NHẬT KÍ #2
DENDURON
(mat_biet99 và nhoclienxo type)
Ngày mai cậu Press sẽ chết.
Mark ơi, kể từ sau thư trước mình viết cho bạn, đã có quá nhiều chuyện xảy ra. Lạ kì có, sợ hãi có, xáo trộn có và đôi khi - mình có thể bảo - hài hước có. Nhưng chuyện sau cùng là: ngày mai cậu Press sẽ chết.
Ngay lúc này, mình đang ngồi trong một hang động nhỏ sâu dưới lòng đất chắc phải tới gần trăm mét. Mình đang viết dưới ánh sáng của một cây nến, vì làm gì có điện. Chung quanh mình toàn đá. Hàng tấn, hàng tấn đá đen ngòm ngòm cứ như sắp đổ ụp lên đầu bất cứ lúc nào. Thôi không nói chuyện đó nữa, mình chỉ tưởng tượng ra đó thôi. Cái hang này làm sao có thể sụp được. Mình rất an toàn tại đây, ít ra là lúc này. Người đang gặp hiểm nghèo chính là cậu Press.
Kể với bạn chuyện này, vì mình cần bạn giúp. Mình sắp nhờ bạn làm một việc khá nguy hiểm.Trường hợp bình thường mình không bao giờ yêu cầu bạn làm một việc như thế này, nhưng đây là điều duy nhất mình nghĩ là có thể giúp mình cứu được cậu Press. Mình rất thông cảm nếu bạn không muốn làm. Nhưng trước khi bạn quyết định, mình muốn nói cho bạn tất cả những gì đã xảy ra từ sau thư trước, khi biết tất cả rồi, tùy bạn quyết định.
Mình chấm dứt thư trước ngay sau khi cậu Press bị những hiệp sĩ của Kagan kéo đi và mình bị ngất .có bao giờ bạn bị ngất hay hôn mê chưa? Không giống như ngủ thiếp đi đâu.Khi ngủ thiếp đi, bạn không biết chính xác mình ngủ thế nào.nằm xuống, chờ đợi, và…đùng một cái, trời đã sáng. Nhưng khi bị ngất, bạn sẽ cảm thấy mình đang trôi đi. Cảm giác đó chẳng thú vị chút nào. Sau đó khi hồi tỉnh, cũng chẳng gì khá hơn.Không biết đang ở đâu, chuyện gì xảy ra, rồi tình lình nhìn chung quanh và trở về thực tế.
Tất nhiên, trong trường hợp này, ngay cả khi tỉnh lại mình cũng không biết là đang ở đâu và chuyện đang gì xảy ra. Điều đầu tiên mình nhìn thấy là một khuôn mặt. Mặt một cô gái. Trong giây lát mình tưởng đó là Courtney. Nhưng ngay khi bộ não bắt đầu hoạt động, mình nhận ra cô ta không giống Courtney.Cô ta rất đẹp. (Chu choa, nghe có vẻ tệ quá nhỉ.Không phải Courtney không “rất đẹp”, nhưng cô gái này hoàn toàn, nói thế nào nhỉ). Khoảng tuổi mình,có khi lớn hơn một chút. Da cô ta đen,mắt quá nâu nên trông cũng đen.Tóc cô ấy cũng đen và thắt bím dài tới lưng.Bộ áo quần cô ta mặc giống như bộ đồ bằng da kì cục mà cậu Press đã bắt mình tròng lên người.Nhưng với cô, mình cảm thấy rất đẹp,vì cô ta có một thân hình tuyệt vời. Hẳn cô ta phải làm một động viên gì gì đó. Thật mà, cô gái này có thân hình như một vận động viên điền kinh Olympic. Không chút mỡ, toàn cơ bắp, dể nễ lắm.Nếu mình gặp cô ấy tại quê nhà, mình sẽ đoán cô ta gốc châu Phi.Nhưng đây đâu phải quê nhà.
Mình nằm căng thẳng trong khi cô ta hoàn toàn tỉnh bơ nhìn xuống mình lom khom. Không thể biết cô ta mừng vì mình còn sống, hay sắp sửa kết thúc phần việc của lũ quig: giết mình chết đứ đừ tại chỗ. Tình hình cứ thế kéo dài mấy giây, chẳng ai nhúc nhích. Sau cùng mình nuốt nước bọt để biết chắc cổ họng đã thông, rồi khào khào nói:
-Tôi đang ở đâu? Câu hỏi chẳng có gì mới mẻ cả nhưng kệ, mình vẫn muốn biết.
Cô gái không trả lời. Cô ta đứng dậy tới bên cái bàn có mấy cái bát gỗ, lấy một bát đưa cho mình, nhưng mình không cầm. Biết là cái gì mà dám uống. Có thể là máu hay thuốc độc lắm chứ. Cũng có thể là một chất lỏng ở đây họ cho là ngon lành, nhưng làm mình ói mửa thì sao? Cô ta gằn giọng:
-Nước đó.
Ồ!
Mình đón bát nước. Đang khát mà. Cô gái lại bên cửa, đứng khoanh tay. Mình uống một ngụm nước rồi nhìn quanh. Mình đang ở trong một nơi giống như cái chòi nhỏ hẹp, có lẽ chỉ bằng phòng khách nhà mình. Một phòng độc nhất với sáu bức tường. Hình lục giác, phải không? Các bức tường xây bằng đá và bùn khô. Mấy lỗ hổng là cửa sổ, một lỗ hổng lớn là cửa ra vào. Mái trần vút lên thành một hình chóp nhọn, làm bằng cành cây đan vào nhau. Sàn bằng đất, nhưng rắn chắc như bê tông. Mình đang nằm trên một cái gì đó kiểu như ghế dài thấp làm bằng những khúc gỗ ghép lại, trên phủ một tấm dệt bằng rơm hay một giống cỏ nào đó. Khá thoải mái, nhưng mình không muốn nằm đây suốt đêm. Trong lều còn nhiều giường khác kê thành hàng. Mình nghĩ chắc nơi này là một bệnh viện. Có lý lắm chứ. Sau những gì mới trải qua, mình được đưa tới bệnh viện.
Giống như mình bước vào cỗ máy thời gian và được đưa ngược về mấy ngàn năm trước, tới một thời đại mà con người xây dựng thế giới bằng bất cứ thứ gì kiếm được và… không quan tâm lắm đến vấn đề vệ sinh cá nhân. A, phải rồi, mình đã kể cho bạn về cái mùi khủng khiếp như chuồng nuôi dê của chỗ này chưa? Nó làm mình thắc mắc không biết vữa xây những bức tường đá kia thật sự là bùn, hay một thứ ghê tởm nào khác sẽ làm mình phát oẹ nếu biết rõ?
Nhìn cô gái kỳ lạ đang đứng khoanh tay trừng trừng nhìn đáp lại, mình tự hỏi: Cô là bạn? Là kẻ thù? Hay cai ngục đứng gác cho đến khi đám hiệp sĩ áo đen trở lại kéo xềnh xệch mình đi như đã làm với cậu Press? Đầu óc mình ngổn ngang đủ thứ, nhưng một thứ nổi cộm nhất.
Mình mắc tè.
Lần cuối mình đi tiểu là trước khi Courtney xuất hiện ở nhà mình. Đó là khi nào? Một triệu năm trước? Bụng mình căng cứng thế này, chắc phải lâu lắm rồi. Không thể nằm đó mà tè dầm được, mình chớm ngồi dậy và nói:
- Này, tôi…
Ngay khi mình cử động, cô gái kia liền bay tới như định tấn công. Cô ta khom mình, rút cây sào gỗ buộc sau lưng dài gần hai mét và đầy vết trầy như đá được dung nhiều lần… Cô nắm chặt vũ khí bằng cả hai tay. Mình thấy hai đầu sào đen bóng vì đã đâm vào những thứ mình không dám tưởng tượng thêm.Nhưng đôi mắt cô ta thì dễ sợ hơn. Hai mắt như đứng tròng, tập trung vào mục tiêu. Mục tiêu đó là… mình.
Mình lạnh toát cả người. Nếu mình đứng dậy, cô ta sẽ nện cho mình một hèo, chân chưa chạm đất, đầu đã bổ nhào rồi. Mình không muốn nhúc nhích chút nào vì sợ sẽ chọc giận cô ta. Cả hai cứ giữ nguyên trạng thái đó, chờ cho đối phương hành động trước. Chắc chắn người hành động trước sẽ… không phải là mình. Và, nếu cô ta chỉ cần tiến một bước về phía mình, mình sẽ vọt khỏi giường, đầu phóng ngay ra ngoài cửa sổ.
Lúc đó có tiếng gọi từ bên ngoài:
-Buzz obsess woos saga!
Ít ra là nghe giống vậy đó. Mình không bảo đảm đánh vần chuẩn xác đâu. Có người bước vào lều. Đó là một người đàn bà trong bộ đồ đúng điệu thời trang tại đây: toàn da thú cứng nhắc! Trông bà ta y chang bản sao già hơn của cô gái suýt phang cây lên sọ mình. Tuy vóc dáng rất mạnh mẽ, nhưng bà ta toát lên một vẻ làm mình cảm thấy đây có thể là cứu tinh của mình. Có lẽ vì đôi mắt của bà. Khi bà ta nhìn mình, mình cảm thấy mọi chuyện sẽ ổn. Trông bà ta quen quen, nhưng mình không nghĩ ra đã gặp bà ta ở đâu. Bà nghiêm nghị nhìn cô gái, cô ta miễn cưỡng buông vũ khí. Ôi! Đại họa qua rồi.
Người đàn bà quay lại nói với mình:
-Tha lỗi cho con gái ta, nó luôn tỏ ra quá nghiêm trọng.
Tin mới. Đây là một cặp mẹ con.
Đáng lẽ mình không nên ngạc nhiên, vì họ giống hệt nhau. Chẳng biết ông bố trông ra sao? Chắc phải là một hậu vệ dũng mãnh. Mình vẫn không thấy an tâm khi nhúc nhích.Người đàn bà này có vẻ tử tế, nhưng sau những gì đã trải qua, mình vẫn không dám tin là mọi chuyện sẽ thuận lợi.
Bà ta lại bên giường, quỳ xuống nở một nụ cười hiền lành với mình và dịu dàng nói:
-Ta tên là Osa. Con gái ta tên Loor.
-Cháu… cháu là Bobby. Cháu… cháu không phải người ở đây.
Mình chỉ biết nói có nhiêu đó. Bà Osa mỉm cười, nói:
-Mẹ con ta cũng vậy.Và chúng ta biết chính xác cháu là ai, Pendragon. Chúng ta đang chờ cháu.
Oa! Bà ta biết mình là ai! Đầu óc mình rối tung, nhưng một thắc mắc đặt biệt chợt lóe lên: nếu họ biết mình là ai, sao cô nàng chiến binh rừng xanh kia lại định phang vỡ sọ mình? Tốt hơn là đừng hỏi. Chọc vào Loor, chắc cô ta lại sẵn sàng giơ cao cây gậy lên ngay. Mình chỉ hỏi:
-Sao bà lai biết cháu?
-Từ Press, dĩ nhiên rồi. Ông ấy kể nhiều chuyện về cháu.
Đúng rồi, mình nhớ đã gặp bà ta tại đâu rồi. Cậu Press đã đưa bà ta tới nhà mình một lần. Mình nhớ đã nghĩ bà ta đẹp làm sao và lấy làm lạ vì bà ta đã im thin thít thế nào. Bí ẩn đã sang tỏ: bà ta là bạn cậu Press. Điều này làm mình chợt nhớ tới ông. Ôi trời, mình suýt quên: lúc này ông mới là người đang thật sự nguy khốn. Những hiệp sĩ đã quăng thòng lọng, kéo cậu Press đi chẳng có vẻ gì là đồng đội của ông hết. Xương sống lạnh buốt, mình ngồi bật dậy, la lên:
-Cậu ấy đang gặp nguy hiểm!
Một hành động tệ hại! Không vì tiếng gào, mà vì ngồi dậy quá đột ngột. Thân hình mình bầm dập thâm tím do cú va chạm xe trượt trong rừng. Mình đau đớn như vừa bị cây gậy của Loor đập cho nhừ tử. Không hiểu sao trước đó mình đã không nhận ra cơn đau khủng khiếp này. Cảm giác như xương sườn gãy ráo. Đau dữ dội đến không thở nổi. Hai chân rã rời, mình phải nằm lại xuống, nếu không mình có thể sẽ bị ngất đi. Bà Osa vội vàng ôm mình và nhẹ nhàng đặt mình nằm xuống. Giong dỗ dành, bà nói:
-Không sao đâu, sẽ hết ngay thôi mà.
Sao bà biết? Trừ khi bà ta biết mình sắp chết. Chỉ cái chết cấp kì mới làm mình hết đau ngay. Nhưng điều xảy ra sau đó mới đáng kinh ngạc. Mình nằm đó, thở nhè nhẹ, vì thở mạnh làm mình càng đau đớn hơn. Bà Osa dịu dàng đặt bàn tay lên ngực mình. Bà ta nhìn sâu vào mắt mình, thế rồi - Mark, mình thề không nói láo đâu, toàn thân mình dường như tan loãng ra. Sự căng thẳng, sợ hãi hoàn toàn biến mất. Bà nói nhỏ:
-Nghỉ ngơi đi. Hãy thở nhẹ nhàng thôi.
Mình làm theo. Tim mình không còn đập thình thình nữa và mình đã có thể thở sâu trở lại. Nhưng điều lạ lùng nhất là cơn đau nhức cũng biến luôn. Mới một giây trước, mình đau đến mức ngay cả kêu rên cũng không nổi. Bây giờ hoàn toàn chẳng đau đớn gì.
Bà Osa lấy tay ra khỏi ngực mình, rồi ngửng nhìn phản ứng của Loor. Loor quay đi. Chuyện này không gây ấn tượng gì cho cô ta, nhưng mình thì có. Chắc đây là phép lạ. Ngồi dậy rờ nắn xương sườn, mình hỏi:
-Sao bà làm được vậy?
-Làm gì?
Bà thản nhiên hỏi, mình la lên:
-Bà đùa sao? Xương sườn cháu đau tưởng chết đi đươc, bà chạm tay vào, hấp, không còn đau đớn gì nữa.
Bà Osa đứng dậy, đáp:
-Có lẽ cháu không quá đau như cháu tưởng đâu.
-Tưởng à? Cháu biết đau là gì chứ, nhất là cái đau của chính mình.
Lúc đó Loor mới lên tiếng, giọng cô ta đầy vẻ khó chịu:
-Mất thì giờ quá. Press đang bị Kagan giam giữ đó.
Mình không ưa thái độ đó của cô ta. Nhưng cô ta có lí. Mình hỏi:
-Kagan là ai?
Bà Osa bảo:
-Còn rất nhiều điều cháu cần phải học hỏi. Press đã bắt đầu dạy cháu, nhưng cho đến khi ông ấy trở lại, công việc đó sẽ thuộc về ta. Theo ta.
Bà bước lại lỗ hổng trên tường (tức là cái cửa), đứng bên con gái. Hai mẹ con nhìn mình, dấu hiệu bảo mình đi theo. Mình đứng dậy, sẵn sàng chờ đợi mấy cái xương sườn đau lại. Nhưng không có gì. Ngạc nhiên chưa? Mình nhìn Loor xem cô ta có định tấn công nữa không. Cũng không có gì. Tình hình mỗi lúc mỗi khả quan hơn.Mình hỏi:
-Liệu chúng ta có tìm được cậu Press không?
Bà Osa trả lời:
-Chúng ta sẽ làm việc đó. Nhưng trước hết cháu cần phải tìm hiểu về Denduron đã.
Denrudon. Đúng. Mình đang ở Denrudon. Cho đến lúc này chẳng có gì mình có thể ưa tại Denrudon, và mình không thể tưởng tượng có bất kì thứ gì khác nữa có thể làm mình ưa nổi nơi này. Nhưng đâu có quyền chọn lựa, mình đành đi theo họ. Nhưng mới được hai bước, mình nhớ ra một điều, rất quan trọng:
-À…ừ…cháu có thể đi đâu..để…nghĩa là cháu…cần…
-Trút bầu tâm sự trong kia kìa.
Loor lạnh lùng nói, tay chỉ vào góc phòng nhỏ, ngăn bằng một vách gỗ.
-Tuyệt vời. Cám ơn.
Chạy vội vào sau tấm vách, nhìn quanh, mình đã học được hai điều. Một là, những người này không có phòng vệ sinh trong nhà. Tất cả chỉ là một cái hố, được bao quanh bằng mấy cục đá. Hai là, bí mật về cái mùi khó ngửi ở đây đã được giải đáp. Mình nghĩ những người ở đâu không hề biết rằng, “đi ngoài” kiểu này là phải có một chỗ nằm “ngoài” ngôi nhà. Trời đất! Mùi hôi thối cứ như có một con voi bị tiêu chảy vừa ra khỏi đây. Nhưng đây đâu phải nhà mình, mà mình thì muốn tè ra quần rồi. Vậy là mình phải nín thở và mất năm phút mới cởi được bộ đồ da mắc dịch. Chắc chắn người ở đây chưa phát minh ra dây kéo. Lúc đó mình mới phát hiện ra lớp quần áo lót lông thú mình mặc bên trong không còn nữa. Chắc khi mình hôn mê đã có kẻ lột mất rồi. Cũng may, vì nếu phải cởi thêm lớp quần áo nữa, bảo đảm mình đã tè dầm.
Xong xuôi, mình vội chạy xuyên qua căn liều đá, đuổi theo họ. Không biết mình sẽ thấy gì bên ngoài lều đá này, nhưng dù là gì thì chắc cũng là một ngạc nhiên. Vừa bước ra ngoài, mình đứng phắt lại, nín thở. Mình vừa bước vào một thế giới khác. Một thế giới không giống tý nào với những gì mình đã thấy trước đây. Lều đá mình vừa bước ra nằm giữa một ngôi làng toàn lều đá. Những căn lều đều giống nhau, với tường đá, mái bằng cành cây và rơm. Không có chút trang trí nào để có thể phân biệt lều này với lều khác. Vài lều có khói cuộn lên từ những ống khói bằng đá, chứng tỏ trong nhà đang nấu ăn hay đốt lửa sưởi ấm. Đường cái và lối đi ngoằn ngoèo nhỏ hẹp giữa những ngôi lều thì dơ dáy và lồi lõm. Chẳng sao hết! Ở đây làm gì có ô tô hay những phương tiện giao thông cơ khí. Tất cả những ngôi lều được dựng quanh một bãi cỏ lớn giống như một quãng trường thị trấn, chính giữa bãi cỏ có một khán đài hình tròn, đường kính chừng ba mét. Chân khán đài được xây bằng đá giống như những ngôi lều, mặt sàn khán đài làm bằng những khúc gỗ kết vào nhau. Cách sắp đặt làm mình nhớ đến những thị trấn có một khu hòa nhạc và biểu diễn giữa công viên. Nhưng khán đài thị trống trơn: Hôm nay không có buổi biểu diễn nào.
Ngôi làng nhộn nhịp với những con người đang làm những công việc như bất kì ai sống trong một ngôi làng như thế này. Họ hối hả đi lại, có người xách giỏ đồ ăn, người khác lùa bầy dê… Họ đều mặc áo quần bằng những da thú như mình đang mặc, vậy nên dù mình cảm thấy lạc lõng, nhưng có lẽ trông mình không có vẻ xa lạ. Người có vẻ xa lạ chính là bà Osa và Loor. Như mình đã tả hai mẹ con bà ta: cao lớn, da đen và trông như vận động viên điền kinh. Tại làng này không có người da màu. Suốt đời mình chưa thất ai trắng nhợt như người làng Denduron. Cứ như cả đời họ không bao giờ nhìn thấy ánh nắng. Điều kì lạ là lúc đó mình thấy ba mặt trời trên đỉnh núi mà trời vẫn u ám. Nhưng mặt trời ở đây không làm da người ta rám nắng sao? Hay trời ở đây luôn âm u như ở Seattle? (Seattle: thành phố lớn nhất của bang Washington (Mỹ) nổi tiếng với tên gọi “Thành phố mưa” (Rainy City) vì ở đây hầu như trời mưa quanh năm. Thậm chí nếu không mưa thì trời lúc nào trông cũng âm u như sắp mưa). Dù với lí do nào thì rõ ràng đúng như bà Osa đã nói, mẹ con bà không phải là người Denduron.
Ngôi làng tách ra từ một khu rừng. Nhìn hướng này, qua khỏi những căn lều, là cánh đồng mênh mông, nhiều người đang cày cấy. Nhìn hướng ngược lại, là rặng núi mà mình và cậu Press đã chạy trốn bây quig bằng xe trượt. Các hướng khác chẳng có gì ngoài rừng. Không cần phải là một nhà nhân chủng học, chỉ cần nhìn thoáng ngôi làng, mình nghĩ ngay tới những cuốn phim và sách về châu Âu thời trung cổ, chỉ thiếu mấy lâu đài đồ sộ hiên ra.
Mẹ con bà Osa để mình đứng tại đó một lúc để ghi nhớ cảnh chung quanh. Khi mình định bước tới nhập bọn với mẹ con họ, thì thình lình bị kéo quay ngược về sau:
-Ogga ta vaan burr sa!
Đó là một gã nhỏ con, tóc dài bù rối, một mắt bịt kín bằng một miếng da và một cái cười khoe hàm răng rụng gần hết. Mỗi ngón tay là một cái nhẫn khác nhau, trong như được tết bằng dây. Mười ngón mười nhẫn. Gã nhỏ con dơ dáy này hẳn là rất khoái đồ trang sức.Mình chẳng hiểu hắn muốn nói gì, cho đến khi hắn dí một vật đầy lông vào mình. Mình nhảy lùi lại, nhưng nhận ra đó chỉ là một cái áo len, giống như một chiếc áo khoác.
-Ogga ta vaan.
Hắn lại cười nói và đưa cho mình cái áo. Mình thấy hắn vô hại và muốn nhận cái áo. Có lẽ là một phong tục chào mừng của địa phương. Trời lạnh như cắt, cái áo da mình đang mặc chẳng thấm tháp gì. Vì vậy mình mỉm cười vui vẻ đưa tay ra… Nhưng chưa kịp cầm, gã nhỏ con giật tay lại, xòe tay kia ra, vẽ vẽ mấy ngón tay. Phải, hắn đang làm một dấu hiệu toàn cầu: “Tiền trao cháo múc”. Gã nhỏ con kì cục này muốn bán cái áo.
Bà Osa chen vào, đứng giữa mình và hắn:
-Figgis, để anh ta yên.
-Mab abba kan forbay.
Hắn ta hồn nhiên nói. Ít ra là mình nghĩ hắn hồn nhiên, vì ngôn ngữ của hắn mình đâu hiểu gì. Bà Osa nhìn hắn, nói:
-Anh ta mới đến đây, đi chỗ khác bán hàng của mi đi .
Thì ra hắn là một tay buôn bán. Thất vọng ra mặt, gã nhỏ con bước đi, nhưng vẫn cố quay lại với nụ cười láu cá, răng cỏ cái mất cái còn .Gã móc từ trong áo ra quả táo đỏ bóng lưỡng, cố dụ dỗ mình. Bà Osa ra lệnh:
-Xéo.
Figgis càu nhàu mấy câu rồi chạy đi. Osa nói:
-Nếu có thể, Figgis bán cả hơi thở của nó. Người ta bảo, nó phải che mắt vì đã bán một con mắt cho người mù.
Trời. Thật là một hình ảnh kinh tởm. Mình hỏi:
-Osa, bà từ trái đất đến, đúng không?
Bà cười ha hả, nhìn Loor để cùng chia sẻ điều khôi hài mà mình không hiểu nổi. Loor không hề cười đáp lại. Lạ lùng không? Bà Osa hỏi:
-Vì sao cháu lại nghĩ vậy?
-Bà biết tiếng Anh.
-Cháu lầm rồi, Pendragon. Ta không biết một câu tiếng Anh nào. Đi thôi.
Bà ta bỏ mình đứng ngẩn ngơ, cùng Loor bước đi tiếp.
Cái gì kì vây? Mình có thể lầm, nhưng rõ ràng chúng mình đang nói tiếng Anh với nhau mà. Ngoài vài giờ học tiếng Tây Ban Nha, mình chỉ biết tiếng Anh. Bó tay. Cứ mỗi khi tưởng đã nắm bắt được một sự việc, đùng một cái, mình lại bị chới với. Đành phải làm quen với tình trạng này thôi.
Mình chạy vội cho kịp hai mẹ con đang sải bước những bước dài về phía trước và để đảm sao cho bà Osa đi giữa mình và Loor. Mình mến bà Osa, nhưng không tin tưởng cô con gái. Mắt cô ta cứ như luôn ném cho mình câu nói: “Có mi chỉ thêm chật đất”. Đôi mắt lạnh tanh khủng khiếp. Tốt nhất là tránh xa cô ta ra. Mình bảo với bà Osa:
-Cháu vẫn không hiểu. Bà nói tiếng Anh, sao lại bảo không biết tiếng Anh?
-Ta không nói tiếng Anh. Chỉ có cháu nói tiếng Anh. Ta nói ngôn ngữ Zadaa của lãnh địa quê ta.
-Cháu thấy giống tiếng Anh.
-Tất nhiên, vì cháu là một Lữ khách.
Càng nghe càng thêm rối.
-Vậy là, bà nói Lữ khách hiểu tất cả mọi ngôn ngữ?
Câu hỏi hợp lí, đúng không? Nhưng câu trả lời của bà ta chẳng hợp lí tí ti nào:
-Không. Lữ khách nghe tất cả các ngôn ngữ như chính tiếng mẹ đẻ của họ. Khi họ nói, dù họ nói bằng ngôn ngữ nào, những người khác đều có thể hiểu.
Tuyệt! Nếu đúng là vậy, mình sẽ vọt cao hạng C trong môn tiếng Tây Ban Nha. Tuy nhiên vẫn còn có một diều chưa ổn.
-Nhưng… sao cháu nghe gã bán hàng Figgis chỉ toàn… xì xà xì xồ?
Thình lình Loor nhảy phóc tới trước mặt. Mình phải “thắng gấp” lại nếu không sẽ bước thẳng vào mặt cô ta mất. Vậy thì đau lắm. Cô ta nạt nộ, giọng thách thức:
-Là vì có lẽ mi không phải là một Lữ khách.
A! Mọi chuyện được sáng tỏ. Cô ta không tin mình là… mình. Đó là lí do cô ta luôn hậm hực, kiếm chuyện với mình. Không sao, vì chính mình chẳng biết thật sự mình… phải là ai, nên đâu thể nói gì để thuyết phục cô ta rằng mình là mình, hay mình chính là cái người mà người đó là… mình, hay… Mark, cậu hiểu ý mình chứ?
Một lần nữa bà Osa lại giải cứu mình:
-Lí do cháu không hiểu Figgis nói gì là vì cháu chưa học được cách nghe. Cháu hiểu chúng ta, Vì chúng ta cũng là một Lữ khách.Nhưng Figgis thì không. Cháu phải học nghe, mà không cố lắng nghe.
Là sao? Nghe mà không lắng nghe? Hiểu chết liền!
Loor sôi nổi nói với mẹ:
-Làm sao hắn ta có thể là mọt Lữ khách được chứ? Chỉ là một đứa trẻ mềm yếu, nhút nhát. Hắn sẽ chẳng làm nên trò trống gì, chỉ gây thêm tai họa.
Chảnh dễ sợ chưa? Nhưng chẳng may là cô ta nói rất đúng. Mình vừa mềm yếu vừa nhát như thỏ đế. Có lẽ mình chẳng là Lữ khách lữ khiếc gì ráo. Nói thật, nếu biết rõ mình không là Lữ khách mình sẽ mừng hết lớn luôn, cho dù có đứng hạng bét trong lớp Tây Ban Nha cũng được. Mình khấp khởi hi vọng tất cả vụ này chỉ là lầm lẫn, và họ sẽ tống mình về nhà.
Bà Osa nhìn mình bằng đôi mắt đen đầy hiểu biết, Nhưng lại nói với Loor:
-Không đâu, Pendragon chính là một lữ khách. Nhưng nó còn nhiều điều phải học.
Quay lại con gái, bà tiếp:
-Và… hình như con quên là… chính con cũng là một đứa trẻ?
Loor giận dỗi ra mặt. mình có cảm giác cô nàng không thích bị chỉ trích. Bà Osa nói với mình:
-Rồi cháu sẽ thấy, không phải lúc nào nó cũng giận dỗi vậy đâu.
-Ồ, không sao. Miễn là cô ấy đừng nổi sùng với cháu.
Bà Osa tủm tỉm cười tiếp tục bước đi. Mình đi sát bên nghe bà kể về Denduron:
-Những người sống trong làng này thuộc bộ lạc Milago. Cháu thấy đó, họ sống rất đạm bạc. Họ tự trồng cấy tất cả lương thực và sống êm dềm với những bộ lạc khác tại Denduron.
Milago. Cậu Press đã nói đến từ này trước khi những gã hiệp sĩ kia xuất hiện. Cậu bảo họ sẽ tìm để giúp, vì vậy mình đoán đây là những người tốt.
-Những tên trông giống như hiệp sĩ đã tấn công cậu Press có phải là Milago không?
-Không, đó là điều ta muốn nói cho cháu biết.
Theo con đường mòn trong rừng chừng một phần tư dặm, hai mẹ con bà Osa và mình ra khỏi rừng, tiến vào một mảng trống. Và một lần nữa mình lại bị sửng sờ vì cảnh hiện ra trước mắt. Mark, có nhớ là mình đã bảo ngôi làng trang cổ này chỉ duy nhất thiếu một điều là một lâu đài vươn cao khỏi nó? A, hóa ra có một lâu đài cổ, to lớn, nhưng không hề vươn cao khỏi ngôi làng.
Đây là những gì mình thấy: khi ra khỏi đường mòn, bọn mình tới một cánh đồng cỏ rộng lớn và tiếp tục băng qua hết đồng cỏ, cho tới khi gặp một dốc đứng. Dưới dốc là nước. Đúng vậy. Bọn mình đang ở trên bờ một đại dương mênh mông, xanh ngắt như Đại Tây Dương. Bên phải mình là biển, và mình nhìn xuống: bờ biển gồ ghề, lởm chởm với những dốc đá dựng đứng.Mình nhận ra bờ dốc bọn mình đang đứng thật sự là một bờ vịnh. Tít bên dưới, sóng biển thi nhau vỗ vào vách đá. Nơi mình đứng quá cao so với mặt nước, nên khi nhìn xuống sâu nữa, hai tay mình đầm đìa mồ hôi. Mình vốn không chịu nổi độ cao mà. Mình ngước lên nhìn dốc đứng cuối vịnh và thấy đất trên đỉnh phủ cỏ xanh tươi, phất phơ trong gió biển. Rồi điều mình thấy phía dưới đỉnh dốc phủ cỏ đó làm mình nín thở.
Ngay trên bề mặt của vực là một thành lũy đồ sộ, trông như được đẻo ra từ núi đá. Mình có thể thấy nhiều lớp hành lang bằng đá và những hiệp sĩ, giống những gã đã tấn công cậu Press, đang trực gác. Chúng đi tới đi lui với cây giáo “chết người” trên vai. Mình không biết rõ chúng đề phòng gì. Chắc là đám ngư tặc.
Mình đếm được năm lớp hành lang. Như vậy thành lũy này lớn đấy chứ. Hình như đoán được thắc mắc của mình, bà Osa lên tiếng:
-Cháu chỉ mới thấy bên ngoài thành thôi. Thành này được xây sâu vào lòng dốc đá. Trong đó có cả một ngôi làng.
Những gì mình thấy cho tới lúc này là người ở đây không hề có công cụ xây dựng nặng, như vậy là thành lũy này chắc chắn đã được đẽo, đục bằng tay. Với những công cụ thô sơ, phải cần mấy thế kỷ mới có thể dựng được một lâu đài đồ sộ như thế. Bà Osa tiếp:
-Tại đây luôn có hai bộ lạc. Milago làm ruộng. Trách nhiệm của Bedoowan là quân sự và cai trị. Trước kia đã xảy ra một cuộc chiến giữa nhiều bộ lạc tại Denduron. Bedoowan bảo vệ cho Milago khỏi bị cướp bóc. Đáp lại, Milago cung cấp lương thực cho họ. Hai bộ lạc lệ thuộc vào nhau, sống hòa hợp trong mấy thế kỉ. Nhưng Bedoowan rất hùng mạnh, và sức mạnh có thể dẫn đến kiêu căng. Họ không cho phép người Milago lấy người Bedoowan, thậm chí không được cả kết bạn với nhau. Tình trạng kéo dài như vậy, dẫn đến người Bedoowan bắt đầu coi người Milago như nô lệ của họ.
-Nhưng họ vẫn bảo vệ người Milago?
-Nhiều năm rồi, không có cuộc xâm lược nào. Sự cần thiết được bảo vệ không tồn tại nữa.
-Vậy, người Milago vẫn cứ quần quật đủ việc, còn người Bedoowan … Làm gì?
-Đó là một câu hỏi rất hay. Bedoowan được cai trị bỏi một hoàng gia, với thể chế ngai vàng được truyền cho người con cả. Đã có lần, một quân vương Bedoowan muốn phá vỡ rào cản giữa hai bộ lạc, và cho phép việc hai bộ lạc sáp nhập làm một. Nhưng vị vua này qua đời và người con cả lên ngôi. Nhiều người tin rằng vua cha đã bị những kẻ không muốn mất địa vị tối thượng của Bedoowan ám sát.
-Để cháu đoán thử. Vị vua mới không muốn dẹp bỏ chế độ nô lệ và vẫn muốn tách biệt hai bộ lạc?
-Đúng vậy. Thậm chí người Milago khiếp sợ tới nỗi không dám nói tới cái tên… Kagan.
Lại là cái tên đó. Mình dần dần bắt đầu hiểu ra sự việc, nhưng chẳng thích thú điều đó chút nào. Mình nói tiếp:
-Những hiệp sĩ tấn công cậu Press đã tưởng cậu ấy là gián điệp do thám Kagan. Nhưng cậu Press giả bộ như là một thợ mỏ. Ở đây có mỏ sao?
Bà Osa buông một tiếng thở dài buồn rầu:
-Phải. Đó là phần tệ hại nhất trong chuyện này.
Sự việc trở nên tệ hại hơn, hay ghê chưa! Mình rất muốn được nghe. Nhưng ngay lúc đó có tiếng trống dồn dập vọng tới từ hướng làng Milago.
Loor chạy lên, hổn hển nói:
-Chuyển giao rồi. Mau.
Bà Osa nhìn mình lo lắng:
-Hãy ở sát bên ta, đừng để chúng nhìn thấy.
Nói xong, bà ta chạy theo Loor. Mình đã kể rồi mà, hai mẹ con họ là vận động viên. Nhưng họ chạy nhanh cỡ nào mình cũng ráng rượt theo, bám sát bà Osa trên con đường mòn trở lại làng Milago. May mắn là chỉ không tới nửa dặm, nếu không chắc mình ná thở luôn.
Tới làng, mình thấy mọi người đang đổ dồn về khu trung tâm với khán đài lớn ngay chính giữa. Chắc sắp có màn biểu diễn. Từ cánh đồng đổ về, từ trong lều ùa ra, mọi người bỏ hết công việc đang làm, tụ tập quanh khán đài.
Mình háo hức định hòa vào đám đông, bà Osa bỗng nắm tay, kéo mình ra hướng khác. Ba người leo lên một mái chòi đá. Tại đây, nhìn xuống cuộc biểu diễn rất rõ. Osa cảnh giác:
-Không được để chúng thấy. Chúng ta không dự phần trong vụ này.
Dù là chuyện gì cũng không quan trọng, bọn mình có được điểm ngắm lý tưởng rồi. Vì vậy mình yên tâm chờ đợi và tự hỏi không biết họ trình diễn gì. Chắc là âm nhạc Milago hoặc mấy màn trình diễn kiểu như của học sinh.
Nhìn xuống, mình thấy dân làng Milago tập hợp thành một vòng tròn rộng lớn quanh khán đài trung tâm. Khán đài cũng không còn trống trơn nữa, mà trên đó có một dụng cụ thô kệch, trông như cái cầu bập bênh. Một đầu có một cái ghế, đầu kia là một giỏ cần-xế lớn. Đứng trên khán đài, gần dụng cụ giống cái bập bênh đó, là một hiệp sĩ của Kagan đang gõ trống.
Mình hy vọng gã này đánh trống để kêu gọi dân làng thôi, vì nếu cả buổi trình diễn chỉ có mỗi màn này thì chán chết. Tiếng trống thùng thùng vang dội khắp ngôi làng, nhịp trống loạn xà ngầu. Đứng kế bên khán đài còn có sáu tay hiệp sĩ nữa. Chúng đứng nghiêm, mỗi tên chống trước mặt thanh giáo gớm ghiếc. Dân làng Milago giữ một khoảng cách xa với chúng. Mình cũng sẽ làm vậy thôi. Trông chúng chẳng có chút thân thiện nào.
Mình chợt nhận ra, không người dân làng nào tỏ vẻ đang đón chờ thời khắc giải trí thoải mái. Không khí không chút phấn khởi trước một sự kiện vui vẻ. Không một tiếng cười nói, chuyện trò, đùa giỡn. Ngoài tiếng trống, tất cả đều câm lặng. Trên khuôn mặt những con người này, chỉ có ánh nhìn sợ hãi.
Bà Osa bỗng vỗ vai mình, rồi chỉ về cuối bãi đất trống. Mình thấy bốn dân làng Milago đang chậm chạp tiến tới đám đông. Họ đều là đàn ông, đất cát lấm lem từ đầu tới ngón chân. Chẳng dân làng Milago nào có thân hình cân đối đẹp đẽ lắm đâu, nhưng quả thật bốn người này khá là xương xẩu. Đất đen đúng là đối chọi với màu da trắng như thạch cao của họ. Họ khệ nệ vác một cái giỏ lớn, chất đầy đá đủ kích cỡ. Có những hòn lớn như trái banh bowling, có hòn nhỏ hơn. Nhưng điều đặc biệt là chúng đều màu xanh lơ. Ý mình là sáng long lanh như ngọc vậy. Chưa bao giờ mình thấy một thứ đá lạ lùng như thế.
Bà Osa thì thầm:
-Đá này được gọi là “minh thạch”, một thứ đá sáng bóng. Khắp vùng này đều có mỏ loại đá quí đó. Dân Milago khai thác mỏ cả ngày lẫn đêm.
-Chắc nó có giá trị lắm.
-Rất có giá trị. Minh thạch là nguyên nhân trước hết vì sao Kagan muốn kiểm soát Milago. Nhờ minh thạch mà Bedoowan trở nên giàu có. Họ buôn bán với tất cả con buôn tại Denduron. Chừng nào Milago còn khai thác được những mỏ minh thạch, Kagan vẫn còn là một chúa tể hùng mạnh.
Như vậy, Kagan và bộ lạc Bedoowan không chỉ là những con bò lười biếng, chúng còn là những con bò tham tàn, ép buộc bộ lạc Milago làm thay cho chúng những công việc cực nhọc, bẩn thỉu. Hơi bị khôn. Mình vừa định hỏi thêm, nhưng tiếng trống bỗng ngưng bặt và một sự im lặng đầy vẻ đe dọa trùm phủ khắp làng.
Bốn người thợ mỏ khệ nệ vác bốn giỏ minh thạch lên khán đài, rồi thận trọng đặt xuống. Không khí chứng tỏ buổi lễ sắp bắt đầu. Buổi “Chuyển giao” như lời Loor nói.
Đúng lúc đó mình nghe tiếng vó ngựa. Có người đang phóng nhanh tới từ hướng con đường mòn xuyên rừng mà mẹ con bà Osa và mình mới từ đó đi ra biển. Điều lạ lùng là không một ai quay lại nhìn, ngoại trừ mình.
Khi con ngựa phóng từ trong rừng ra, mình thấy gã kỵ sĩ có vẻ rất tự tin, như biết trước việc phải làm. Đó là một gã cao lớn, tóc đen dài, mặc bộ giáp da giống như của mấy gã hiệp sĩ, nhưng có vẻ hiếm khi lâm trận. Giáp của mấy gã kia nhàu nát, còn giáp của tay kỵ sĩ này sạch bong, thẳng thớm. Khi hắn cho ngựa phi nước kiệu về phía đám đông dân làng, họ dạt sang hai bên, nhường lối cho hắn tiến tới khán đài. Mình nghĩ, nếu dân làng đứng yên, gã này dám phóng ngựa xới tung mọi người lên lắm. Chưa gì mình đã thấy ghét thằng cha này. Mình thì thầm hỏi:
-Có phải Kagan đó không?
Mẹ con bà Osa trao đổi cái nhìn đầy ẩn ý, như có điều gì đang xảy ra mà họ không muốn cho mình biết. Mình không thích lối nhìn nhau của hai mẹ con họ chút nào. Nhưng bà ta cũng trả lời mình:
-Đó là Mallos, quân sư của Kagan.
Mallos, Kagan, Osa, Loor, Figgis… Toàn những cái tên cụt ngủn. Chẳng lẽ ở đây chỉ có mình là kẻ duy nhất đủ họ tên đàng hoàng.
Cái gã Mallos đó phóng ngựa thẳng lên khán đài và dừng lại. Mình đoán buổi trình diễn sắp bắt đầu. Hắn ngồi trên ngựa, lướt nhìn đám đông bên dưới cứ như hắn là chủ nhân của họ. Không người Milago nào nhìn lại hắn. Tất cả đều cúi đầu, tránh ánh mắt của Mallos. Chẳng phải thiên tài cũng có thể đoán là họ kiếp sợ hắn. Bỗng Mallos trở mình trên yên, ngửng nhìn lên chỗ bọn mình đang núp trên mái chòi.
Loor gằn giọng thì thầm:
-Rạp mình xuống.
Ai nấy cố ép mình sát mái. Nhưng mình vẫn có thể nhìn thấy Mallos. Trong khi con ngựa hất rung bụi đất, hắn vẫn lặng lẽ ngồi trên yên, nhìn về phía bọn mình, cứ như biết bọn mình đang ở đó. Không thể nào. Không cách nào hắn nhìn thấy bọn mình được.
Rồi, khi nhìn lại hắn, mình giật thót người. Kinh ngạc đến nghẹn thở. Mình nghĩ đó là do đôi mắt của hắn. Dù hắn cách xa mình đến như vậy, mình vẫn nhận ra đôi mắt xanh lạnh lẽo đó. Làm sao có thể quên được?
Bà Osa và Loor đều cảm thấy sự ngạc nhiên của mình và nhìn mình dò hỏi. Mình nói nhỏ:
-Saint Dane.
Loor giật mình hỏi:
-Mi biết hắn sao?
-Biết. Hắn đã cố ý giết tôi khi còn ở trái đất, trước khi tôi theo ống dẫn tới đây.
Chính mình cũng không tin những lời vừa thốt ra. Biết bao điều đang xảy ra trong câu nói ngắn ngủi đó. Mới hai mươi bốn giờ trước thì chuyện đó nghe như chuyện hoang đường, nhưng ngay lúc này đây thì chẳng hoang đường chút nào. Bà Osa và Loor lại trao cho nhau cái nhìn lo lắng.
Rồi Loor thì thào hỏi:
-Hắn theo mi đến Trái Đất Thứ Hai ư?
Mình chỉ nhún vai gật đầu. Cô ta nhìn mình lom lom, ánh mắt hoàn toàn không còn chút miệt thị nào. Trước lúc đó cô ta luôn tỏ ra mình không bằng cỏ rác. Bây giờ cái nhìn của cô … đầy vẻ thắc mắc. Có lẽ lý do mình đối đầu với Saint Dane mà còn sống sót, chứng tỏ mình không quá… nhu nhược như cô ta tưởng. Tất nhiên mình chẳng dại gì cho cô ta biết “hành động đối đầu” của mình là… chỉ biết cắm đầu mà chạy. Ngu sao mà nói!
Nhìn xuống cái gã Saint Dane, hay Mallos, hay bất cứ danh xưng gì hắn tự xưng, mình càng sôi sục muốn… về nhà. Nhưng chuyện đó khó lòng có thể xảy ra. Lúc này mình đang kẹt trên mái chòi này, nhìn xuống thằng cha đã từng cố ý giết mình. Hắn có thấy mình không? Có thúc ngựa xông thẳng tới cái chòi này không? Bọn mình đang kẹt cứng trên mái, chỉ còn biết cố nín thở, nằm im.
Thời gian như kéo dài bất tận, nhưng sau cùng Saint Dane quay đi. Mình nhẹ thở lại. Với một cái ngoắc tay, hắn nói dứt khoát:
-Bắt đầu.
Oa! Saint Dane nói tiếng Anh! Hắn biết tiếng Anh? Hay hắn cũng là một lữ khách nên mình nghe hiểu? Thắc mắc này đành phải chờ, vì sự kiện chính đã bắt đầu. Một trong bốn người thợ mỏ bước tới trước. Đó là một người to lớn và cử chỉ của ông ta cho mình biết ông là cấp chỉ huy. Không biết chuyện gì sắp xảy ra, nhưng con người này dường như không chút vui vẻ với trọng trách đó. Mỗi hành động đều như gượng ép, như bị bắt buộc làm một việc đầy đau khổ.
Bà Osa thì thầm:
-Đó là Rellin. Đội trưởng thợ mỏ.
Lại một cái tên nữa cần phải nhớ. Rellin bước lên khán đài, rồi quay lại đám đông, chỉ tay vào một người. Đám đông rẽ ra, để một người đàn ông bước lên khán đài. Người đàn ông lòng khòng gầy gò đó tiến tới, ngồi lên cái ghế trên một đầu cầu bập bênh. Đầu kia nhẹ hẫng, nên đầu phía anh ta ngồi xà xuống sát mặt sàn khán đài. Rellin ra hiệu cho nhóm thợ mỏ, và ba người đó bắt đầu kéo lê cái giỏ chất đầy minh thạch lên khán đài, đặt gần đầu kia cầu bập bênh. Họ làm gì vậy? Cân trọng lượng anh chàng gầy gò bằng đá sao? Bà Osa cắt nghĩa:
-Mỗi ngày đều có một buổi Chuyển giao. Mallos chọn một người Milago để quyết định trọng lượng đá phải khai thác ngày hôm sau.
Mình đã nghĩ đúng. Chính xác là họ đang sắp cân đá với người. Cái bập bênh to đùng chính là cái cân. Mấy người thợ mỏ vừa định nhấc mấy hòn đá đầu tiên lên, Mallos bỗng quát lớn.
-Không.
Mấy người thợ mỏ ngừng tay. Tất cả nín thở chờ đợi. Saint Dane quan sát đám đông, rồi chỉ tay, lạnh lùng nói:
-Thằng đó.
Tiếng rì rào bất mãn lan trong đám đông. Hai gã hiệp sĩ thô bạo xô dạt dân làng, túm lấy người đàn ông Saint Dane vừa chỉ. Ông ta to béo hơn anh chàng đầu tiên nhiều. Rellin tỏ ra không ưa qui luật mới thay đổi này. Ông kêu lên:
-Mallos ca!
Với vẻ tức giận, người đội trưởng trách móc một tràng với Mallos. Mình không viết lại đây, vì bạn biết rồi đó, mình không hiểu gì hết ngôn ngữ của ông ta. Nhưng mình cho bạn biết những gì bà Osa đã thông dịch lại: “Mallos đã chọn một đối tượng khác cho lễ Chuyển giao. Rellin bảo như vậy là không công bằng. Ông ta đang năn nỉ Mallos áp dụng sự chọn lựa của chính hắn ngày hôm qua.”
Mình hiểu vì sao. Người đàn ông Mallos mới chọn nặng hơn nhiều. Số đá khai thác đủ cân với người được chọn hôm qua không cách gì cân bằng với người hắn vừa mới chọn. Rellin kêu gọi sự công bằng. Saint Dane không chút nao núng. Hắn nhìn Rellin như nhìn loài sâu bọ. Một tên hiệp sĩ xông tới, dùng cây giáo đập ngang mặt Rellin. Rellin lảo đảo, quay vòng, mắt tóe lửa căm hờn. Gò má ông máu chảy ròng ròng. Mình có thể nói ông ta đã phải nín thở kiềm chế để không nhào vào bóp cổ gã kia. Vậy là khôn ngoan, vì mấy gã hiệp sĩ còn lại đang đứng vây quanh, tay lăm lăm vũ khí sẵn sang nện ông ta nhừ tử.
Saint Dane ra lệnh:
-Nhìn ta đây, Rellin.
Rellin ngước nhìn kẻ thù đang ngồi trên ngựa.
-Là một thần dân trung thành, đáng lẽ mi phải cố gắng phục vụ Kagan hơn cả những gì được giao phó. Có phải mi muốn nói là giảm thiểu tối đa công việc là điều cần thiết, đúng không?
Giọng cao ngạo của Saint Dane làm mình sôi máu. Rellin trả lời với sự phẫn uất kiềm chế. Bà Osa dịch lại: “Rellin bảo khai thác mỏ đá vô cùng khó khăn và nguy hiểm. Mỗi gờ-ram đã phải trả giá đắt của mồ hôi và máu. Tuy nhiên họ sẽ cố gắng hết mình.”
Saint Dane cười khểnh:
-Để coi.
Với một cái phẩy tay của hắn, một tên hiệp sĩ nhảy lên khán đài, túm lấy anh chàng gầy gò đang ngồi trên một đầu bập bênh, kéo xuống. Hai tên hiệp sĩ khác lôi ông to béo, ấn vào thay thế. Khiếp đảm , ông ta nhìn Rellin cầu cứu, nhưng Rellin đành đứng bất động. Saint Dane lên tiếng:
-Bắt đầu đi.
Mấy người thợ mỏ nhìn Rellin, ông ta nhẹ gật đầu. Không còn lựa chọn nào khác nữa, họ bắt đầu chuyển đá từ giỏ đầu lên đầu bên kia của bập bênh. Mình hỏi bà Osa:
-Chuyện gì xảy ra nếu không đủ trọng lượng?
-Hy vọng là cháu không phải thấy cảnh đó.
Mấy người thợ mỏ hấp tấp đặt đá lên cân, những hòn lớn trước, rồi tới nhưng hòn nhỏ kích cỡ bằng những viên cẩm thạch. Tất cả dân làng đỏ dồn mắt chăm chú vào cái cân. Mình nghĩ không ai còn thở nổi. Vì chính mình cũng vậy. Rồi cầu bập bênh nhuc nhích khi những người thợ mỏ mới chuyển được phân nửa số đá. Rất từ từ, bên kia đầu cân, người đàn ông to béo bắt đầu được nâng lên. Mặt ông ta bắt căng thảng hẳn. Có lẽ rốt cuộc số đá cũng đủ để cân bằng với cơ thể nậng nề của ông. Với niềm hy vọng mới, thợ mỏ sốt sắng tiếp tục chuyển đá lên cân. Người đàn ông nặng nề được nhấc bổng lên không.
Mình cả thấy đám đông như hoàn hồn trở lại. Họ sắp thoát nạn. Ngày hôm nay họ đã khai thác được số đá nhiều hơn, đủ để đáp ứng đòi hỏi của Saint Dane. Chỉ cần them vài viên nhỏ nữa, hai bên đầu sẽ hoàn toàn cân bằng. Nếu đây là một trò chơi xổ số, chắc đám dông đã nhảy nhổm lên reo mừng. Nhưng đây không phải là một trò chơi. Dù mình cảm thấy niềm hân hoan như trút được gánh nặng của họ, nhưng không người nào để lộ ra. Mình chỉ thấy họ âm thầm trao đổi nhau một thoáng cười. Kể cả Rellin cũng có vẻ nhẹ nhõm, dù cố đè nén. Biểu hiện chiến thắng ngay trước mặt Saint Dane không phải là một điều khôn ngoan.
Saint Dane không tỏ phản ứng gì. Mình Không thể nói hắn mừng vì thợ mỏ đã khai thác vượt quá sô lượng rất nhiều, hay bực tức vì người Milago đã kịp đáp ứng sự thách thức không công bằng của hắn.
Saint Dane xoay lưng nhảy xuống ngựa, lên khán đài rồi nhìn hai đầu cân bằng của cái bập bênh, nhếch mép cười. Đột nhiên đám đông căng thẳng trở lại. Saint Dane đang làm gì vậy? Hắn nhìn người đàn ông to lớn đang lắc lư trwwn một đầu cân. Ông ta cúi gằm mặt, tránh ánh mắt hắn. Bước lại gần giỏ đá bên một đầu cân, Saint Dane nói:
-Khá lắm, Rellin. Tụi bay đã khai thác được số lượng khá lớn…
Bỗng ngừng bặt, hắn cúi xuống giỏ đá. Khắp đám đông, mọi người bắt đầu nắm chặt tay nhau để có thêm sức mạnh. Nhìn vào giỏ đá, Saint Dane lên tiếng:
-Rellin, mi làm ta ngạc nhiên đấy. Trong giỏ có một hòn đá không phải minh thạch ròng.
Rellin xông lên, định chạy lại cái giỏ, nhưng bị hai gã kỵ sĩ giữ lại. Rellin gào lên mấy tiếng với Saint Dane. Vô ích. Lấy ra từ trong giỏ một hòn minh thạch lớn nhất, Saint Dane đưa lên cao. Lập tức, cán cân nghiên về một bên, quăng mạnh người đàn ông nặng nề lên mặt khán đài. Saint Dane tiến lại, di hòn đá sát mặt Rellin, nghiến răng nói:
-Mi quá rõ, Kagan chỉ chấp nhận minh thạch ròng thôi.
Dù không là nhà địa chất học, mình cũng thấy hòn đá đó giống hệt mẻ đá còn lại. Saint Dane lại giở trò thay đổi luật chơi. Với vẻ buồn rầu giả bộ, hắn hỏi:
-Bây giờ mi muốn biết chuyện gì phải xảy ra rồi chứ?
Rõ ràng người đàn ông to lớn cũng biết chuyện gì sẽ xảy ra. Ông ta lết chân rồi nhảy xuống khỏi khán đài, hòng thoát khỏi đó. Nhưng mấy tên hiệp sĩ đã túm chặt ông ta lại.
Mình hỏi bà Osa:
-Chuyện gì đang xảy ra vậy?
Bà không trả lời, đôi mắt buồn rầu chăm chú theo dõi cảnh tượng trước mặt. Dù sao, mình cũng đoán sắp được thấy câu trả lời, và quay lại nhìn cảnh cuối của vở kịch.
Một gã hiệp sĩ vội vàng nắm sợi dây xích nặng nề nối với một đầu khán đài bằng gỗ, kéo mạnh. Nửa sàn khán đài nâng lên như cánh cửa hầm. Bên dưới trông như… không có gì. Khán đài được dựng trên một cái hố khổng lồ.
Vẫn chăm chăm nhìn cảnh tượng đó với ánh mắt buồn rầu, bà Osa nói:
-Đó là đường thông mỏ đầu tiên được đào tại làng Milago này. Hầm khai thác đó thăm thẳm khỏi tầm mắt. Ta e rằng dưới đấy, có rất nhiều bộ xương cô đơn lạnh lẽo.
Đầu óc mình rối bời, không thể tin nổi những gì đang thấy: chúng sắp ném người đàn ông này xuống đường thông mỏ!
-Sao người Milago không có một hành động nào? Họ có cả mấy trăm người, sao không ngăn chuyện này lại?
Trong khi mình lải nhải nói, thì người đàn ông đã bị ấy tên hiệp sĩ kéo gần tới cái miệng hố toang hoác.
Ông ta gào lên:
-Bagga! Bagga va por da pey!
Tiếng gào thật khủng khiếp. Không một ai trong đám đông nhúc nhích. Kể cả Rellin. Dường như họ biết là vô ích. Mình nhận thấy kế bên, Loor đưa tay ra sau lưng nắm cây vũ khí bằng gỗ. Nhưng bà Osa nhẹ nhàng đưa tay ngăn con gái:
-Con biết là chưa tới thời điểm mà.
-Lúc đầu Loor không buông tay khỏi vũ khí. Mình cảm thấy cô ta rất căng thẳng. Chỉ một cú thúc thôi là cô ta sẽ ở dưới đó, tả xung hữu đột. Nhưng hôm nay chưa phải lúc. Cô nhìn trừng trừng cảnh tượng bên dưới, rồi lỏng tay dần.
Mấy gã vệ sĩ kéo ngưới đàn ông đang gào thét tới trước mặt Saint Dane. Hắn lạnh lung tàn nhẫn nói:
-Nếu không tham ăn tới mập ù như vậy thì đâu đến nỗi phải chết hôm nay.
Nói xong hắn hất đầu với đám hiệp sĩ. Chúng kéo ngay người đàn ông khốn khổ vẫn đang kêu la tới cửa hầm. Ông ta năn nỉ:
-Ca… ca! Magga con dada pey! Maga con dada! Moy fol vợ và hai con! Xin tha cho tôi! Tôi còn phải lo cho vợ con!
Cảnh tượng quá khiếp đảm đến nỗi mình không nhận ra cho tới khi mình… chợt sững người. Mình đã hiểu được ông ta! Rõ ràng là tiếng Anh, nhưng không có lý nào ông ta bất ngờ thay đổi ngôn ngữ? Bà Osa bảo Lữ khách có khả năng nghe được mọi ngôn ngữ, và thình lình mình hiểu người đàn ông này nói gì! Rốt cuộc, có lẽ mình là một Lữ khách thật rồi.
Nhưng sau này mình mới nghĩ tới chuyện đó. Ngay lúc này mình đang chứng kiến giây phut thắt ruột mà mình không bao giờ tưởng tượng nổi. Hai gã hiệp sĩ kéo người đàn ông tới gần miệng hố. Thình lình một người phụ nữ nhảy ra từ đám đông, cố kéo ông ta khỏi mấy tay đao phủ. Nước mắt đàm đìa, bà ta kêu gọi lòng thương xót của chúng. Chắc đó là người vợ. Nhưng nỗ lực đầy can đảm của bà không đi tới đâu. Một tên hiệp sĩ nắm lấy bà, quăng xuống đất. Bà ta nằm trên cỏ nức nở khóc.
Khi bị đẩy tới sát miệng hầm, người đàn ông bỗng ngừng than vãn, rên rỉ. Ông ta không khóc lóc van xin nữa, không vùn vẫy, mà đứng thẳng người. Mark, tin không? Nét mặt ông ta gần như điềm tĩnh. Mấy gã hiệp sĩ không biết phải phản ứng ra sao. Chúng chưa từng gặp kẻ nào bình tĩnh trong khoảnh khắc thê thảm nhất trong cuộc đời như thế này.
Người đàn ông to lớn quay lại, đối diện Saint Dane, rồi bằng giọng mạnh mẽ, dứt khoát, ông nói:
-Điều ân hận duy nhất của tao, là không sống tới ngày được thấy Kagan cũng phải chịu những đau khổ nhục nhằn như chúng tao đã từng phải chịu.
Saint Dane chặc lưỡi, nói:
-Không đứa nào trong chúng mày sống lâu đến thế đâu, vì ngày đó sẽ chẳng bao giờ có.
Rồi hắn nhẹ hất đầu, nhẹ và nhanh đến gần như không thể nhận ra. Hai gã hiệp sĩ xô người đàn ông xấu số xuống hầm. Vợ ông ta rú lên. Nhưng người đàn ông không thốt một lời. Mới một giây ông ta còn đó, giây sau ông ta đã… biến mất! Cầu cho cái chết đến thật nhanh và ông sẽ được tới một thế giới tốt lành hơn cái làng khủng khiếp này.
Gã hiệp sĩ buông sợi xích, sàn gỗ đổ rầm xuống. Saint Dane bước tới Rellin. Rellin nhìn thẳng mắt hắn. Hắn chỉ tay vào người đàn bà đang nức nở:
-Chúng ta sẽ dùng mụ ta cho buổi Chuyển giao ngày mai. Mụ có vẻ nhẹ cân. Sẽ là một ngày nhàn nhã đấy. Hãy cám ơn tấm long ta đã ân cần lo lắng cho các ngươi đi.
Rellin nhìn Saint Dane và một thoáng giây mình đã tưởng ông ta sẽ nhổ nước bọt vào mặt hắn. Nhưng không. Trái lại Rellin nghiến răng nói:
-Cám ơn.
-Không có chi.
Saint Dane nói với một nụ cười. rồi hắn rảo bước tới con ngựa, nhảy lên yên và trước khi phóng đi, một lần nữa hắn nhìn lại phía mình và mẹ con bà Osa đang núp. Thật ra, cứ như hắn đang nhìn thẳng vào mình thì đúng hơn. Mình cảm thấy điều đó. Hắn biết mình đang ở đây. Phải chăng tất cả chuyện này là một màn trình diễn dành cho mình? Saint Dane ha hả cười, thúc ngựa phóng qua đám đông bàng hoàng, trở lại lâu đài Bedoowan.
Đám hiệp sĩ dùng giáo xua mấy người thợ mỏ tới giỏ đá. Họ phải vác số đá quí này tới Kagan. Đó là công việc dành cho kiếp nô lệ của họ. Mấy người thợ mỏ nâng giỏ đá khỏi cầu bập bênh và nặng nề tiến bước tới lâu đài. Dân làng còn lại tản mát dần. Không một tiếng nói thốt ra. Vài người tiến lại an ủi người phụ nữ khốn khổ mới mất chồng, hầu hết nhũng người khác lặng lẽ về nhà. Họ đã từng trải qua chuyện khủng khiếp này, và chắc chắn sẽ còn gặp lại.
Nhưng mình thì không. Mình phẫn nộ đến điên người. Mình vừa chứng kiến một con người bị giết một cách lạnh lùng. Cái chết còn ghê tởm hơn gã vô gia cư bị Saint Dane thôi miên trong hầm tàu điện ngầm New York. Chuyện đó dễ sợ nhưng dường như không thật. Còn chuyện này quá, quá thật và mình không sao hiểu nổi. Tất cả đã làm mình quá xúc động. Phải, mình chẳng xấu hổ gì khi phải thú thật với bạn, Mark à, rằng mình đã khóc. Nước mắt giận dữ và sợ hãi. Khóc vì buồn thương người đàn ông mình chưa hề quen biết. Và vì gia đình của ông ta. Cóc cần quan tâm mình đang khóc trước mặt Loor hay bất kỳ ai. Mình mất bình tĩnh rồi. Mình gào lên với bà Osa:
-Sao họ không làm gì? Họ có thể đoàn kết lại trước tụi hiệp sĩ. Họ có thể đẩy lùi chúng. Tại sao họ không ngăn chuyện kia lại?
Mình xúc động bao nhiêu, bà Osa bình tĩnh bấy nhiêu:
-Nếu họ làm bất cứ điều gì, Kagan sẽ đưa quân đến trừng phạt ngay. Họ đâu còn chọn lựa nào khác nữa.
Mình nhìn Loor và ngạc nhiên cô cũng tỏ ra rất xúc động. Có lẽ không ồn ào như mình, nhưng vẻ lạnh lùng của cô không còn nữa. Thậm chí mình còn tưởng như thấy mắt cô long lanh ướt. Có lẽ dưới vỏ ngoài gai góc là một con tim nhân ái chăng?
Tuy nhiên mình vẫn không chịu nổi những lời cắt nghĩa của bà Osa. Mình kêu lên:
-Thì đã sao? Họ nên làm gì đó chứ. Nếu không làm gì, thì sẽ không bao giờ chấm dứt được chuyện này.
Bà Osa đặt tay lên vai mình, lập tức mình cảm thấy bình tĩnh lại. Nhưng những lời bà nói sau đó, thật tình mình chẳng muốn nghe chút nào:
-Pendragon, họ sắp hành động đó. Họ sắp tự nắm lấy vận mệnh, nổi lên chống lại Kagan. Đó là lý do vì sao chúng ta có mặt tại đây. Chúng ta sẽ giúp họ. Cháu sẽ giúp họ.
Những lời nói làm mình như bị sét đánh. Cậu Press đã bảo mình là một số người cần cậu cháu mình giúp đỡ, nhưng mình đâu có ngờ cậu nói đến toàn thể một ngôi làng sống dưới sự hà khắc của một đạo quân tàn bạo, lạnh lùng giết người như ngóe. Thật điên rồ. Mình rất thương những con người này, nhưng mình chẳng thể làm gì để giúp họ được. Dù Loor gai góc, khó chịu đến thế nào, mình cũng không ngán, nhưng tụi hiệp sĩ kia là lũ sát nhân. Vả lại, bọn mình chỉ có ba… nếu tính cả cậu Press cũng chỉ là bốn. Làm sao bọn mình có thể chống lại cả một đạo quân? Thật điên rồ! Ngay lúc đó, mình quyết định nếu có dịp là chuồn ngay khỏi đám người nhì nhằng mơ hồ này, quay lại cái ống dẫn kia. Nếu nó đã đưa mình tới đây, chắc phải có cách đưa mình về nhà. Mình sẽ tìm cách thoát khỏi đây và hôn chào vĩnh biệt nơi này, dù cho có cậu Press hay không.
DENDURON
(mat_biet99 và nhoclienxo type)
Ngày mai cậu Press sẽ chết.
Mark ơi, kể từ sau thư trước mình viết cho bạn, đã có quá nhiều chuyện xảy ra. Lạ kì có, sợ hãi có, xáo trộn có và đôi khi - mình có thể bảo - hài hước có. Nhưng chuyện sau cùng là: ngày mai cậu Press sẽ chết.
Ngay lúc này, mình đang ngồi trong một hang động nhỏ sâu dưới lòng đất chắc phải tới gần trăm mét. Mình đang viết dưới ánh sáng của một cây nến, vì làm gì có điện. Chung quanh mình toàn đá. Hàng tấn, hàng tấn đá đen ngòm ngòm cứ như sắp đổ ụp lên đầu bất cứ lúc nào. Thôi không nói chuyện đó nữa, mình chỉ tưởng tượng ra đó thôi. Cái hang này làm sao có thể sụp được. Mình rất an toàn tại đây, ít ra là lúc này. Người đang gặp hiểm nghèo chính là cậu Press.
Kể với bạn chuyện này, vì mình cần bạn giúp. Mình sắp nhờ bạn làm một việc khá nguy hiểm.Trường hợp bình thường mình không bao giờ yêu cầu bạn làm một việc như thế này, nhưng đây là điều duy nhất mình nghĩ là có thể giúp mình cứu được cậu Press. Mình rất thông cảm nếu bạn không muốn làm. Nhưng trước khi bạn quyết định, mình muốn nói cho bạn tất cả những gì đã xảy ra từ sau thư trước, khi biết tất cả rồi, tùy bạn quyết định.
Mình chấm dứt thư trước ngay sau khi cậu Press bị những hiệp sĩ của Kagan kéo đi và mình bị ngất .có bao giờ bạn bị ngất hay hôn mê chưa? Không giống như ngủ thiếp đi đâu.Khi ngủ thiếp đi, bạn không biết chính xác mình ngủ thế nào.nằm xuống, chờ đợi, và…đùng một cái, trời đã sáng. Nhưng khi bị ngất, bạn sẽ cảm thấy mình đang trôi đi. Cảm giác đó chẳng thú vị chút nào. Sau đó khi hồi tỉnh, cũng chẳng gì khá hơn.Không biết đang ở đâu, chuyện gì xảy ra, rồi tình lình nhìn chung quanh và trở về thực tế.
Tất nhiên, trong trường hợp này, ngay cả khi tỉnh lại mình cũng không biết là đang ở đâu và chuyện đang gì xảy ra. Điều đầu tiên mình nhìn thấy là một khuôn mặt. Mặt một cô gái. Trong giây lát mình tưởng đó là Courtney. Nhưng ngay khi bộ não bắt đầu hoạt động, mình nhận ra cô ta không giống Courtney.Cô ta rất đẹp. (Chu choa, nghe có vẻ tệ quá nhỉ.Không phải Courtney không “rất đẹp”, nhưng cô gái này hoàn toàn, nói thế nào nhỉ). Khoảng tuổi mình,có khi lớn hơn một chút. Da cô ta đen,mắt quá nâu nên trông cũng đen.Tóc cô ấy cũng đen và thắt bím dài tới lưng.Bộ áo quần cô ta mặc giống như bộ đồ bằng da kì cục mà cậu Press đã bắt mình tròng lên người.Nhưng với cô, mình cảm thấy rất đẹp,vì cô ta có một thân hình tuyệt vời. Hẳn cô ta phải làm một động viên gì gì đó. Thật mà, cô gái này có thân hình như một vận động viên điền kinh Olympic. Không chút mỡ, toàn cơ bắp, dể nễ lắm.Nếu mình gặp cô ấy tại quê nhà, mình sẽ đoán cô ta gốc châu Phi.Nhưng đây đâu phải quê nhà.
Mình nằm căng thẳng trong khi cô ta hoàn toàn tỉnh bơ nhìn xuống mình lom khom. Không thể biết cô ta mừng vì mình còn sống, hay sắp sửa kết thúc phần việc của lũ quig: giết mình chết đứ đừ tại chỗ. Tình hình cứ thế kéo dài mấy giây, chẳng ai nhúc nhích. Sau cùng mình nuốt nước bọt để biết chắc cổ họng đã thông, rồi khào khào nói:
-Tôi đang ở đâu? Câu hỏi chẳng có gì mới mẻ cả nhưng kệ, mình vẫn muốn biết.
Cô gái không trả lời. Cô ta đứng dậy tới bên cái bàn có mấy cái bát gỗ, lấy một bát đưa cho mình, nhưng mình không cầm. Biết là cái gì mà dám uống. Có thể là máu hay thuốc độc lắm chứ. Cũng có thể là một chất lỏng ở đây họ cho là ngon lành, nhưng làm mình ói mửa thì sao? Cô ta gằn giọng:
-Nước đó.
Ồ!
Mình đón bát nước. Đang khát mà. Cô gái lại bên cửa, đứng khoanh tay. Mình uống một ngụm nước rồi nhìn quanh. Mình đang ở trong một nơi giống như cái chòi nhỏ hẹp, có lẽ chỉ bằng phòng khách nhà mình. Một phòng độc nhất với sáu bức tường. Hình lục giác, phải không? Các bức tường xây bằng đá và bùn khô. Mấy lỗ hổng là cửa sổ, một lỗ hổng lớn là cửa ra vào. Mái trần vút lên thành một hình chóp nhọn, làm bằng cành cây đan vào nhau. Sàn bằng đất, nhưng rắn chắc như bê tông. Mình đang nằm trên một cái gì đó kiểu như ghế dài thấp làm bằng những khúc gỗ ghép lại, trên phủ một tấm dệt bằng rơm hay một giống cỏ nào đó. Khá thoải mái, nhưng mình không muốn nằm đây suốt đêm. Trong lều còn nhiều giường khác kê thành hàng. Mình nghĩ chắc nơi này là một bệnh viện. Có lý lắm chứ. Sau những gì mới trải qua, mình được đưa tới bệnh viện.
Giống như mình bước vào cỗ máy thời gian và được đưa ngược về mấy ngàn năm trước, tới một thời đại mà con người xây dựng thế giới bằng bất cứ thứ gì kiếm được và… không quan tâm lắm đến vấn đề vệ sinh cá nhân. A, phải rồi, mình đã kể cho bạn về cái mùi khủng khiếp như chuồng nuôi dê của chỗ này chưa? Nó làm mình thắc mắc không biết vữa xây những bức tường đá kia thật sự là bùn, hay một thứ ghê tởm nào khác sẽ làm mình phát oẹ nếu biết rõ?
Nhìn cô gái kỳ lạ đang đứng khoanh tay trừng trừng nhìn đáp lại, mình tự hỏi: Cô là bạn? Là kẻ thù? Hay cai ngục đứng gác cho đến khi đám hiệp sĩ áo đen trở lại kéo xềnh xệch mình đi như đã làm với cậu Press? Đầu óc mình ngổn ngang đủ thứ, nhưng một thứ nổi cộm nhất.
Mình mắc tè.
Lần cuối mình đi tiểu là trước khi Courtney xuất hiện ở nhà mình. Đó là khi nào? Một triệu năm trước? Bụng mình căng cứng thế này, chắc phải lâu lắm rồi. Không thể nằm đó mà tè dầm được, mình chớm ngồi dậy và nói:
- Này, tôi…
Ngay khi mình cử động, cô gái kia liền bay tới như định tấn công. Cô ta khom mình, rút cây sào gỗ buộc sau lưng dài gần hai mét và đầy vết trầy như đá được dung nhiều lần… Cô nắm chặt vũ khí bằng cả hai tay. Mình thấy hai đầu sào đen bóng vì đã đâm vào những thứ mình không dám tưởng tượng thêm.Nhưng đôi mắt cô ta thì dễ sợ hơn. Hai mắt như đứng tròng, tập trung vào mục tiêu. Mục tiêu đó là… mình.
Mình lạnh toát cả người. Nếu mình đứng dậy, cô ta sẽ nện cho mình một hèo, chân chưa chạm đất, đầu đã bổ nhào rồi. Mình không muốn nhúc nhích chút nào vì sợ sẽ chọc giận cô ta. Cả hai cứ giữ nguyên trạng thái đó, chờ cho đối phương hành động trước. Chắc chắn người hành động trước sẽ… không phải là mình. Và, nếu cô ta chỉ cần tiến một bước về phía mình, mình sẽ vọt khỏi giường, đầu phóng ngay ra ngoài cửa sổ.
Lúc đó có tiếng gọi từ bên ngoài:
-Buzz obsess woos saga!
Ít ra là nghe giống vậy đó. Mình không bảo đảm đánh vần chuẩn xác đâu. Có người bước vào lều. Đó là một người đàn bà trong bộ đồ đúng điệu thời trang tại đây: toàn da thú cứng nhắc! Trông bà ta y chang bản sao già hơn của cô gái suýt phang cây lên sọ mình. Tuy vóc dáng rất mạnh mẽ, nhưng bà ta toát lên một vẻ làm mình cảm thấy đây có thể là cứu tinh của mình. Có lẽ vì đôi mắt của bà. Khi bà ta nhìn mình, mình cảm thấy mọi chuyện sẽ ổn. Trông bà ta quen quen, nhưng mình không nghĩ ra đã gặp bà ta ở đâu. Bà nghiêm nghị nhìn cô gái, cô ta miễn cưỡng buông vũ khí. Ôi! Đại họa qua rồi.
Người đàn bà quay lại nói với mình:
-Tha lỗi cho con gái ta, nó luôn tỏ ra quá nghiêm trọng.
Tin mới. Đây là một cặp mẹ con.
Đáng lẽ mình không nên ngạc nhiên, vì họ giống hệt nhau. Chẳng biết ông bố trông ra sao? Chắc phải là một hậu vệ dũng mãnh. Mình vẫn không thấy an tâm khi nhúc nhích.Người đàn bà này có vẻ tử tế, nhưng sau những gì đã trải qua, mình vẫn không dám tin là mọi chuyện sẽ thuận lợi.
Bà ta lại bên giường, quỳ xuống nở một nụ cười hiền lành với mình và dịu dàng nói:
-Ta tên là Osa. Con gái ta tên Loor.
-Cháu… cháu là Bobby. Cháu… cháu không phải người ở đây.
Mình chỉ biết nói có nhiêu đó. Bà Osa mỉm cười, nói:
-Mẹ con ta cũng vậy.Và chúng ta biết chính xác cháu là ai, Pendragon. Chúng ta đang chờ cháu.
Oa! Bà ta biết mình là ai! Đầu óc mình rối tung, nhưng một thắc mắc đặt biệt chợt lóe lên: nếu họ biết mình là ai, sao cô nàng chiến binh rừng xanh kia lại định phang vỡ sọ mình? Tốt hơn là đừng hỏi. Chọc vào Loor, chắc cô ta lại sẵn sàng giơ cao cây gậy lên ngay. Mình chỉ hỏi:
-Sao bà lai biết cháu?
-Từ Press, dĩ nhiên rồi. Ông ấy kể nhiều chuyện về cháu.
Đúng rồi, mình nhớ đã gặp bà ta tại đâu rồi. Cậu Press đã đưa bà ta tới nhà mình một lần. Mình nhớ đã nghĩ bà ta đẹp làm sao và lấy làm lạ vì bà ta đã im thin thít thế nào. Bí ẩn đã sang tỏ: bà ta là bạn cậu Press. Điều này làm mình chợt nhớ tới ông. Ôi trời, mình suýt quên: lúc này ông mới là người đang thật sự nguy khốn. Những hiệp sĩ đã quăng thòng lọng, kéo cậu Press đi chẳng có vẻ gì là đồng đội của ông hết. Xương sống lạnh buốt, mình ngồi bật dậy, la lên:
-Cậu ấy đang gặp nguy hiểm!
Một hành động tệ hại! Không vì tiếng gào, mà vì ngồi dậy quá đột ngột. Thân hình mình bầm dập thâm tím do cú va chạm xe trượt trong rừng. Mình đau đớn như vừa bị cây gậy của Loor đập cho nhừ tử. Không hiểu sao trước đó mình đã không nhận ra cơn đau khủng khiếp này. Cảm giác như xương sườn gãy ráo. Đau dữ dội đến không thở nổi. Hai chân rã rời, mình phải nằm lại xuống, nếu không mình có thể sẽ bị ngất đi. Bà Osa vội vàng ôm mình và nhẹ nhàng đặt mình nằm xuống. Giong dỗ dành, bà nói:
-Không sao đâu, sẽ hết ngay thôi mà.
Sao bà biết? Trừ khi bà ta biết mình sắp chết. Chỉ cái chết cấp kì mới làm mình hết đau ngay. Nhưng điều xảy ra sau đó mới đáng kinh ngạc. Mình nằm đó, thở nhè nhẹ, vì thở mạnh làm mình càng đau đớn hơn. Bà Osa dịu dàng đặt bàn tay lên ngực mình. Bà ta nhìn sâu vào mắt mình, thế rồi - Mark, mình thề không nói láo đâu, toàn thân mình dường như tan loãng ra. Sự căng thẳng, sợ hãi hoàn toàn biến mất. Bà nói nhỏ:
-Nghỉ ngơi đi. Hãy thở nhẹ nhàng thôi.
Mình làm theo. Tim mình không còn đập thình thình nữa và mình đã có thể thở sâu trở lại. Nhưng điều lạ lùng nhất là cơn đau nhức cũng biến luôn. Mới một giây trước, mình đau đến mức ngay cả kêu rên cũng không nổi. Bây giờ hoàn toàn chẳng đau đớn gì.
Bà Osa lấy tay ra khỏi ngực mình, rồi ngửng nhìn phản ứng của Loor. Loor quay đi. Chuyện này không gây ấn tượng gì cho cô ta, nhưng mình thì có. Chắc đây là phép lạ. Ngồi dậy rờ nắn xương sườn, mình hỏi:
-Sao bà làm được vậy?
-Làm gì?
Bà thản nhiên hỏi, mình la lên:
-Bà đùa sao? Xương sườn cháu đau tưởng chết đi đươc, bà chạm tay vào, hấp, không còn đau đớn gì nữa.
Bà Osa đứng dậy, đáp:
-Có lẽ cháu không quá đau như cháu tưởng đâu.
-Tưởng à? Cháu biết đau là gì chứ, nhất là cái đau của chính mình.
Lúc đó Loor mới lên tiếng, giọng cô ta đầy vẻ khó chịu:
-Mất thì giờ quá. Press đang bị Kagan giam giữ đó.
Mình không ưa thái độ đó của cô ta. Nhưng cô ta có lí. Mình hỏi:
-Kagan là ai?
Bà Osa bảo:
-Còn rất nhiều điều cháu cần phải học hỏi. Press đã bắt đầu dạy cháu, nhưng cho đến khi ông ấy trở lại, công việc đó sẽ thuộc về ta. Theo ta.
Bà bước lại lỗ hổng trên tường (tức là cái cửa), đứng bên con gái. Hai mẹ con nhìn mình, dấu hiệu bảo mình đi theo. Mình đứng dậy, sẵn sàng chờ đợi mấy cái xương sườn đau lại. Nhưng không có gì. Ngạc nhiên chưa? Mình nhìn Loor xem cô ta có định tấn công nữa không. Cũng không có gì. Tình hình mỗi lúc mỗi khả quan hơn.Mình hỏi:
-Liệu chúng ta có tìm được cậu Press không?
Bà Osa trả lời:
-Chúng ta sẽ làm việc đó. Nhưng trước hết cháu cần phải tìm hiểu về Denduron đã.
Denrudon. Đúng. Mình đang ở Denrudon. Cho đến lúc này chẳng có gì mình có thể ưa tại Denrudon, và mình không thể tưởng tượng có bất kì thứ gì khác nữa có thể làm mình ưa nổi nơi này. Nhưng đâu có quyền chọn lựa, mình đành đi theo họ. Nhưng mới được hai bước, mình nhớ ra một điều, rất quan trọng:
-À…ừ…cháu có thể đi đâu..để…nghĩa là cháu…cần…
-Trút bầu tâm sự trong kia kìa.
Loor lạnh lùng nói, tay chỉ vào góc phòng nhỏ, ngăn bằng một vách gỗ.
-Tuyệt vời. Cám ơn.
Chạy vội vào sau tấm vách, nhìn quanh, mình đã học được hai điều. Một là, những người này không có phòng vệ sinh trong nhà. Tất cả chỉ là một cái hố, được bao quanh bằng mấy cục đá. Hai là, bí mật về cái mùi khó ngửi ở đây đã được giải đáp. Mình nghĩ những người ở đâu không hề biết rằng, “đi ngoài” kiểu này là phải có một chỗ nằm “ngoài” ngôi nhà. Trời đất! Mùi hôi thối cứ như có một con voi bị tiêu chảy vừa ra khỏi đây. Nhưng đây đâu phải nhà mình, mà mình thì muốn tè ra quần rồi. Vậy là mình phải nín thở và mất năm phút mới cởi được bộ đồ da mắc dịch. Chắc chắn người ở đây chưa phát minh ra dây kéo. Lúc đó mình mới phát hiện ra lớp quần áo lót lông thú mình mặc bên trong không còn nữa. Chắc khi mình hôn mê đã có kẻ lột mất rồi. Cũng may, vì nếu phải cởi thêm lớp quần áo nữa, bảo đảm mình đã tè dầm.
Xong xuôi, mình vội chạy xuyên qua căn liều đá, đuổi theo họ. Không biết mình sẽ thấy gì bên ngoài lều đá này, nhưng dù là gì thì chắc cũng là một ngạc nhiên. Vừa bước ra ngoài, mình đứng phắt lại, nín thở. Mình vừa bước vào một thế giới khác. Một thế giới không giống tý nào với những gì mình đã thấy trước đây. Lều đá mình vừa bước ra nằm giữa một ngôi làng toàn lều đá. Những căn lều đều giống nhau, với tường đá, mái bằng cành cây và rơm. Không có chút trang trí nào để có thể phân biệt lều này với lều khác. Vài lều có khói cuộn lên từ những ống khói bằng đá, chứng tỏ trong nhà đang nấu ăn hay đốt lửa sưởi ấm. Đường cái và lối đi ngoằn ngoèo nhỏ hẹp giữa những ngôi lều thì dơ dáy và lồi lõm. Chẳng sao hết! Ở đây làm gì có ô tô hay những phương tiện giao thông cơ khí. Tất cả những ngôi lều được dựng quanh một bãi cỏ lớn giống như một quãng trường thị trấn, chính giữa bãi cỏ có một khán đài hình tròn, đường kính chừng ba mét. Chân khán đài được xây bằng đá giống như những ngôi lều, mặt sàn khán đài làm bằng những khúc gỗ kết vào nhau. Cách sắp đặt làm mình nhớ đến những thị trấn có một khu hòa nhạc và biểu diễn giữa công viên. Nhưng khán đài thị trống trơn: Hôm nay không có buổi biểu diễn nào.
Ngôi làng nhộn nhịp với những con người đang làm những công việc như bất kì ai sống trong một ngôi làng như thế này. Họ hối hả đi lại, có người xách giỏ đồ ăn, người khác lùa bầy dê… Họ đều mặc áo quần bằng những da thú như mình đang mặc, vậy nên dù mình cảm thấy lạc lõng, nhưng có lẽ trông mình không có vẻ xa lạ. Người có vẻ xa lạ chính là bà Osa và Loor. Như mình đã tả hai mẹ con bà ta: cao lớn, da đen và trông như vận động viên điền kinh. Tại làng này không có người da màu. Suốt đời mình chưa thất ai trắng nhợt như người làng Denduron. Cứ như cả đời họ không bao giờ nhìn thấy ánh nắng. Điều kì lạ là lúc đó mình thấy ba mặt trời trên đỉnh núi mà trời vẫn u ám. Nhưng mặt trời ở đây không làm da người ta rám nắng sao? Hay trời ở đây luôn âm u như ở Seattle? (Seattle: thành phố lớn nhất của bang Washington (Mỹ) nổi tiếng với tên gọi “Thành phố mưa” (Rainy City) vì ở đây hầu như trời mưa quanh năm. Thậm chí nếu không mưa thì trời lúc nào trông cũng âm u như sắp mưa). Dù với lí do nào thì rõ ràng đúng như bà Osa đã nói, mẹ con bà không phải là người Denduron.
Ngôi làng tách ra từ một khu rừng. Nhìn hướng này, qua khỏi những căn lều, là cánh đồng mênh mông, nhiều người đang cày cấy. Nhìn hướng ngược lại, là rặng núi mà mình và cậu Press đã chạy trốn bây quig bằng xe trượt. Các hướng khác chẳng có gì ngoài rừng. Không cần phải là một nhà nhân chủng học, chỉ cần nhìn thoáng ngôi làng, mình nghĩ ngay tới những cuốn phim và sách về châu Âu thời trung cổ, chỉ thiếu mấy lâu đài đồ sộ hiên ra.
Mẹ con bà Osa để mình đứng tại đó một lúc để ghi nhớ cảnh chung quanh. Khi mình định bước tới nhập bọn với mẹ con họ, thì thình lình bị kéo quay ngược về sau:
-Ogga ta vaan burr sa!
Đó là một gã nhỏ con, tóc dài bù rối, một mắt bịt kín bằng một miếng da và một cái cười khoe hàm răng rụng gần hết. Mỗi ngón tay là một cái nhẫn khác nhau, trong như được tết bằng dây. Mười ngón mười nhẫn. Gã nhỏ con dơ dáy này hẳn là rất khoái đồ trang sức.Mình chẳng hiểu hắn muốn nói gì, cho đến khi hắn dí một vật đầy lông vào mình. Mình nhảy lùi lại, nhưng nhận ra đó chỉ là một cái áo len, giống như một chiếc áo khoác.
-Ogga ta vaan.
Hắn lại cười nói và đưa cho mình cái áo. Mình thấy hắn vô hại và muốn nhận cái áo. Có lẽ là một phong tục chào mừng của địa phương. Trời lạnh như cắt, cái áo da mình đang mặc chẳng thấm tháp gì. Vì vậy mình mỉm cười vui vẻ đưa tay ra… Nhưng chưa kịp cầm, gã nhỏ con giật tay lại, xòe tay kia ra, vẽ vẽ mấy ngón tay. Phải, hắn đang làm một dấu hiệu toàn cầu: “Tiền trao cháo múc”. Gã nhỏ con kì cục này muốn bán cái áo.
Bà Osa chen vào, đứng giữa mình và hắn:
-Figgis, để anh ta yên.
-Mab abba kan forbay.
Hắn ta hồn nhiên nói. Ít ra là mình nghĩ hắn hồn nhiên, vì ngôn ngữ của hắn mình đâu hiểu gì. Bà Osa nhìn hắn, nói:
-Anh ta mới đến đây, đi chỗ khác bán hàng của mi đi .
Thì ra hắn là một tay buôn bán. Thất vọng ra mặt, gã nhỏ con bước đi, nhưng vẫn cố quay lại với nụ cười láu cá, răng cỏ cái mất cái còn .Gã móc từ trong áo ra quả táo đỏ bóng lưỡng, cố dụ dỗ mình. Bà Osa ra lệnh:
-Xéo.
Figgis càu nhàu mấy câu rồi chạy đi. Osa nói:
-Nếu có thể, Figgis bán cả hơi thở của nó. Người ta bảo, nó phải che mắt vì đã bán một con mắt cho người mù.
Trời. Thật là một hình ảnh kinh tởm. Mình hỏi:
-Osa, bà từ trái đất đến, đúng không?
Bà cười ha hả, nhìn Loor để cùng chia sẻ điều khôi hài mà mình không hiểu nổi. Loor không hề cười đáp lại. Lạ lùng không? Bà Osa hỏi:
-Vì sao cháu lại nghĩ vậy?
-Bà biết tiếng Anh.
-Cháu lầm rồi, Pendragon. Ta không biết một câu tiếng Anh nào. Đi thôi.
Bà ta bỏ mình đứng ngẩn ngơ, cùng Loor bước đi tiếp.
Cái gì kì vây? Mình có thể lầm, nhưng rõ ràng chúng mình đang nói tiếng Anh với nhau mà. Ngoài vài giờ học tiếng Tây Ban Nha, mình chỉ biết tiếng Anh. Bó tay. Cứ mỗi khi tưởng đã nắm bắt được một sự việc, đùng một cái, mình lại bị chới với. Đành phải làm quen với tình trạng này thôi.
Mình chạy vội cho kịp hai mẹ con đang sải bước những bước dài về phía trước và để đảm sao cho bà Osa đi giữa mình và Loor. Mình mến bà Osa, nhưng không tin tưởng cô con gái. Mắt cô ta cứ như luôn ném cho mình câu nói: “Có mi chỉ thêm chật đất”. Đôi mắt lạnh tanh khủng khiếp. Tốt nhất là tránh xa cô ta ra. Mình bảo với bà Osa:
-Cháu vẫn không hiểu. Bà nói tiếng Anh, sao lại bảo không biết tiếng Anh?
-Ta không nói tiếng Anh. Chỉ có cháu nói tiếng Anh. Ta nói ngôn ngữ Zadaa của lãnh địa quê ta.
-Cháu thấy giống tiếng Anh.
-Tất nhiên, vì cháu là một Lữ khách.
Càng nghe càng thêm rối.
-Vậy là, bà nói Lữ khách hiểu tất cả mọi ngôn ngữ?
Câu hỏi hợp lí, đúng không? Nhưng câu trả lời của bà ta chẳng hợp lí tí ti nào:
-Không. Lữ khách nghe tất cả các ngôn ngữ như chính tiếng mẹ đẻ của họ. Khi họ nói, dù họ nói bằng ngôn ngữ nào, những người khác đều có thể hiểu.
Tuyệt! Nếu đúng là vậy, mình sẽ vọt cao hạng C trong môn tiếng Tây Ban Nha. Tuy nhiên vẫn còn có một diều chưa ổn.
-Nhưng… sao cháu nghe gã bán hàng Figgis chỉ toàn… xì xà xì xồ?
Thình lình Loor nhảy phóc tới trước mặt. Mình phải “thắng gấp” lại nếu không sẽ bước thẳng vào mặt cô ta mất. Vậy thì đau lắm. Cô ta nạt nộ, giọng thách thức:
-Là vì có lẽ mi không phải là một Lữ khách.
A! Mọi chuyện được sáng tỏ. Cô ta không tin mình là… mình. Đó là lí do cô ta luôn hậm hực, kiếm chuyện với mình. Không sao, vì chính mình chẳng biết thật sự mình… phải là ai, nên đâu thể nói gì để thuyết phục cô ta rằng mình là mình, hay mình chính là cái người mà người đó là… mình, hay… Mark, cậu hiểu ý mình chứ?
Một lần nữa bà Osa lại giải cứu mình:
-Lí do cháu không hiểu Figgis nói gì là vì cháu chưa học được cách nghe. Cháu hiểu chúng ta, Vì chúng ta cũng là một Lữ khách.Nhưng Figgis thì không. Cháu phải học nghe, mà không cố lắng nghe.
Là sao? Nghe mà không lắng nghe? Hiểu chết liền!
Loor sôi nổi nói với mẹ:
-Làm sao hắn ta có thể là mọt Lữ khách được chứ? Chỉ là một đứa trẻ mềm yếu, nhút nhát. Hắn sẽ chẳng làm nên trò trống gì, chỉ gây thêm tai họa.
Chảnh dễ sợ chưa? Nhưng chẳng may là cô ta nói rất đúng. Mình vừa mềm yếu vừa nhát như thỏ đế. Có lẽ mình chẳng là Lữ khách lữ khiếc gì ráo. Nói thật, nếu biết rõ mình không là Lữ khách mình sẽ mừng hết lớn luôn, cho dù có đứng hạng bét trong lớp Tây Ban Nha cũng được. Mình khấp khởi hi vọng tất cả vụ này chỉ là lầm lẫn, và họ sẽ tống mình về nhà.
Bà Osa nhìn mình bằng đôi mắt đen đầy hiểu biết, Nhưng lại nói với Loor:
-Không đâu, Pendragon chính là một lữ khách. Nhưng nó còn nhiều điều phải học.
Quay lại con gái, bà tiếp:
-Và… hình như con quên là… chính con cũng là một đứa trẻ?
Loor giận dỗi ra mặt. mình có cảm giác cô nàng không thích bị chỉ trích. Bà Osa nói với mình:
-Rồi cháu sẽ thấy, không phải lúc nào nó cũng giận dỗi vậy đâu.
-Ồ, không sao. Miễn là cô ấy đừng nổi sùng với cháu.
Bà Osa tủm tỉm cười tiếp tục bước đi. Mình đi sát bên nghe bà kể về Denduron:
-Những người sống trong làng này thuộc bộ lạc Milago. Cháu thấy đó, họ sống rất đạm bạc. Họ tự trồng cấy tất cả lương thực và sống êm dềm với những bộ lạc khác tại Denduron.
Milago. Cậu Press đã nói đến từ này trước khi những gã hiệp sĩ kia xuất hiện. Cậu bảo họ sẽ tìm để giúp, vì vậy mình đoán đây là những người tốt.
-Những tên trông giống như hiệp sĩ đã tấn công cậu Press có phải là Milago không?
-Không, đó là điều ta muốn nói cho cháu biết.
Theo con đường mòn trong rừng chừng một phần tư dặm, hai mẹ con bà Osa và mình ra khỏi rừng, tiến vào một mảng trống. Và một lần nữa mình lại bị sửng sờ vì cảnh hiện ra trước mắt. Mark, có nhớ là mình đã bảo ngôi làng trang cổ này chỉ duy nhất thiếu một điều là một lâu đài vươn cao khỏi nó? A, hóa ra có một lâu đài cổ, to lớn, nhưng không hề vươn cao khỏi ngôi làng.
Đây là những gì mình thấy: khi ra khỏi đường mòn, bọn mình tới một cánh đồng cỏ rộng lớn và tiếp tục băng qua hết đồng cỏ, cho tới khi gặp một dốc đứng. Dưới dốc là nước. Đúng vậy. Bọn mình đang ở trên bờ một đại dương mênh mông, xanh ngắt như Đại Tây Dương. Bên phải mình là biển, và mình nhìn xuống: bờ biển gồ ghề, lởm chởm với những dốc đá dựng đứng.Mình nhận ra bờ dốc bọn mình đang đứng thật sự là một bờ vịnh. Tít bên dưới, sóng biển thi nhau vỗ vào vách đá. Nơi mình đứng quá cao so với mặt nước, nên khi nhìn xuống sâu nữa, hai tay mình đầm đìa mồ hôi. Mình vốn không chịu nổi độ cao mà. Mình ngước lên nhìn dốc đứng cuối vịnh và thấy đất trên đỉnh phủ cỏ xanh tươi, phất phơ trong gió biển. Rồi điều mình thấy phía dưới đỉnh dốc phủ cỏ đó làm mình nín thở.
Ngay trên bề mặt của vực là một thành lũy đồ sộ, trông như được đẻo ra từ núi đá. Mình có thể thấy nhiều lớp hành lang bằng đá và những hiệp sĩ, giống những gã đã tấn công cậu Press, đang trực gác. Chúng đi tới đi lui với cây giáo “chết người” trên vai. Mình không biết rõ chúng đề phòng gì. Chắc là đám ngư tặc.
Mình đếm được năm lớp hành lang. Như vậy thành lũy này lớn đấy chứ. Hình như đoán được thắc mắc của mình, bà Osa lên tiếng:
-Cháu chỉ mới thấy bên ngoài thành thôi. Thành này được xây sâu vào lòng dốc đá. Trong đó có cả một ngôi làng.
Những gì mình thấy cho tới lúc này là người ở đây không hề có công cụ xây dựng nặng, như vậy là thành lũy này chắc chắn đã được đẽo, đục bằng tay. Với những công cụ thô sơ, phải cần mấy thế kỷ mới có thể dựng được một lâu đài đồ sộ như thế. Bà Osa tiếp:
-Tại đây luôn có hai bộ lạc. Milago làm ruộng. Trách nhiệm của Bedoowan là quân sự và cai trị. Trước kia đã xảy ra một cuộc chiến giữa nhiều bộ lạc tại Denduron. Bedoowan bảo vệ cho Milago khỏi bị cướp bóc. Đáp lại, Milago cung cấp lương thực cho họ. Hai bộ lạc lệ thuộc vào nhau, sống hòa hợp trong mấy thế kỉ. Nhưng Bedoowan rất hùng mạnh, và sức mạnh có thể dẫn đến kiêu căng. Họ không cho phép người Milago lấy người Bedoowan, thậm chí không được cả kết bạn với nhau. Tình trạng kéo dài như vậy, dẫn đến người Bedoowan bắt đầu coi người Milago như nô lệ của họ.
-Nhưng họ vẫn bảo vệ người Milago?
-Nhiều năm rồi, không có cuộc xâm lược nào. Sự cần thiết được bảo vệ không tồn tại nữa.
-Vậy, người Milago vẫn cứ quần quật đủ việc, còn người Bedoowan … Làm gì?
-Đó là một câu hỏi rất hay. Bedoowan được cai trị bỏi một hoàng gia, với thể chế ngai vàng được truyền cho người con cả. Đã có lần, một quân vương Bedoowan muốn phá vỡ rào cản giữa hai bộ lạc, và cho phép việc hai bộ lạc sáp nhập làm một. Nhưng vị vua này qua đời và người con cả lên ngôi. Nhiều người tin rằng vua cha đã bị những kẻ không muốn mất địa vị tối thượng của Bedoowan ám sát.
-Để cháu đoán thử. Vị vua mới không muốn dẹp bỏ chế độ nô lệ và vẫn muốn tách biệt hai bộ lạc?
-Đúng vậy. Thậm chí người Milago khiếp sợ tới nỗi không dám nói tới cái tên… Kagan.
Lại là cái tên đó. Mình dần dần bắt đầu hiểu ra sự việc, nhưng chẳng thích thú điều đó chút nào. Mình nói tiếp:
-Những hiệp sĩ tấn công cậu Press đã tưởng cậu ấy là gián điệp do thám Kagan. Nhưng cậu Press giả bộ như là một thợ mỏ. Ở đây có mỏ sao?
Bà Osa buông một tiếng thở dài buồn rầu:
-Phải. Đó là phần tệ hại nhất trong chuyện này.
Sự việc trở nên tệ hại hơn, hay ghê chưa! Mình rất muốn được nghe. Nhưng ngay lúc đó có tiếng trống dồn dập vọng tới từ hướng làng Milago.
Loor chạy lên, hổn hển nói:
-Chuyển giao rồi. Mau.
Bà Osa nhìn mình lo lắng:
-Hãy ở sát bên ta, đừng để chúng nhìn thấy.
Nói xong, bà ta chạy theo Loor. Mình đã kể rồi mà, hai mẹ con họ là vận động viên. Nhưng họ chạy nhanh cỡ nào mình cũng ráng rượt theo, bám sát bà Osa trên con đường mòn trở lại làng Milago. May mắn là chỉ không tới nửa dặm, nếu không chắc mình ná thở luôn.
Tới làng, mình thấy mọi người đang đổ dồn về khu trung tâm với khán đài lớn ngay chính giữa. Chắc sắp có màn biểu diễn. Từ cánh đồng đổ về, từ trong lều ùa ra, mọi người bỏ hết công việc đang làm, tụ tập quanh khán đài.
Mình háo hức định hòa vào đám đông, bà Osa bỗng nắm tay, kéo mình ra hướng khác. Ba người leo lên một mái chòi đá. Tại đây, nhìn xuống cuộc biểu diễn rất rõ. Osa cảnh giác:
-Không được để chúng thấy. Chúng ta không dự phần trong vụ này.
Dù là chuyện gì cũng không quan trọng, bọn mình có được điểm ngắm lý tưởng rồi. Vì vậy mình yên tâm chờ đợi và tự hỏi không biết họ trình diễn gì. Chắc là âm nhạc Milago hoặc mấy màn trình diễn kiểu như của học sinh.
Nhìn xuống, mình thấy dân làng Milago tập hợp thành một vòng tròn rộng lớn quanh khán đài trung tâm. Khán đài cũng không còn trống trơn nữa, mà trên đó có một dụng cụ thô kệch, trông như cái cầu bập bênh. Một đầu có một cái ghế, đầu kia là một giỏ cần-xế lớn. Đứng trên khán đài, gần dụng cụ giống cái bập bênh đó, là một hiệp sĩ của Kagan đang gõ trống.
Mình hy vọng gã này đánh trống để kêu gọi dân làng thôi, vì nếu cả buổi trình diễn chỉ có mỗi màn này thì chán chết. Tiếng trống thùng thùng vang dội khắp ngôi làng, nhịp trống loạn xà ngầu. Đứng kế bên khán đài còn có sáu tay hiệp sĩ nữa. Chúng đứng nghiêm, mỗi tên chống trước mặt thanh giáo gớm ghiếc. Dân làng Milago giữ một khoảng cách xa với chúng. Mình cũng sẽ làm vậy thôi. Trông chúng chẳng có chút thân thiện nào.
Mình chợt nhận ra, không người dân làng nào tỏ vẻ đang đón chờ thời khắc giải trí thoải mái. Không khí không chút phấn khởi trước một sự kiện vui vẻ. Không một tiếng cười nói, chuyện trò, đùa giỡn. Ngoài tiếng trống, tất cả đều câm lặng. Trên khuôn mặt những con người này, chỉ có ánh nhìn sợ hãi.
Bà Osa bỗng vỗ vai mình, rồi chỉ về cuối bãi đất trống. Mình thấy bốn dân làng Milago đang chậm chạp tiến tới đám đông. Họ đều là đàn ông, đất cát lấm lem từ đầu tới ngón chân. Chẳng dân làng Milago nào có thân hình cân đối đẹp đẽ lắm đâu, nhưng quả thật bốn người này khá là xương xẩu. Đất đen đúng là đối chọi với màu da trắng như thạch cao của họ. Họ khệ nệ vác một cái giỏ lớn, chất đầy đá đủ kích cỡ. Có những hòn lớn như trái banh bowling, có hòn nhỏ hơn. Nhưng điều đặc biệt là chúng đều màu xanh lơ. Ý mình là sáng long lanh như ngọc vậy. Chưa bao giờ mình thấy một thứ đá lạ lùng như thế.
Bà Osa thì thầm:
-Đá này được gọi là “minh thạch”, một thứ đá sáng bóng. Khắp vùng này đều có mỏ loại đá quí đó. Dân Milago khai thác mỏ cả ngày lẫn đêm.
-Chắc nó có giá trị lắm.
-Rất có giá trị. Minh thạch là nguyên nhân trước hết vì sao Kagan muốn kiểm soát Milago. Nhờ minh thạch mà Bedoowan trở nên giàu có. Họ buôn bán với tất cả con buôn tại Denduron. Chừng nào Milago còn khai thác được những mỏ minh thạch, Kagan vẫn còn là một chúa tể hùng mạnh.
Như vậy, Kagan và bộ lạc Bedoowan không chỉ là những con bò lười biếng, chúng còn là những con bò tham tàn, ép buộc bộ lạc Milago làm thay cho chúng những công việc cực nhọc, bẩn thỉu. Hơi bị khôn. Mình vừa định hỏi thêm, nhưng tiếng trống bỗng ngưng bặt và một sự im lặng đầy vẻ đe dọa trùm phủ khắp làng.
Bốn người thợ mỏ khệ nệ vác bốn giỏ minh thạch lên khán đài, rồi thận trọng đặt xuống. Không khí chứng tỏ buổi lễ sắp bắt đầu. Buổi “Chuyển giao” như lời Loor nói.
Đúng lúc đó mình nghe tiếng vó ngựa. Có người đang phóng nhanh tới từ hướng con đường mòn xuyên rừng mà mẹ con bà Osa và mình mới từ đó đi ra biển. Điều lạ lùng là không một ai quay lại nhìn, ngoại trừ mình.
Khi con ngựa phóng từ trong rừng ra, mình thấy gã kỵ sĩ có vẻ rất tự tin, như biết trước việc phải làm. Đó là một gã cao lớn, tóc đen dài, mặc bộ giáp da giống như của mấy gã hiệp sĩ, nhưng có vẻ hiếm khi lâm trận. Giáp của mấy gã kia nhàu nát, còn giáp của tay kỵ sĩ này sạch bong, thẳng thớm. Khi hắn cho ngựa phi nước kiệu về phía đám đông dân làng, họ dạt sang hai bên, nhường lối cho hắn tiến tới khán đài. Mình nghĩ, nếu dân làng đứng yên, gã này dám phóng ngựa xới tung mọi người lên lắm. Chưa gì mình đã thấy ghét thằng cha này. Mình thì thầm hỏi:
-Có phải Kagan đó không?
Mẹ con bà Osa trao đổi cái nhìn đầy ẩn ý, như có điều gì đang xảy ra mà họ không muốn cho mình biết. Mình không thích lối nhìn nhau của hai mẹ con họ chút nào. Nhưng bà ta cũng trả lời mình:
-Đó là Mallos, quân sư của Kagan.
Mallos, Kagan, Osa, Loor, Figgis… Toàn những cái tên cụt ngủn. Chẳng lẽ ở đây chỉ có mình là kẻ duy nhất đủ họ tên đàng hoàng.
Cái gã Mallos đó phóng ngựa thẳng lên khán đài và dừng lại. Mình đoán buổi trình diễn sắp bắt đầu. Hắn ngồi trên ngựa, lướt nhìn đám đông bên dưới cứ như hắn là chủ nhân của họ. Không người Milago nào nhìn lại hắn. Tất cả đều cúi đầu, tránh ánh mắt của Mallos. Chẳng phải thiên tài cũng có thể đoán là họ kiếp sợ hắn. Bỗng Mallos trở mình trên yên, ngửng nhìn lên chỗ bọn mình đang núp trên mái chòi.
Loor gằn giọng thì thầm:
-Rạp mình xuống.
Ai nấy cố ép mình sát mái. Nhưng mình vẫn có thể nhìn thấy Mallos. Trong khi con ngựa hất rung bụi đất, hắn vẫn lặng lẽ ngồi trên yên, nhìn về phía bọn mình, cứ như biết bọn mình đang ở đó. Không thể nào. Không cách nào hắn nhìn thấy bọn mình được.
Rồi, khi nhìn lại hắn, mình giật thót người. Kinh ngạc đến nghẹn thở. Mình nghĩ đó là do đôi mắt của hắn. Dù hắn cách xa mình đến như vậy, mình vẫn nhận ra đôi mắt xanh lạnh lẽo đó. Làm sao có thể quên được?
Bà Osa và Loor đều cảm thấy sự ngạc nhiên của mình và nhìn mình dò hỏi. Mình nói nhỏ:
-Saint Dane.
Loor giật mình hỏi:
-Mi biết hắn sao?
-Biết. Hắn đã cố ý giết tôi khi còn ở trái đất, trước khi tôi theo ống dẫn tới đây.
Chính mình cũng không tin những lời vừa thốt ra. Biết bao điều đang xảy ra trong câu nói ngắn ngủi đó. Mới hai mươi bốn giờ trước thì chuyện đó nghe như chuyện hoang đường, nhưng ngay lúc này đây thì chẳng hoang đường chút nào. Bà Osa và Loor lại trao cho nhau cái nhìn lo lắng.
Rồi Loor thì thào hỏi:
-Hắn theo mi đến Trái Đất Thứ Hai ư?
Mình chỉ nhún vai gật đầu. Cô ta nhìn mình lom lom, ánh mắt hoàn toàn không còn chút miệt thị nào. Trước lúc đó cô ta luôn tỏ ra mình không bằng cỏ rác. Bây giờ cái nhìn của cô … đầy vẻ thắc mắc. Có lẽ lý do mình đối đầu với Saint Dane mà còn sống sót, chứng tỏ mình không quá… nhu nhược như cô ta tưởng. Tất nhiên mình chẳng dại gì cho cô ta biết “hành động đối đầu” của mình là… chỉ biết cắm đầu mà chạy. Ngu sao mà nói!
Nhìn xuống cái gã Saint Dane, hay Mallos, hay bất cứ danh xưng gì hắn tự xưng, mình càng sôi sục muốn… về nhà. Nhưng chuyện đó khó lòng có thể xảy ra. Lúc này mình đang kẹt trên mái chòi này, nhìn xuống thằng cha đã từng cố ý giết mình. Hắn có thấy mình không? Có thúc ngựa xông thẳng tới cái chòi này không? Bọn mình đang kẹt cứng trên mái, chỉ còn biết cố nín thở, nằm im.
Thời gian như kéo dài bất tận, nhưng sau cùng Saint Dane quay đi. Mình nhẹ thở lại. Với một cái ngoắc tay, hắn nói dứt khoát:
-Bắt đầu.
Oa! Saint Dane nói tiếng Anh! Hắn biết tiếng Anh? Hay hắn cũng là một lữ khách nên mình nghe hiểu? Thắc mắc này đành phải chờ, vì sự kiện chính đã bắt đầu. Một trong bốn người thợ mỏ bước tới trước. Đó là một người to lớn và cử chỉ của ông ta cho mình biết ông là cấp chỉ huy. Không biết chuyện gì sắp xảy ra, nhưng con người này dường như không chút vui vẻ với trọng trách đó. Mỗi hành động đều như gượng ép, như bị bắt buộc làm một việc đầy đau khổ.
Bà Osa thì thầm:
-Đó là Rellin. Đội trưởng thợ mỏ.
Lại một cái tên nữa cần phải nhớ. Rellin bước lên khán đài, rồi quay lại đám đông, chỉ tay vào một người. Đám đông rẽ ra, để một người đàn ông bước lên khán đài. Người đàn ông lòng khòng gầy gò đó tiến tới, ngồi lên cái ghế trên một đầu cầu bập bênh. Đầu kia nhẹ hẫng, nên đầu phía anh ta ngồi xà xuống sát mặt sàn khán đài. Rellin ra hiệu cho nhóm thợ mỏ, và ba người đó bắt đầu kéo lê cái giỏ chất đầy minh thạch lên khán đài, đặt gần đầu kia cầu bập bênh. Họ làm gì vậy? Cân trọng lượng anh chàng gầy gò bằng đá sao? Bà Osa cắt nghĩa:
-Mỗi ngày đều có một buổi Chuyển giao. Mallos chọn một người Milago để quyết định trọng lượng đá phải khai thác ngày hôm sau.
Mình đã nghĩ đúng. Chính xác là họ đang sắp cân đá với người. Cái bập bênh to đùng chính là cái cân. Mấy người thợ mỏ vừa định nhấc mấy hòn đá đầu tiên lên, Mallos bỗng quát lớn.
-Không.
Mấy người thợ mỏ ngừng tay. Tất cả nín thở chờ đợi. Saint Dane quan sát đám đông, rồi chỉ tay, lạnh lùng nói:
-Thằng đó.
Tiếng rì rào bất mãn lan trong đám đông. Hai gã hiệp sĩ thô bạo xô dạt dân làng, túm lấy người đàn ông Saint Dane vừa chỉ. Ông ta to béo hơn anh chàng đầu tiên nhiều. Rellin tỏ ra không ưa qui luật mới thay đổi này. Ông kêu lên:
-Mallos ca!
Với vẻ tức giận, người đội trưởng trách móc một tràng với Mallos. Mình không viết lại đây, vì bạn biết rồi đó, mình không hiểu gì hết ngôn ngữ của ông ta. Nhưng mình cho bạn biết những gì bà Osa đã thông dịch lại: “Mallos đã chọn một đối tượng khác cho lễ Chuyển giao. Rellin bảo như vậy là không công bằng. Ông ta đang năn nỉ Mallos áp dụng sự chọn lựa của chính hắn ngày hôm qua.”
Mình hiểu vì sao. Người đàn ông Mallos mới chọn nặng hơn nhiều. Số đá khai thác đủ cân với người được chọn hôm qua không cách gì cân bằng với người hắn vừa mới chọn. Rellin kêu gọi sự công bằng. Saint Dane không chút nao núng. Hắn nhìn Rellin như nhìn loài sâu bọ. Một tên hiệp sĩ xông tới, dùng cây giáo đập ngang mặt Rellin. Rellin lảo đảo, quay vòng, mắt tóe lửa căm hờn. Gò má ông máu chảy ròng ròng. Mình có thể nói ông ta đã phải nín thở kiềm chế để không nhào vào bóp cổ gã kia. Vậy là khôn ngoan, vì mấy gã hiệp sĩ còn lại đang đứng vây quanh, tay lăm lăm vũ khí sẵn sang nện ông ta nhừ tử.
Saint Dane ra lệnh:
-Nhìn ta đây, Rellin.
Rellin ngước nhìn kẻ thù đang ngồi trên ngựa.
-Là một thần dân trung thành, đáng lẽ mi phải cố gắng phục vụ Kagan hơn cả những gì được giao phó. Có phải mi muốn nói là giảm thiểu tối đa công việc là điều cần thiết, đúng không?
Giọng cao ngạo của Saint Dane làm mình sôi máu. Rellin trả lời với sự phẫn uất kiềm chế. Bà Osa dịch lại: “Rellin bảo khai thác mỏ đá vô cùng khó khăn và nguy hiểm. Mỗi gờ-ram đã phải trả giá đắt của mồ hôi và máu. Tuy nhiên họ sẽ cố gắng hết mình.”
Saint Dane cười khểnh:
-Để coi.
Với một cái phẩy tay của hắn, một tên hiệp sĩ nhảy lên khán đài, túm lấy anh chàng gầy gò đang ngồi trên một đầu bập bênh, kéo xuống. Hai tên hiệp sĩ khác lôi ông to béo, ấn vào thay thế. Khiếp đảm , ông ta nhìn Rellin cầu cứu, nhưng Rellin đành đứng bất động. Saint Dane lên tiếng:
-Bắt đầu đi.
Mấy người thợ mỏ nhìn Rellin, ông ta nhẹ gật đầu. Không còn lựa chọn nào khác nữa, họ bắt đầu chuyển đá từ giỏ đầu lên đầu bên kia của bập bênh. Mình hỏi bà Osa:
-Chuyện gì xảy ra nếu không đủ trọng lượng?
-Hy vọng là cháu không phải thấy cảnh đó.
Mấy người thợ mỏ hấp tấp đặt đá lên cân, những hòn lớn trước, rồi tới nhưng hòn nhỏ kích cỡ bằng những viên cẩm thạch. Tất cả dân làng đỏ dồn mắt chăm chú vào cái cân. Mình nghĩ không ai còn thở nổi. Vì chính mình cũng vậy. Rồi cầu bập bênh nhuc nhích khi những người thợ mỏ mới chuyển được phân nửa số đá. Rất từ từ, bên kia đầu cân, người đàn ông to béo bắt đầu được nâng lên. Mặt ông ta bắt căng thảng hẳn. Có lẽ rốt cuộc số đá cũng đủ để cân bằng với cơ thể nậng nề của ông. Với niềm hy vọng mới, thợ mỏ sốt sắng tiếp tục chuyển đá lên cân. Người đàn ông nặng nề được nhấc bổng lên không.
Mình cả thấy đám đông như hoàn hồn trở lại. Họ sắp thoát nạn. Ngày hôm nay họ đã khai thác được số đá nhiều hơn, đủ để đáp ứng đòi hỏi của Saint Dane. Chỉ cần them vài viên nhỏ nữa, hai bên đầu sẽ hoàn toàn cân bằng. Nếu đây là một trò chơi xổ số, chắc đám dông đã nhảy nhổm lên reo mừng. Nhưng đây không phải là một trò chơi. Dù mình cảm thấy niềm hân hoan như trút được gánh nặng của họ, nhưng không người nào để lộ ra. Mình chỉ thấy họ âm thầm trao đổi nhau một thoáng cười. Kể cả Rellin cũng có vẻ nhẹ nhõm, dù cố đè nén. Biểu hiện chiến thắng ngay trước mặt Saint Dane không phải là một điều khôn ngoan.
Saint Dane không tỏ phản ứng gì. Mình Không thể nói hắn mừng vì thợ mỏ đã khai thác vượt quá sô lượng rất nhiều, hay bực tức vì người Milago đã kịp đáp ứng sự thách thức không công bằng của hắn.
Saint Dane xoay lưng nhảy xuống ngựa, lên khán đài rồi nhìn hai đầu cân bằng của cái bập bênh, nhếch mép cười. Đột nhiên đám đông căng thẳng trở lại. Saint Dane đang làm gì vậy? Hắn nhìn người đàn ông to lớn đang lắc lư trwwn một đầu cân. Ông ta cúi gằm mặt, tránh ánh mắt hắn. Bước lại gần giỏ đá bên một đầu cân, Saint Dane nói:
-Khá lắm, Rellin. Tụi bay đã khai thác được số lượng khá lớn…
Bỗng ngừng bặt, hắn cúi xuống giỏ đá. Khắp đám đông, mọi người bắt đầu nắm chặt tay nhau để có thêm sức mạnh. Nhìn vào giỏ đá, Saint Dane lên tiếng:
-Rellin, mi làm ta ngạc nhiên đấy. Trong giỏ có một hòn đá không phải minh thạch ròng.
Rellin xông lên, định chạy lại cái giỏ, nhưng bị hai gã kỵ sĩ giữ lại. Rellin gào lên mấy tiếng với Saint Dane. Vô ích. Lấy ra từ trong giỏ một hòn minh thạch lớn nhất, Saint Dane đưa lên cao. Lập tức, cán cân nghiên về một bên, quăng mạnh người đàn ông nặng nề lên mặt khán đài. Saint Dane tiến lại, di hòn đá sát mặt Rellin, nghiến răng nói:
-Mi quá rõ, Kagan chỉ chấp nhận minh thạch ròng thôi.
Dù không là nhà địa chất học, mình cũng thấy hòn đá đó giống hệt mẻ đá còn lại. Saint Dane lại giở trò thay đổi luật chơi. Với vẻ buồn rầu giả bộ, hắn hỏi:
-Bây giờ mi muốn biết chuyện gì phải xảy ra rồi chứ?
Rõ ràng người đàn ông to lớn cũng biết chuyện gì sẽ xảy ra. Ông ta lết chân rồi nhảy xuống khỏi khán đài, hòng thoát khỏi đó. Nhưng mấy tên hiệp sĩ đã túm chặt ông ta lại.
Mình hỏi bà Osa:
-Chuyện gì đang xảy ra vậy?
Bà không trả lời, đôi mắt buồn rầu chăm chú theo dõi cảnh tượng trước mặt. Dù sao, mình cũng đoán sắp được thấy câu trả lời, và quay lại nhìn cảnh cuối của vở kịch.
Một gã hiệp sĩ vội vàng nắm sợi dây xích nặng nề nối với một đầu khán đài bằng gỗ, kéo mạnh. Nửa sàn khán đài nâng lên như cánh cửa hầm. Bên dưới trông như… không có gì. Khán đài được dựng trên một cái hố khổng lồ.
Vẫn chăm chăm nhìn cảnh tượng đó với ánh mắt buồn rầu, bà Osa nói:
-Đó là đường thông mỏ đầu tiên được đào tại làng Milago này. Hầm khai thác đó thăm thẳm khỏi tầm mắt. Ta e rằng dưới đấy, có rất nhiều bộ xương cô đơn lạnh lẽo.
Đầu óc mình rối bời, không thể tin nổi những gì đang thấy: chúng sắp ném người đàn ông này xuống đường thông mỏ!
-Sao người Milago không có một hành động nào? Họ có cả mấy trăm người, sao không ngăn chuyện này lại?
Trong khi mình lải nhải nói, thì người đàn ông đã bị ấy tên hiệp sĩ kéo gần tới cái miệng hố toang hoác.
Ông ta gào lên:
-Bagga! Bagga va por da pey!
Tiếng gào thật khủng khiếp. Không một ai trong đám đông nhúc nhích. Kể cả Rellin. Dường như họ biết là vô ích. Mình nhận thấy kế bên, Loor đưa tay ra sau lưng nắm cây vũ khí bằng gỗ. Nhưng bà Osa nhẹ nhàng đưa tay ngăn con gái:
-Con biết là chưa tới thời điểm mà.
-Lúc đầu Loor không buông tay khỏi vũ khí. Mình cảm thấy cô ta rất căng thẳng. Chỉ một cú thúc thôi là cô ta sẽ ở dưới đó, tả xung hữu đột. Nhưng hôm nay chưa phải lúc. Cô nhìn trừng trừng cảnh tượng bên dưới, rồi lỏng tay dần.
Mấy gã vệ sĩ kéo ngưới đàn ông đang gào thét tới trước mặt Saint Dane. Hắn lạnh lung tàn nhẫn nói:
-Nếu không tham ăn tới mập ù như vậy thì đâu đến nỗi phải chết hôm nay.
Nói xong hắn hất đầu với đám hiệp sĩ. Chúng kéo ngay người đàn ông khốn khổ vẫn đang kêu la tới cửa hầm. Ông ta năn nỉ:
-Ca… ca! Magga con dada pey! Maga con dada! Moy fol vợ và hai con! Xin tha cho tôi! Tôi còn phải lo cho vợ con!
Cảnh tượng quá khiếp đảm đến nỗi mình không nhận ra cho tới khi mình… chợt sững người. Mình đã hiểu được ông ta! Rõ ràng là tiếng Anh, nhưng không có lý nào ông ta bất ngờ thay đổi ngôn ngữ? Bà Osa bảo Lữ khách có khả năng nghe được mọi ngôn ngữ, và thình lình mình hiểu người đàn ông này nói gì! Rốt cuộc, có lẽ mình là một Lữ khách thật rồi.
Nhưng sau này mình mới nghĩ tới chuyện đó. Ngay lúc này mình đang chứng kiến giây phut thắt ruột mà mình không bao giờ tưởng tượng nổi. Hai gã hiệp sĩ kéo người đàn ông tới gần miệng hố. Thình lình một người phụ nữ nhảy ra từ đám đông, cố kéo ông ta khỏi mấy tay đao phủ. Nước mắt đàm đìa, bà ta kêu gọi lòng thương xót của chúng. Chắc đó là người vợ. Nhưng nỗ lực đầy can đảm của bà không đi tới đâu. Một tên hiệp sĩ nắm lấy bà, quăng xuống đất. Bà ta nằm trên cỏ nức nở khóc.
Khi bị đẩy tới sát miệng hầm, người đàn ông bỗng ngừng than vãn, rên rỉ. Ông ta không khóc lóc van xin nữa, không vùn vẫy, mà đứng thẳng người. Mark, tin không? Nét mặt ông ta gần như điềm tĩnh. Mấy gã hiệp sĩ không biết phải phản ứng ra sao. Chúng chưa từng gặp kẻ nào bình tĩnh trong khoảnh khắc thê thảm nhất trong cuộc đời như thế này.
Người đàn ông to lớn quay lại, đối diện Saint Dane, rồi bằng giọng mạnh mẽ, dứt khoát, ông nói:
-Điều ân hận duy nhất của tao, là không sống tới ngày được thấy Kagan cũng phải chịu những đau khổ nhục nhằn như chúng tao đã từng phải chịu.
Saint Dane chặc lưỡi, nói:
-Không đứa nào trong chúng mày sống lâu đến thế đâu, vì ngày đó sẽ chẳng bao giờ có.
Rồi hắn nhẹ hất đầu, nhẹ và nhanh đến gần như không thể nhận ra. Hai gã hiệp sĩ xô người đàn ông xấu số xuống hầm. Vợ ông ta rú lên. Nhưng người đàn ông không thốt một lời. Mới một giây ông ta còn đó, giây sau ông ta đã… biến mất! Cầu cho cái chết đến thật nhanh và ông sẽ được tới một thế giới tốt lành hơn cái làng khủng khiếp này.
Gã hiệp sĩ buông sợi xích, sàn gỗ đổ rầm xuống. Saint Dane bước tới Rellin. Rellin nhìn thẳng mắt hắn. Hắn chỉ tay vào người đàn bà đang nức nở:
-Chúng ta sẽ dùng mụ ta cho buổi Chuyển giao ngày mai. Mụ có vẻ nhẹ cân. Sẽ là một ngày nhàn nhã đấy. Hãy cám ơn tấm long ta đã ân cần lo lắng cho các ngươi đi.
Rellin nhìn Saint Dane và một thoáng giây mình đã tưởng ông ta sẽ nhổ nước bọt vào mặt hắn. Nhưng không. Trái lại Rellin nghiến răng nói:
-Cám ơn.
-Không có chi.
Saint Dane nói với một nụ cười. rồi hắn rảo bước tới con ngựa, nhảy lên yên và trước khi phóng đi, một lần nữa hắn nhìn lại phía mình và mẹ con bà Osa đang núp. Thật ra, cứ như hắn đang nhìn thẳng vào mình thì đúng hơn. Mình cảm thấy điều đó. Hắn biết mình đang ở đây. Phải chăng tất cả chuyện này là một màn trình diễn dành cho mình? Saint Dane ha hả cười, thúc ngựa phóng qua đám đông bàng hoàng, trở lại lâu đài Bedoowan.
Đám hiệp sĩ dùng giáo xua mấy người thợ mỏ tới giỏ đá. Họ phải vác số đá quí này tới Kagan. Đó là công việc dành cho kiếp nô lệ của họ. Mấy người thợ mỏ nâng giỏ đá khỏi cầu bập bênh và nặng nề tiến bước tới lâu đài. Dân làng còn lại tản mát dần. Không một tiếng nói thốt ra. Vài người tiến lại an ủi người phụ nữ khốn khổ mới mất chồng, hầu hết nhũng người khác lặng lẽ về nhà. Họ đã từng trải qua chuyện khủng khiếp này, và chắc chắn sẽ còn gặp lại.
Nhưng mình thì không. Mình phẫn nộ đến điên người. Mình vừa chứng kiến một con người bị giết một cách lạnh lùng. Cái chết còn ghê tởm hơn gã vô gia cư bị Saint Dane thôi miên trong hầm tàu điện ngầm New York. Chuyện đó dễ sợ nhưng dường như không thật. Còn chuyện này quá, quá thật và mình không sao hiểu nổi. Tất cả đã làm mình quá xúc động. Phải, mình chẳng xấu hổ gì khi phải thú thật với bạn, Mark à, rằng mình đã khóc. Nước mắt giận dữ và sợ hãi. Khóc vì buồn thương người đàn ông mình chưa hề quen biết. Và vì gia đình của ông ta. Cóc cần quan tâm mình đang khóc trước mặt Loor hay bất kỳ ai. Mình mất bình tĩnh rồi. Mình gào lên với bà Osa:
-Sao họ không làm gì? Họ có thể đoàn kết lại trước tụi hiệp sĩ. Họ có thể đẩy lùi chúng. Tại sao họ không ngăn chuyện kia lại?
Mình xúc động bao nhiêu, bà Osa bình tĩnh bấy nhiêu:
-Nếu họ làm bất cứ điều gì, Kagan sẽ đưa quân đến trừng phạt ngay. Họ đâu còn chọn lựa nào khác nữa.
Mình nhìn Loor và ngạc nhiên cô cũng tỏ ra rất xúc động. Có lẽ không ồn ào như mình, nhưng vẻ lạnh lùng của cô không còn nữa. Thậm chí mình còn tưởng như thấy mắt cô long lanh ướt. Có lẽ dưới vỏ ngoài gai góc là một con tim nhân ái chăng?
Tuy nhiên mình vẫn không chịu nổi những lời cắt nghĩa của bà Osa. Mình kêu lên:
-Thì đã sao? Họ nên làm gì đó chứ. Nếu không làm gì, thì sẽ không bao giờ chấm dứt được chuyện này.
Bà Osa đặt tay lên vai mình, lập tức mình cảm thấy bình tĩnh lại. Nhưng những lời bà nói sau đó, thật tình mình chẳng muốn nghe chút nào:
-Pendragon, họ sắp hành động đó. Họ sắp tự nắm lấy vận mệnh, nổi lên chống lại Kagan. Đó là lý do vì sao chúng ta có mặt tại đây. Chúng ta sẽ giúp họ. Cháu sẽ giúp họ.
Những lời nói làm mình như bị sét đánh. Cậu Press đã bảo mình là một số người cần cậu cháu mình giúp đỡ, nhưng mình đâu có ngờ cậu nói đến toàn thể một ngôi làng sống dưới sự hà khắc của một đạo quân tàn bạo, lạnh lùng giết người như ngóe. Thật điên rồ. Mình rất thương những con người này, nhưng mình chẳng thể làm gì để giúp họ được. Dù Loor gai góc, khó chịu đến thế nào, mình cũng không ngán, nhưng tụi hiệp sĩ kia là lũ sát nhân. Vả lại, bọn mình chỉ có ba… nếu tính cả cậu Press cũng chỉ là bốn. Làm sao bọn mình có thể chống lại cả một đạo quân? Thật điên rồ! Ngay lúc đó, mình quyết định nếu có dịp là chuồn ngay khỏi đám người nhì nhằng mơ hồ này, quay lại cái ống dẫn kia. Nếu nó đã đưa mình tới đây, chắc phải có cách đưa mình về nhà. Mình sẽ tìm cách thoát khỏi đây và hôn chào vĩnh biệt nơi này, dù cho có cậu Press hay không.
Danh sách chương