hứa Cống dâng thư lên Hiến đế, nói Tôn Sách kiêu dũng, phải triệu về Lạc Dương để khống chế dưới chân thiên tử.
Sau khi nhận được tin tức, Lữ Bố phái người thông báo cho Tôn Sách biết, Tôn Sách liền hạ lệnh treo cổ Hứa Cống ngay trước mặt công chúng.
Tự ý trảm sát mệnh quan triều đình chính là tử tội, vì thế Hiến đế phái Ôn hầu tới tra rõ chuyện này.
Trầm Kích ngẫm nghĩ, rồi nói: “Khi đó vốn chỉ định nhắc hắn đề phòng thôi, nào ngờ Bá Phù so với ta còn ngoan độc hơn, giết chết Hứa Cống tại chỗ”
A Đẩu chỉ cười không nói gì, thầm nghĩ tác phong hành sự của hai người này thật đúng là tương tự nhau.
Sau khi dẫn Điêu Thiền tới Giang Đông, Lữ Bố giả vờ khiển trách Tôn Sách một trận, chuyện này cứ thế bỏ qua. Tôn Sách thấy cố hữu tới, cực lực mời Lữ Bố ra ngoài săn thú, còn Điêu Thiền thì có tình đồng môn với Đại Kiều, nên lưu lại Kiến Nghiệp.
Lữ Bố cưỡi thần tuấn, cùng Tôn Sách đuổi theo một con nai, lúc rong ruổi đã vứt Tôn Sách lại tuốt phía sau, tọa kỵ của Tôn Sách cũng là hảo mã, cũng bỏ những người theo sau cả một quãng dài. Khi hai người đi tới một mảng rừng, môn đồ của Hứa Cống rắp tâm vì chủ báo thù mai phục đã lâu, đột nhiên lủi ra, ám tiễn bay vùn vụt, Tôn Sách không kịp đề phòng, bị bắn trúng ngay mặt, lập tức té ngựa.
May mà trong ngực Tôn Sách có giấu Kế đô la hầu thuấn ngục tiễn do Đại Kiều giao phó, nên bắn chết mấy tên thích khách ngay tại chỗ.
Trầm Kích không liếc mắt tới cái hộp kim kia, nói: “Chính là cái này”
A Đẩu cất hộp tiễn vào, nói: “Khi đó ngươi chạy đi một mình luôn à?”
Trầm Kích nói: “Sao ta biết sẽ có người ám sát hắn chứ?”
Tôn Lượng nhịn không được nói: “Nhị cữu đừng cắt ngang, sau đó thế nào?”
Lữ Bố bắn được con nai kia xong mới quay về, thấy Tôn Sách thụ thương, nhất thời ngạc nhiên, bèn vội vàng đưa hắn về Kiến Nghiệp, gọi Tiểu Kiều tới chẩn trị.
A Đẩu vẫn nhịn không được nói leo vào: “Nghe đồn Tôn Sách được gọi là ‘mỹ Tôn lang’, bộ dáng chắc đẹp mắt lắm nhỉ, bị trúng một tiễn ngay mặt, thật đáng tiếc”
Trầm Kích mỉa mai: “Trên mặt trúng một tiễn thì đã sao? Hầu gia trước đây cũng có bị phá tướng đâu?”
Tuy mặt Tôn Sách bị thương, nhưng tính mạng vô ngại, xảy ra chuyện này, Lữ Bố cũng không tiện lưu lại nữa, đợi tận mắt thấy tiểu Kiều điều dược, đắp lên một lớp thật dầy, rồi quấn băng vải lại cho Tôn Sách, hắn mới yên tâm.
Suy cho cùng, tuy Tôn Sách tự mình gây chuyện, nhưng vô luận là từ chuyện của Hứa Cống, hay từ chuyện ám sát, Lữ Bố đều không thoát khỏi trách nhiệm.
Tôn Sách là bằng hữu duy nhất của hắn, nếu mình không phái người tới truyền tin tức, thì Hứa Cống đâu có chết.
Bên cạnh đó, hôm đi săn thú, nếu hai người một tấc không rời, thì Tôn Sách cũng sẽ không gặp phải tai họa này.
Trầm Kích lại nói: “Đêm đó ta nhìn hắn nghỉ ngơi, rồi nói với hắn rằng, nam nhi dù diện mạo có bị thương tổn, nhưng tâm vô tổn, thì có sao đâu?”
A Đẩu nói: “Hắn chịu nghe không?”
Trầm Kích gật gật đầu, A Đẩu nói: “Nghe bảo cuối cùng khi hắn soi gương…đã vô cùng tức giận, làm vết thương nứt toác mà chết”
Trầm Kích cười mỉa: “Tôn Bá Phù há lại là loại người như thế?”
Tôn Lượng nói: “Chuyện này…có liên quan gì tới Đại nương ta?”
Trầm Kích nhướng mày nói: “Lúc từ trong phòng hắn đi ra, ta thấy Đại Kiều và Tôn Quyền chẳng biết đang nói gì đó với nhau, ánh mắt của tên tiểu tử Tôn Quyền kia lóe sáng, thấy Hầu gia thì hai chân run rẩy, ăn nói lắp ba lắp bắp, hiển nhiên không phải người tốt”
A Đẩu nhất thời không biết nên khóc hay nên cười, Lữ Bố toàn dựa vào ấn tượng đơn giản như vậy để phán đoán đối phương là người tốt hay xấu, cũng thực quá cứng nhắc đi.
Trầm Kích lại nói: “Đêm đó hắn vốn không sao, hôm sau ta liền khởi hành về Lạc Dương, trước khi đi, cư nhiên không ai tới tiễn”
Tôn Lượng nói: “Tiểu thúc không ra tiễn ngươi ư?”
Trầm Kích nói: “Toàn thành giới nghiêm, trừ ta, Điêu Thiền và thân thị ra, không cho phép bất cứ ai xuất thành”
A Đẩu không khỏi ngồi thẳng người, nói: “Đêm đó hắn đã chết ư? Cũng quá nhanh đi”
Trầm Kích hờ hững nói: “Ta phát hiện bất thường, vốn định về xem thử, nhưng Điêu Thiền cứ giục ta xuất thành”
A Đẩu loáng thoáng cảm giác được trong lời nói của Lữ Bố tràn đầy hối hận, bèn nói lảng đi: “Điêu Thiền trộm viên Hỗn nguyên trường sinh đan kia, có tật giật mình, nên đương nhiên sẽ hối ngươi đi gấp rồi”
Trầm Kích nói: “Chẳng lẽ Đại Kiều thì không có tật giật mình sao? Ta hết cách, đành phải xuất thành, nửa đường nhận được thiếp viếng, Tôn Sách đã chết, hôm đó Tôn Quyền kế vị, ta liền quay về Kiến Nghiệp, cổng thành cư nhiên đóng chặt, không cho ta vào thành”
“Bá Phù đã đáp ứng ta sẽ an tâm tĩnh dưỡng, lý nào hôm sau lại chết được, rốt cuộc là duyên cớ gì?”
“Ta ở ngoài thành, vạch một nhát kiếm lên mặt mình, phát thệ ngày sau phải báo thù cho Bá Phù…”
Ba thiếu niên đồng thời hít vào một hơi lãnh khí.
A Đẩu run giọng nói: “Ngươi…Vết thương trên mặt ngươi, là do vậy mà có ư?!”
Trầm Kích lạnh lùng nói: “Phải”
Cứ nghĩ tới vết sẹo kia, A Đẩu liền cảm thấy rất đau đớn, hắn nắm lấy ngón tay ấm áp thon dài của Trầm Kích, ngẫm nghĩ, rồi nói: “Sau này ngươi không được…không được bảo thủ như thế nữa”
Trầm Kích lại nói: “Sau khi trở về, khi ta đang suy nghĩ muốn dẫn binh tới công Giang Đông, thì Quách Tị, Lý Nho liền tới công thành Trường An, ta đành phải dẫn Điêu Thiền rời đi, vốn muốn tìm Bá Phù nương tựa, nhưng Bá Phù đã chết rồi, đành phải lên bắc tìm Viên Thiệu, sau đó nữa, chính là trận chiến Quan Độ, Bạch Môn lâu…Các ngươi đều đã biết rồi. Tuy ta không giết Bá Phù, nhưng Bá Phù lại vì ta mà chết”
Trầm Kích không lên tiếng nữa, đi ra ngoài trướng, tìm một nơi, dựa vào hàng rào gỗ ngồi xuống, bắt đầu thổi sáo trong ánh trăng.
Đêm hôm đó, Lưu Thiện điểm binh mã, lệnh Tôn Lượng hành quân gấp đuổi tới phía đông bắc, tốc độ hành quân của Triệu Vân cực nhanh, gần như ngựa không ngừng vó mà công thành chiếm đất, khi tới Hợp Phì thì hội hợp cùng Tôn Lượng.
Tôn Lượng được Lưu Thiện bày kế, lấy danh nghĩa hậu duệ của Tôn Sách chiêu hàng ngoài thành Thọ Xuân, đồng thời vạch trần chuyện Tôn Sách mất mạng năm đó.
Thái thú Thọ Xuân Lưu Bình mấy phen do dự, lúc giao đàm với Tôn Lượng ở trên thành lâu thì vâng dạ khúm núm, nghị định mất ba ngày, nhưng mặt khác lại phái người xuất thành trình báo chuyện này, tính trì hoãn để chờ Kiến Nghiệp phái quân tới cứu viện.
Triệu Vân phẫn nộ giương cung lắp tiễn, thần kỹ bách phát bách trúng, tựa như cung thần hàng thế nháy mắt một phát bắn chết hắn!
Phó tướng Thi Tích không dám dựa vào địa thế hiểm yếu để kháng cự nữa, kết cục thành phá ở ngay trước mắt, bèn đầu hàng.
Mấy ngày sau, Cam Ninh suất quân tới giúp, mắt thấy trên thành lâu đã đổi sang Hán kỳ, đành phải sai bộ hạ về thông báo, còn mình thì do dự, ngụ lại ở một tiểu trấn cách thành hơn mười dặm.
Lúc này, Lưu Thiện và Kinh Trầm Kích mới đuổi tới Thọ Xuân.
Thọ Xuân và Kiến Nghiệp chỉ cách nhau có một con sông, Tôn Quyền trăm triệu không ngờ rằng Triệu Vân sẽ tới mau như vậy, lập tức triều dã Đông Ngô người người bất an, sợ hãi vô cùng, đại quân áp cảnh, chỉ cần vượt qua Dĩnh thủy, binh mã xuôi nam, là đã có thể công hãm Kiến Nghiệp.
Những nơi như Sài Tang, Hạ Bi không kịp cứu viện, binh đạo dọc đường Tương Dương bị Quan Vũ phát binh cản trở, nếu Triệu Vân mặc kệ bì binh và sĩ tốt thương vong, ỷ mạnh mãnh công Kiến Nghiệp, thì Tôn Quyền chỉ đành phải dời đô về phía Đông, trốn ở Ngô Quận.
Cùng lúc đó, tin tức Lưu Thiện phái người gieo rắc cũng đã truyền tới các nơi Kiến Nghiệp, Ngô Quận, vạch trần chân tướng cái chết của Tôn Sách năm đó.
Tôn Sách chết bất đắc kỳ tử trong đêm, vốn có rất nhiều nghi vấn, kế đánh vào tâm ký khiến mấy lão thần còn sống của Đông Ngô nhân tâm bàng hoàng, liên tiếp rời đi.
Đông Ngô nằm trên đất Sở, rất không thích hợp để chiến đấu, năm đó Xích Bích, Tào Tháo xuôi nam, thì vẫn còn Trương Chiêu xin nghị hòa, hôm nay Chu Du đã chết, Lục Tốn bị trục xuất, Đông Ngô đã thiếu đi tướng chủ chiến.
Vạn bất đắc dĩ, dưới sự xúi giục của Tư Mã Ý, Tôn Quyền hạ quyết định cuối cùng_____nghị hòa.
Sứ giả Kiến Nghiệp nâng thư của Tôn Quyền tới, cận kiến Lưu Thiện trong phủ thái thú Thọ Xuân, dùng tình giảng giải, dùng lý đả động, ngôn từ chuẩn xác, dùng thân phận thần tử hành đại lễ dập đầu, chứng tỏ Đông Ngô nguyện thần phục dưới triều đình Hán gia.
Mặt khác, Tôn Quyền bố trí phòng thủ nghiêm ngặt ở Kiến Nghiệp, đồng thời mang vợ con rút về Ngô Quận, phái người truyền thư tới Oa quốc, cầu trợ Ti Di Hô. [*Oa quốc là nước Nhật, Ti Di Hô là nữ hoàng Himiko]
Lúc A Đẩu tiếp kiến sứ giả, chỉ đảo mắt khinh thường, nói: “Lần trước lão cữu còn thiếu bốn vạn lượng hoàng kim chưa trả đấy, trước hết hãy trả đủ đi rồi tính chuyện nghị hòa sau”
Sứ tiết bi thương vạn phần bỏ đi.
Tôn Lượng ngồi ở ngoại thành, đưa mắt nhìn đám ngựa của đoàn sứ tiết Đông Ngô, hai mắt chợt bị một bàn tay nhỏ nhắn mềm mại che lại.
“Ngân Bình?!”
Tôn Lượng vội kéo tay Quan Phượng, để nàng ngồi xuống, nhíu mày nói: “Sao ngươi tới đây? Thanh nhi đâu?”
Quan Phượng cười dài nói: “Còn không phải lo lắng cho ngươi và ca sao, Thanh nhi đang ở Lạc Dương, có người chiếu cố nó rồi, yên tâm đi”
“Ra mắt nhị cữu chưa?”
Quan Phượng dịu dàng cười nói: “Chưa, ca đang gặp sứ giả của cha ngươi, ta mới từ trong thành ra, nghe đám tiểu tử bảo ngươi đang phát ngốc ở chỗ này, bèn tự đi tìm”
Tôn Lượng lập tức lý giải được một phen tâm ý của nàng, nàng sợ trượng phu mình gia quốc lưỡng nan, vô pháp chọn lựa, thế nên mới phong trần mệt mỏi tới đây, cùng mình chống cự cường địch, trong lòng cảm động, nhất thời không biết phải mở miệng như thế nào.
Quan Phượng trước giờ thích vung đao sử bổng, dù đã sinh tiểu hài cũng chẳng có chút thần thái của phụ nhân, khí thế nữ hiệp giữa mi mục kia vẫn như cũ không giảm, cư nhiên lại suất mấy ngàn người một đường xuôi nam, tìm đến Thọ Xuân, nghĩ tới đây, Tôn Lượng không khỏi mỉm cười.
Quan Phượng đưa mắt nhìn mấy con ngựa trong chuồng đằng xa, chợt phì cười nói: “Ba con kia sao lại trở thành như thế?”
Tôn Lượng kéo bàn tay nhỏ nhắn mềm mại của thê tử, nhìn theo ánh mắt nàng, chỉ thấy Đích lô, Trảo hoàng phi điện và Xích thố đứng dàn hàng trong chuồng ngựa, đuôi đứa nào cũng trụi lủi, nhịn không được cười nói: “Còn không phải chuyện tốt do nhị cữu làm ra sao”
Chỉ thấy Đích lô hí một tiếng, Trảo hoàng phi điện nhìn nhìn Xích thố, rồi nhìn sang Đích lô, cuối cùng ngượng ngùng bước tới bên cạnh Đích lô, cúi đầu xuống, lại không ngừng nhìn trộm Xích thố.
Xích thố cũng ý thức được mình rất không hợp đàn, giống như muốn theo qua, Đích lô giơ giơ vó, Xích thố liền sợ sệt rụt trở về.
Lát sau, Xích thố khó có thể phát giác mà dịch về phía trước một chút, Đích lô liền cảnh giác quay đầu lại, Xích thố hoảng hồn lui trở về.
Trảo hoàng phi điện không an phận tiến tới trước tào cỏ, dùng mũi cọ cọ đống rơm khô trong tào, đẩy phân nửa qua cho Đích lô, nửa còn lại đẩy qua cho Xích thố.
Còn mình thì đứng lẻ loi trước cái tào trống rỗng, nuốt nước miếng, dùng đôi mắt vô tội nhìn sang hai phu thê đang sóng vai nói cười phía sau chuồng ngựa.
Quan Phượng chỉ cảm thấy thú vị nói không nên lời, cúi lên vai Tôn Lượng, cười nói: “Ba con ngựa đó cũng thật thú vị nhỉ…”
Tôn Lượng ôm eo Quan Phượng, trêu ghẹo: “Nhị cữu muốn cha ta trả nốt bốn vạn lượng hoàng kim còn sót lại kia…”
Quan Phượng sẳng giọng: “Tiểu thúc mới đúng đó”
Tôn Lượng ngượng ngùng nói: “Ngươi nghe rồi à?”
Quan Phượng trêu ghẹo: “Lúc các ngươi rời Lạc Dương đã sớm truyền ra rồi”
Tôn Lượng gật gật đầu, đoán chừng quá nửa là đòn tâm lý do Gia Cát Lượng đã chuẩn bị hảo từ trước, lại thở dài.
Quan Phượng thấy Tôn Lượng thần tình thấp thỏm, có lẽ vẫn chưa quyết định được, bèn thức thời không nhắc nhiều tới chuyện này nữa, chỉ nói lảng đi: “Theo tính nết của ca á, hoàng kim bất quá chỉ là ngụy trang thôi, vài ngày nữa người ta đưa hoàng kim tới, thế nào hắn cũng mở miệng đòi cái khác à”
Quan Phượng nói trúng phóc, mấy ngày sau sứ tiết quay lại, áp tám rương tổng cộng bốn vạn lượng hoàng kim đưa tới trước trướng Lưu Thiện, A Đẩu vừa thấy hoàng kim, lại khinh khỉnh đảo mắt, nói: “Lần trước nói gì ngươi quên rồi hả, còn di nương ta nữa chi? Đi, mang Tôn Thượng Hương tới đây rồi hẳn tính chuyện nghị hòa”
Hoàn toàn cho rằng người nọ sẽ khấu đầu rời đi, nhưng sứ giả vừa nghe xong, sắc mặt tức khắc trắng bệch, cả người run rẩy không ngừng như sàng trấu, A Đẩu nghi hoặc nói: “Có vấn đề gì?!”
Sứ tiết run giọng nói: “Cho phép…cho phép tiểu nhân trở về bẩm báo với Ngô vương”
A Đẩu phất tay lệnh hắn lui xuống, Quan Phượng mới cười nói: “Ca không biết bọn họ muốn kéo dài thời gian sao, còn đem một chuyện chia thành hai để nói làm gì?”
A Đẩu cười đáp: “Đương nhiên biết chứ, hắn muốn kéo dài, ta sẽ cho hắn kéo dài, chờ di nương tới rồi sẽ đánh hắn luôn, tránh cho tới lúc đó thành vừa phá, lão cà lăm lại cầm đao gác lên cổ di nương thì nan giải lắm”
Lại qua thêm mấy ngày nữa, hôm nay là lần đầu tiên A Đẩu gặp được Triệu Vân từ sau khi rời Nam Quận tới giờ.
Triệu Vân dường như mấy ngày liên tiếp chưa từng nghỉ ngơi đàng hoàng, hết sức mỏi mệt, đứng ở bên sảnh xuất thần, không biết đang nghĩ ngợi chuyện gì.
Kinh Trầm Kích, Tôn Lượng, Quan Phượng vào vị trí, chư tướng Hán doanh tập hợp trong phủ, tiếp kiến sứ giả chính thức từ Đông Ngô phái tới_____Cam Ninh.
Cam Ninh thay đổi bộ dáng lưu manh cợt nhả thường ngày, toàn thân mặc thiết khải, ôm quyền nói: “Ngô vương phái ta mang thư tới”
Hắn móc hắc tiên* ra, Trầm Kích tiến lên một bước, A Đẩu nói: “Không sao” [*một thứ giấy khổ nhỏ mà vẽ màu đẹp dùng để viết thơ từ cho lịch sự, gọi là giấy hoa tiên, vì thế mới gọi thư từ là tiên]
A Đẩu cười nói: “Cam đại ca, trước khi mở phong thư này, chúng ta vẫn còn là bằng hữu, đúng không?”
Cam Ninh thở dài, hơi trầm ngâm, rồi gật gật đầu.
A Đẩu tiếp lấy bức thư kia, thuận tay đặt nó lên án, vui vẻ nói: “Nếu đã thế, bức thư này ta sẽ mở sau, ta tiễn Cam đại ca một đoạn, đang có lời muốn hỏi ngươi”
Hắn làm động tác “Thỉnh”, cùng Cam Ninh dắt tay nhau ra khỏi phủ đệ, quay đầu lại nói: “Tiện thể ta dẫn đại ca đi dạo trong thành luôn”
Chúng tướng đưa mắt nhìn hai người rời phủ, những chuyện được A Đẩu cải biến vào lúc nguy cấp có rất nhiều, nếu để Lưu Thiện dẫn Cam Ninh tới quân doanh, có lẽ lần này sẽ cải biến được gì đó không biết chừng.
Quan Phượng bóc bức thư kia ra, thoáng nhìn qua, sáu chữ xúc mục kinh tâm trên bức thư đập vào mắt: “Ngươi muốn chiến, thì tới chiến”
Trầm Kích vẫn một mực im lặng nãy giờ bỗng lên tiếng: “Triệu Tử Long, ta có mấy câu muốn nói với ngươi”
Triệu Vân đáp: “Vừa lúc, Tử Long cũng có vài lời muốn nói”
Quan Phượng kéo Tôn Lượng thức thời rời đi, trong sảnh chỉ còn lại Trầm Kích và Triệu Vân, im lặng đến độ châm rơi cũng có thể nghe thấy, chỉ nghe tiếng hô hấp của Trầm Kích dồn dập hơn một chút.
Lát sau, Trầm Kích hỏi: “Ngươi muốn về Liêu Đông?”
Triệu Vân không đáp, hơi khàn giọng nói: “Tào Phi đã đền tội, ván cuối cùng, coi như ngươi thắng đi”
Danh sách chương