Tư Mã Khôi vụt hiểu mình đã mắc lừa, giống như truyền thuyết núi Lan Khả, thời gian ở đây tồn tại những quỹ tích khác nhau, khe nứt phía trong bia đá thật sự có tồn tại. Nếu ví thời gian với cuốn băng, ta sẽ thấy nó có khả năng chạy đi, khả năng tua lại và cả khả năng đứng yên tương đối, vậy thứ bị tấm bia đá nhốt trong động là con quái vật có năng lực vận hành cuốn băng theo ý mình, còn thời gian trong động đạo không ngừng lặp đi lặp lại là vì nó muốn ép đội khảo cổ phải nghĩ cách dùng thuốc nổ thoát thân, khoảnh khắc phát nổ sẽ khiến thời gian quay như bay về quỹ đạo thông thường, nhờ đó sẽ phá hủy được tấm bia đá Bái Xà chắn ngoài cổng.
Ba người còn lại nhìn thấy tấm bia cũng tỉnh ngộ ngay tức khắc, nhưng mọi chuyện đã quá muộn, dây dẫn cháy đến mức không thể dập tắt nổi nữa, vạn niệm trong lòng nguội lạnh, giờ họ chỉ còn biết nhắm mắt chờ chết.
Hải ngọng đột nhiên máu bốc lên đầu, thò tay giật lấy cuộn thuốc nổ, nằm đè người lên, định dùng thân thể làm giảm bớt sóng xung kích của vụ nổ, nhưng dây dẫn cháy đến tận cùng mà cuộn thuốc vẫn chẳng thấy động tĩnh gì, không chịu nổi giày vò, Hải ngọng điên tiết chửi đổng: “Con mẹ nó, xui gì mà xui tận mạng, muốn chết cho thống khoái mà cũng vất vả thế không biết?”
Thắng Hương Lân thầm ngạc nhiên, thời gian trong động đạo khôi phục bình thường, chính là khoảnh khắc vụ nổ diễn ra, theo lý mà nói lúc cả hội còn chưa kịp hiểu ngô khoai gì, thì đã bị nổ banh xác mới đúng, nhưng sao đến tận giờ vụ nổ mãi chưa xảy ra nhỉ?
Lúc này, Tư Mã Khôi lại gần, kéo Hải ngọng dậy, thì thào vào tai: “Nãy tớ vừa nghịch cuộn thuốc nổ tí đấy, không nổ nữa đâu mà sợ, nhân lúc nhìn thấy bia đá, mau chạy ra ngoài động thôi!”
Thì ra, khi bắt tay chuẩn bị cuộn thuốc, Tư Mã Khôi đã lo sợ vụ nổ sẽ ảnh hưởng đến tấm bia đá. Anh nghĩ, từ lúc chạm trán Nấm mồ xanh trong núi Dã Nhân ở Miến Điện đến giờ, chưa bao giờ anh gặp vận may, mà mấy năm trước đó cũng thế, lớn lên giữa thời thế loạn lạc, chọn lối nào đi cũng gập ghềnh khúc khuỷu, có thể nói vận rủi luôn luôn kề vai sát cánh bên anh, tuy nhiều lần may mắn thoát chết, nhưng chẳng thà chết được còn nhẹ nhàng hơn, bây giờ anh cũng nghĩ thông suốt rồi, nếu đã không thể trốn tránh nó, chi bằng hãy nghĩ cách biến nó thành người bạn đồng hành của mình.
Sự việc toàn phát triển theo chiều hướng xấu, thì có gì khó đoán nữa đâu, bất kể đội khảo cổ tính toán kín kẽ đến độ nào, cuối cùng cũng vẫn dẫn đến kết quả: tấm bia bị phá hủy. Vì muốn đi vòng qua kết quả do vận rủi mang đến, nên lúc nhận cuộn thuốc nổ từ tay Hải ngọng, anh âm thầm gỡ dây dẫn nổ của ống kíp, anh hành động lặng lẽ, thần không biết quỷ không hay, quả nhiên lúc này đã xoay chuyển được cục diện. Anh lại phát hiện thứ bị tấm bia đá nhốt chặt có thể khiến khe nứt giống như động không đáy khép lại và mở ra, một khi rơi vào trong khe nứt, với khả năng người trần mắt thịt của đội khảo cổ, dẫu chết cũng đừng mong thoát nổi ra ngoài.
Bất luận sinh vật đáng sợ kia là quái vật phương nào, thì đội khảo cổ vĩnh viễn không thể trờ thành đối thủ của nó, nói cách khác, đội khảo cổ mãi mãi không bao giờ có khả năng giành chiến thắng, điều duy nhất có thể làm bây giờ là nhân cơ hội này chạy thoát ra ngoài tấm bia đá.
Ba người còn lại thấy hành động của Tư Mã Khôi, lập tức hiểu ra nội tình, tất cả đều co cẳng chạy nhanh về phía tấm bia đá.
Trên vách đá loang lổ vệt rêu vẫn còn hình vẽ phù điêu mà người Bái Xà để lại, lúc này chúng đều nằm trong phạm vi chiếu sáng của ánh đuốc, cửa động chỉ cách chỗ cả hội đứng vài bước chân, nhưng hội Tư Mã Khôi còn chưa kịp nhấc chân lên chạy, thì cảm thấy sau lưng có một cánh tay khổng lồ, âm u và lạnh lẽo thò ra, tóm lấy cẳng chân và cánh tay của cả bốn người kéo giật ngược trở lại, mặc cho họ giãy giụa thế nào cũng không thể thoát ra được, họ đành bất lực phó mặc cho cánh tay ấy kéo mình vào trong bóng đêm, tấm bia đá càng lúc càng xa dần trước mắt.
Tư Mã Khôi cảm thấy sau lưng là cả tòa thành địa phủ, nơi đó có vô số con ma đang thò cánh tay quái dị, tóm mấy người còn sống sót kéo xuống cõi âm gian. Cùng với nỗi hãi hùng từ đâu ùa đến, ánh đuốc bỗng vụt tắt, bốn phía bị bóng tối tĩnh mịch nuốt chửng, mọi thứ đều quay trở về trạng thái ban đầu, như thể chưa từng xảy ra bất cứ chuyện gì, không gian chỉ còn tồn tại tiếng thở gấp gáp và tiếng tim đập dữ dội của cả hội.
Mọi người căng thẳng bật đèn quặng lên quan sát, phát hiện cái hộp thiếc vẫn ở dưới chân, cuộn thuốc nổ mất dây dẫn cũng nằm lăn lóc cạnh đó, hai đầu của con đường vẫn đen kin kịt và sâu hun hút, cả hội biết mình lại bị rơi vào kẽ hở thời gian, bất giác cùng đưa mắt nhìn nhau, mặt cắt không còn giọt máu, trong lòng trào lên nỗi sợ chưa bao giờ từng trải qua.
Đúng lúc này có tiếng bước chân vọng đến gần, khuôn mặt trắng nhợt, hốt hoảng ngác ngơ của Nhị Học Sinh một lần nữa lại xuất hiện thấp thoáng trong động đạo thăm thẳm.
Tư Mã Khôi không nói không rằng, giơ tay tung một đấm, nện Nhị Học Sinh không kịp ừ hữ gì đã lăn ra đất mềm như bún. Lúc kích nổ cuộn thuốc súng, Cao Tư Dương đã tận mắt nhìn thấy máu chảy ra từ hai hốc mắt Nhị Học Sinh, trên mặt toát ra quầng tử khí chết chóc, nom không giống người sống chút nào, lúc ấy cô mới biết mình đã trách nhầm Tư Mã Khôi.
Tư Mã Khôi nói với Cao Tư Dương: “Tôi thấy gã Nhị Học Sinh này lai lịch quái đản, tuy mắt tôi không bằng con mắt biệt bảo của bọn giặc đất, chưa thể nhìn gió xem khí, nhưng tôi có thể nhìn xuyên thấu mọi tướng vật trên đời, trên xuyên thiên đình, dưới thấu địa phủ, giữa thấy vạn dặm nhân gian… ”
Hải ngọng nói: “Thế cậu thử mở to mắt nghía xem thằng cha kia rốt cuộc do của khỉ gì biến thành?”
Tư Mã Khôi nói: “Tớ bảo bao lần rồi còn gì, Nhị Học Sinh xuất hiện trong động đạo chẳng qua là thứ quái vật tá thi hoàn hồn, còn chuyện cậu hỏi, tớ cũng không giải thích được, trừ phi hiểu được thứ đang bị tấm bia đá chặn lại rốt cuộc là thứ gì”.
Hải ngọng thở dài: “Cậu nói thế cũng bằng không nói, bôn ba mãi cuối cùng lại trở về điểm xuất phát chỗ cái hộp thiếc, chút nữa chỉ sợ còn phải lòng vòng chán với con quái vật tá thi hoàn hồn, chẳng biết đến lúc nào mọi việc mới kết thúc đây?”.
Thắng Hương Lân thấy cơ thể Nhị Học Sinh vốn yếu ớt, lại mắc chứng Khắc Sơn, rất dễ căng thẳng dẫn đến chuột rút, điều đó sẽ khiến các bó cơ trở nên co cứng và đột tử. Hai lần trước, hắn bị Hải ngọng cầm súng bắn chết, còn lần thứ ba là bị trói, rồi sắc mặt đột nhiên xanh lè, hai mắt chảy máu rồi lăn ra chết. Đó chính là một loại triệu chứng đột tử, bởi vậy không thể cho rằng hẳn là quái vật tá thi hoàn hồn, có lẽ hắn chỉ là một u hồn bị cuốn băng ghi lại mà thôi.
Tư Mã Khôi nói: “Trước đây, tôi cũng tán đồng với giả thiết “cuốn băng tua”, thời gian trong kẽ hở không ngừng tuần hoàn lặp đi lặp lại, hễ Nhị Học Sinh lăn ra chết là thời gian lại nhanh chóng quay trở về điểm xuất phát, ngoại trừ hộp thiếc, đạn trong khẩu súng săn và bốn người chúng ta, thì mọi sự vật trong động không đáy bao gồm cả Nhị Học Sinh đều bay vùn vụt ngược thời gian trở về trạng thái ban đầu, chỉ khi hành động của đội khảo cổ có khả năng phá hủy tấm bia đá, thì cuốn băng liên tục tua đi tua lại ấy mới xuất hiện vết khuyết, có điều bây giờ tôi thấy giả thiết này dường như không chính xác, chúng ta đã bị ‘vòng tuần hoàn’ đánh lừa cảm giác”.
Thắng Hương Lân biết Tư Mã Khôi sẽ không dám mở miệng nói liều trong trường hợp này, nên việc anh khẳng định chắc chắn như vậy, phải chăng đã tìm thấy chứng cứ nào đó?
Tư Mã Khôi soi đèn quặng về phía Hải ngọng, rồi quả quyết: “Chứng cứ nằm ở đây!”
Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương hướng mắt theo ánh đèn, cả hai đều lộ vẻ kinh ngạc đến tột độ, dường như họ đã phát hiện thấy hiện tượng rất đỗi dị thường.
Hải ngọng bị ba người nhìn chằm chằm như vậy, lòng cũng rờn rợn, anh lúng búng phản kháng: “Đúng là chó cắn càn, chứng cứ thì liên quan gì đến tôi cơ chứ?”
Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng: “Cậu cúi đầu nhìn xem trên người cậu có cái gì!”
Hải ngọng đưa mắt nhìn xuôi theo chùm sáng đèn quặng, anh thấy trên người mình lấm tấm vệt máu vẫn còn chưa khô. Lúc trước, anh nổ súng làm đứt cánh tay Nhị Học Sinh, vì đứng quá gần, nên không tránh khỏi bị máu bắn lên quần áo, lúc đó tình hình hỗn loạn, anh cũng chẳng để ý đến, lẽ nào mấy vết máu này có gì bất hợp lý sao?
Thắng Hương Lân lập tức hiểu ra, nếu mọi sự vật trong động đạo đều quay ngược thời gian trở về trạng thái ban đầu, thì máu trên người Nhị Học Sinh bị súng bắn túa ra cũng phải biến mất hết mọi dấu vết mới phải, nhưng bây giờ vết máu vấy lên người Hải ngọng vẫn chưa khô, đồng thời lại có một Nhị Học sinh lành lặn, nguyên vẹn xuất hiện trước mặt đội khảo cổ, điều đó chứng tỏ…
Tư Mã Khôi tiếp lời: “Điều đó chứng tỏ, mỗi lần xuất hiện lại là một Nhị Học Sinh khác nhau, nếu nói ‘tá thi hoàn hồn’, thì có lẽ cùng một âm hồn, nhưng có nhiều cái xác vô hồn làm vỏ cho âm hồn trú ngụ, vết máu và thi thể ba lần trước của ba Nhị Học Sinh đều bị con quái vật mà cả hội không nhìn thấy che giấu, nó cố ý khiến đội khảo cổ ngỡ rằng mình đang trải qua thời gian tuần hoàn, nguyên nhân cụ thể thì đến bây giờ vẫn chưa nghĩ ra, tóm lại, nó muốn ép chúng ta phải sử dụng thuốc nổ để phá hủy tấm bia đá, điều đó chứng tỏ thứ tồn tại phía sau tấm bia đá không chỉ là sinh vật sống, mà nó còn là sinh vật có ý thức”.
Hải ngọng ngạc nhiên hỏi: “Mẹ nó, rốt cuộc là vật gì được nhỉ? Bị nhốt mấy ngàn năm trong động đạo, mà nó vẫn còn sống sao?”
Tư Mã Khôi nói: “Điều này tớ cũng không đoán ra nổi, đừng quên câu này – mọi nguyên nhân phức tạp đều xây dựng trên một kết quả – bây giờ chúng ta cố gắng đừng để tâm đến chuyện sống chết, hãy nghĩ cách tìm ra ‘kết quả’ cuối cùng”.
Hải ngọng nói: “Nhưng hai đầu động đạo đều không thấy điểm tận cùng, đi về phía nào cũng chẳng ra nổi, giờ phải làm sao?”
Tư Mã Khôi thấy Nhị Học Sinh vẫn nằm rạp trên mặt đất, bèn bảo: “Hắn chính là manh mối duy nhất, bây giờ trên người hắn có rất nhiều ẩn số không thể lý giải, đúng như Thắng Hương Lân nói, có lẽ hắn chỉ là một âm hồn bị cuốn băng ghi lại, là một vong hồn bị lạc đường trong động đạo, lúc chúng ta kích nổ bom hẹn giờ, vì hắn bị trói, tuyệt vọng quá độ dẫn đến các bó cơ xơ cứng và đột tử. Chân tướng những việc này chỉ có trời biết, đất biết, chứ người thì chịu chết, chúng ta không thể phân biệt được nên tốt nhất là cứ đánh hắn ngất xỉu cho xong”.
Cao Tư Dương nói với Tư Mã Khôi: “Anh đánh ngất hắn thì làm sao hỏi hắn lối ra nằm ở đâu được?”
Tư Mã Khôi khom lưng cúi xuống, ra hiệu cho ba người ấn đèn quặng lên mặt đất quan sát, trong động đạo có rất nhiều rêu ẩm, vết chân Nhị Học Sinh đi từ đàng xa đến vẫn còn lưu lại rất rõ ràng.
Thắng Hương Lân mừng rỡ nói: “Đúng vậy, chỉ cần lần theo vết chân khi đến của Nhị Học Sinh, sẽ biết hắn mọc ra từ kẽ hở nào”.
Tư Mã Khôi không thể xác định liệu có phải một Nhị Học Sinh này chết đi, sẽ mọc ra một Nhị Học Sinh khác hay không, nhưng người xưa nói chí phải ‘cây dịch chuyển thì chết, người dịch chuyển thì sống’, chỉ cần đi theo vết chân, chắc chắn sẽ phát hiện ra điều gì đó, dẫu sao vẫn tốt hơn ngồi một chỗ mà rầu rĩ, đến lúc ấy nếu không có kết quả thì cùng lắm lại tìm cách khác. Thế là, anh bảo Hải ngọng kéo Nhị Học Sinh đang bất tỉnh nhân sự cùng cả hội lần mò về phía trước theo vết chân trong động đạo.
Bây giờ chỉ còn lại hai cây đuốc, vì vậy chưa đến lúc quan trọng, cả hội tuyệt đối không được sử dụng lãng phí, thể nên mọi người đành bật đèn quặng chiếu sáng, lần mò từng bước tiến về phía trước trong động đạo triền miên đêm đen. Vết chân Nhị Học Sinh để lại không bám sát vào vách động, hắn đi ngoằn ngoèo, ước chừng khoảng hơn ba mươi bước thì không thấy dấu chân trên rêu nữa.
Cả hội dừng bước, quan sát tỉ mỉ, hóa ra chỗ phiến đá trên mặt đất có một khe hở, Tư Mã Khôi lấy tay chạm vào cảm giác có thể nậy lên được, anh liền nậy lên, vừa mở được thì thấy bên trong là một gian thạch thất tối om.
Tư Mã Khôi nghĩ thầm, chắc Nhị Học Sinh bò từ gian thạch thất này ra. Chẳng lẽ hắn là củ cải trong lòng đất, nhổ một củ lại mọc lên một củ khác? Bên trong chắc chắn còn có thứ gì đó.
Bốn người đang định soi đèn quặng nhìn cho rõ, thì Nhị Học Sinh choàng tỉnh dậy, hắn nhìn thấy gian mật thất phía dưới động đạo, cả cơ thể bất giác run rẩy như muốn ngất, hai hàm răng va vào nhau lập cập, hai tay nắm chặt lấy dây ba lô của Hải ngọng không chịu buông.
Ba người còn lại nhìn thấy tấm bia cũng tỉnh ngộ ngay tức khắc, nhưng mọi chuyện đã quá muộn, dây dẫn cháy đến mức không thể dập tắt nổi nữa, vạn niệm trong lòng nguội lạnh, giờ họ chỉ còn biết nhắm mắt chờ chết.
Hải ngọng đột nhiên máu bốc lên đầu, thò tay giật lấy cuộn thuốc nổ, nằm đè người lên, định dùng thân thể làm giảm bớt sóng xung kích của vụ nổ, nhưng dây dẫn cháy đến tận cùng mà cuộn thuốc vẫn chẳng thấy động tĩnh gì, không chịu nổi giày vò, Hải ngọng điên tiết chửi đổng: “Con mẹ nó, xui gì mà xui tận mạng, muốn chết cho thống khoái mà cũng vất vả thế không biết?”
Thắng Hương Lân thầm ngạc nhiên, thời gian trong động đạo khôi phục bình thường, chính là khoảnh khắc vụ nổ diễn ra, theo lý mà nói lúc cả hội còn chưa kịp hiểu ngô khoai gì, thì đã bị nổ banh xác mới đúng, nhưng sao đến tận giờ vụ nổ mãi chưa xảy ra nhỉ?
Lúc này, Tư Mã Khôi lại gần, kéo Hải ngọng dậy, thì thào vào tai: “Nãy tớ vừa nghịch cuộn thuốc nổ tí đấy, không nổ nữa đâu mà sợ, nhân lúc nhìn thấy bia đá, mau chạy ra ngoài động thôi!”
Thì ra, khi bắt tay chuẩn bị cuộn thuốc, Tư Mã Khôi đã lo sợ vụ nổ sẽ ảnh hưởng đến tấm bia đá. Anh nghĩ, từ lúc chạm trán Nấm mồ xanh trong núi Dã Nhân ở Miến Điện đến giờ, chưa bao giờ anh gặp vận may, mà mấy năm trước đó cũng thế, lớn lên giữa thời thế loạn lạc, chọn lối nào đi cũng gập ghềnh khúc khuỷu, có thể nói vận rủi luôn luôn kề vai sát cánh bên anh, tuy nhiều lần may mắn thoát chết, nhưng chẳng thà chết được còn nhẹ nhàng hơn, bây giờ anh cũng nghĩ thông suốt rồi, nếu đã không thể trốn tránh nó, chi bằng hãy nghĩ cách biến nó thành người bạn đồng hành của mình.
Sự việc toàn phát triển theo chiều hướng xấu, thì có gì khó đoán nữa đâu, bất kể đội khảo cổ tính toán kín kẽ đến độ nào, cuối cùng cũng vẫn dẫn đến kết quả: tấm bia bị phá hủy. Vì muốn đi vòng qua kết quả do vận rủi mang đến, nên lúc nhận cuộn thuốc nổ từ tay Hải ngọng, anh âm thầm gỡ dây dẫn nổ của ống kíp, anh hành động lặng lẽ, thần không biết quỷ không hay, quả nhiên lúc này đã xoay chuyển được cục diện. Anh lại phát hiện thứ bị tấm bia đá nhốt chặt có thể khiến khe nứt giống như động không đáy khép lại và mở ra, một khi rơi vào trong khe nứt, với khả năng người trần mắt thịt của đội khảo cổ, dẫu chết cũng đừng mong thoát nổi ra ngoài.
Bất luận sinh vật đáng sợ kia là quái vật phương nào, thì đội khảo cổ vĩnh viễn không thể trờ thành đối thủ của nó, nói cách khác, đội khảo cổ mãi mãi không bao giờ có khả năng giành chiến thắng, điều duy nhất có thể làm bây giờ là nhân cơ hội này chạy thoát ra ngoài tấm bia đá.
Ba người còn lại thấy hành động của Tư Mã Khôi, lập tức hiểu ra nội tình, tất cả đều co cẳng chạy nhanh về phía tấm bia đá.
Trên vách đá loang lổ vệt rêu vẫn còn hình vẽ phù điêu mà người Bái Xà để lại, lúc này chúng đều nằm trong phạm vi chiếu sáng của ánh đuốc, cửa động chỉ cách chỗ cả hội đứng vài bước chân, nhưng hội Tư Mã Khôi còn chưa kịp nhấc chân lên chạy, thì cảm thấy sau lưng có một cánh tay khổng lồ, âm u và lạnh lẽo thò ra, tóm lấy cẳng chân và cánh tay của cả bốn người kéo giật ngược trở lại, mặc cho họ giãy giụa thế nào cũng không thể thoát ra được, họ đành bất lực phó mặc cho cánh tay ấy kéo mình vào trong bóng đêm, tấm bia đá càng lúc càng xa dần trước mắt.
Tư Mã Khôi cảm thấy sau lưng là cả tòa thành địa phủ, nơi đó có vô số con ma đang thò cánh tay quái dị, tóm mấy người còn sống sót kéo xuống cõi âm gian. Cùng với nỗi hãi hùng từ đâu ùa đến, ánh đuốc bỗng vụt tắt, bốn phía bị bóng tối tĩnh mịch nuốt chửng, mọi thứ đều quay trở về trạng thái ban đầu, như thể chưa từng xảy ra bất cứ chuyện gì, không gian chỉ còn tồn tại tiếng thở gấp gáp và tiếng tim đập dữ dội của cả hội.
Mọi người căng thẳng bật đèn quặng lên quan sát, phát hiện cái hộp thiếc vẫn ở dưới chân, cuộn thuốc nổ mất dây dẫn cũng nằm lăn lóc cạnh đó, hai đầu của con đường vẫn đen kin kịt và sâu hun hút, cả hội biết mình lại bị rơi vào kẽ hở thời gian, bất giác cùng đưa mắt nhìn nhau, mặt cắt không còn giọt máu, trong lòng trào lên nỗi sợ chưa bao giờ từng trải qua.
Đúng lúc này có tiếng bước chân vọng đến gần, khuôn mặt trắng nhợt, hốt hoảng ngác ngơ của Nhị Học Sinh một lần nữa lại xuất hiện thấp thoáng trong động đạo thăm thẳm.
Tư Mã Khôi không nói không rằng, giơ tay tung một đấm, nện Nhị Học Sinh không kịp ừ hữ gì đã lăn ra đất mềm như bún. Lúc kích nổ cuộn thuốc súng, Cao Tư Dương đã tận mắt nhìn thấy máu chảy ra từ hai hốc mắt Nhị Học Sinh, trên mặt toát ra quầng tử khí chết chóc, nom không giống người sống chút nào, lúc ấy cô mới biết mình đã trách nhầm Tư Mã Khôi.
Tư Mã Khôi nói với Cao Tư Dương: “Tôi thấy gã Nhị Học Sinh này lai lịch quái đản, tuy mắt tôi không bằng con mắt biệt bảo của bọn giặc đất, chưa thể nhìn gió xem khí, nhưng tôi có thể nhìn xuyên thấu mọi tướng vật trên đời, trên xuyên thiên đình, dưới thấu địa phủ, giữa thấy vạn dặm nhân gian… ”
Hải ngọng nói: “Thế cậu thử mở to mắt nghía xem thằng cha kia rốt cuộc do của khỉ gì biến thành?”
Tư Mã Khôi nói: “Tớ bảo bao lần rồi còn gì, Nhị Học Sinh xuất hiện trong động đạo chẳng qua là thứ quái vật tá thi hoàn hồn, còn chuyện cậu hỏi, tớ cũng không giải thích được, trừ phi hiểu được thứ đang bị tấm bia đá chặn lại rốt cuộc là thứ gì”.
Hải ngọng thở dài: “Cậu nói thế cũng bằng không nói, bôn ba mãi cuối cùng lại trở về điểm xuất phát chỗ cái hộp thiếc, chút nữa chỉ sợ còn phải lòng vòng chán với con quái vật tá thi hoàn hồn, chẳng biết đến lúc nào mọi việc mới kết thúc đây?”.
Thắng Hương Lân thấy cơ thể Nhị Học Sinh vốn yếu ớt, lại mắc chứng Khắc Sơn, rất dễ căng thẳng dẫn đến chuột rút, điều đó sẽ khiến các bó cơ trở nên co cứng và đột tử. Hai lần trước, hắn bị Hải ngọng cầm súng bắn chết, còn lần thứ ba là bị trói, rồi sắc mặt đột nhiên xanh lè, hai mắt chảy máu rồi lăn ra chết. Đó chính là một loại triệu chứng đột tử, bởi vậy không thể cho rằng hẳn là quái vật tá thi hoàn hồn, có lẽ hắn chỉ là một u hồn bị cuốn băng ghi lại mà thôi.
Tư Mã Khôi nói: “Trước đây, tôi cũng tán đồng với giả thiết “cuốn băng tua”, thời gian trong kẽ hở không ngừng tuần hoàn lặp đi lặp lại, hễ Nhị Học Sinh lăn ra chết là thời gian lại nhanh chóng quay trở về điểm xuất phát, ngoại trừ hộp thiếc, đạn trong khẩu súng săn và bốn người chúng ta, thì mọi sự vật trong động không đáy bao gồm cả Nhị Học Sinh đều bay vùn vụt ngược thời gian trở về trạng thái ban đầu, chỉ khi hành động của đội khảo cổ có khả năng phá hủy tấm bia đá, thì cuốn băng liên tục tua đi tua lại ấy mới xuất hiện vết khuyết, có điều bây giờ tôi thấy giả thiết này dường như không chính xác, chúng ta đã bị ‘vòng tuần hoàn’ đánh lừa cảm giác”.
Thắng Hương Lân biết Tư Mã Khôi sẽ không dám mở miệng nói liều trong trường hợp này, nên việc anh khẳng định chắc chắn như vậy, phải chăng đã tìm thấy chứng cứ nào đó?
Tư Mã Khôi soi đèn quặng về phía Hải ngọng, rồi quả quyết: “Chứng cứ nằm ở đây!”
Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương hướng mắt theo ánh đèn, cả hai đều lộ vẻ kinh ngạc đến tột độ, dường như họ đã phát hiện thấy hiện tượng rất đỗi dị thường.
Hải ngọng bị ba người nhìn chằm chằm như vậy, lòng cũng rờn rợn, anh lúng búng phản kháng: “Đúng là chó cắn càn, chứng cứ thì liên quan gì đến tôi cơ chứ?”
Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng: “Cậu cúi đầu nhìn xem trên người cậu có cái gì!”
Hải ngọng đưa mắt nhìn xuôi theo chùm sáng đèn quặng, anh thấy trên người mình lấm tấm vệt máu vẫn còn chưa khô. Lúc trước, anh nổ súng làm đứt cánh tay Nhị Học Sinh, vì đứng quá gần, nên không tránh khỏi bị máu bắn lên quần áo, lúc đó tình hình hỗn loạn, anh cũng chẳng để ý đến, lẽ nào mấy vết máu này có gì bất hợp lý sao?
Thắng Hương Lân lập tức hiểu ra, nếu mọi sự vật trong động đạo đều quay ngược thời gian trở về trạng thái ban đầu, thì máu trên người Nhị Học Sinh bị súng bắn túa ra cũng phải biến mất hết mọi dấu vết mới phải, nhưng bây giờ vết máu vấy lên người Hải ngọng vẫn chưa khô, đồng thời lại có một Nhị Học sinh lành lặn, nguyên vẹn xuất hiện trước mặt đội khảo cổ, điều đó chứng tỏ…
Tư Mã Khôi tiếp lời: “Điều đó chứng tỏ, mỗi lần xuất hiện lại là một Nhị Học Sinh khác nhau, nếu nói ‘tá thi hoàn hồn’, thì có lẽ cùng một âm hồn, nhưng có nhiều cái xác vô hồn làm vỏ cho âm hồn trú ngụ, vết máu và thi thể ba lần trước của ba Nhị Học Sinh đều bị con quái vật mà cả hội không nhìn thấy che giấu, nó cố ý khiến đội khảo cổ ngỡ rằng mình đang trải qua thời gian tuần hoàn, nguyên nhân cụ thể thì đến bây giờ vẫn chưa nghĩ ra, tóm lại, nó muốn ép chúng ta phải sử dụng thuốc nổ để phá hủy tấm bia đá, điều đó chứng tỏ thứ tồn tại phía sau tấm bia đá không chỉ là sinh vật sống, mà nó còn là sinh vật có ý thức”.
Hải ngọng ngạc nhiên hỏi: “Mẹ nó, rốt cuộc là vật gì được nhỉ? Bị nhốt mấy ngàn năm trong động đạo, mà nó vẫn còn sống sao?”
Tư Mã Khôi nói: “Điều này tớ cũng không đoán ra nổi, đừng quên câu này – mọi nguyên nhân phức tạp đều xây dựng trên một kết quả – bây giờ chúng ta cố gắng đừng để tâm đến chuyện sống chết, hãy nghĩ cách tìm ra ‘kết quả’ cuối cùng”.
Hải ngọng nói: “Nhưng hai đầu động đạo đều không thấy điểm tận cùng, đi về phía nào cũng chẳng ra nổi, giờ phải làm sao?”
Tư Mã Khôi thấy Nhị Học Sinh vẫn nằm rạp trên mặt đất, bèn bảo: “Hắn chính là manh mối duy nhất, bây giờ trên người hắn có rất nhiều ẩn số không thể lý giải, đúng như Thắng Hương Lân nói, có lẽ hắn chỉ là một âm hồn bị cuốn băng ghi lại, là một vong hồn bị lạc đường trong động đạo, lúc chúng ta kích nổ bom hẹn giờ, vì hắn bị trói, tuyệt vọng quá độ dẫn đến các bó cơ xơ cứng và đột tử. Chân tướng những việc này chỉ có trời biết, đất biết, chứ người thì chịu chết, chúng ta không thể phân biệt được nên tốt nhất là cứ đánh hắn ngất xỉu cho xong”.
Cao Tư Dương nói với Tư Mã Khôi: “Anh đánh ngất hắn thì làm sao hỏi hắn lối ra nằm ở đâu được?”
Tư Mã Khôi khom lưng cúi xuống, ra hiệu cho ba người ấn đèn quặng lên mặt đất quan sát, trong động đạo có rất nhiều rêu ẩm, vết chân Nhị Học Sinh đi từ đàng xa đến vẫn còn lưu lại rất rõ ràng.
Thắng Hương Lân mừng rỡ nói: “Đúng vậy, chỉ cần lần theo vết chân khi đến của Nhị Học Sinh, sẽ biết hắn mọc ra từ kẽ hở nào”.
Tư Mã Khôi không thể xác định liệu có phải một Nhị Học Sinh này chết đi, sẽ mọc ra một Nhị Học Sinh khác hay không, nhưng người xưa nói chí phải ‘cây dịch chuyển thì chết, người dịch chuyển thì sống’, chỉ cần đi theo vết chân, chắc chắn sẽ phát hiện ra điều gì đó, dẫu sao vẫn tốt hơn ngồi một chỗ mà rầu rĩ, đến lúc ấy nếu không có kết quả thì cùng lắm lại tìm cách khác. Thế là, anh bảo Hải ngọng kéo Nhị Học Sinh đang bất tỉnh nhân sự cùng cả hội lần mò về phía trước theo vết chân trong động đạo.
Bây giờ chỉ còn lại hai cây đuốc, vì vậy chưa đến lúc quan trọng, cả hội tuyệt đối không được sử dụng lãng phí, thể nên mọi người đành bật đèn quặng chiếu sáng, lần mò từng bước tiến về phía trước trong động đạo triền miên đêm đen. Vết chân Nhị Học Sinh để lại không bám sát vào vách động, hắn đi ngoằn ngoèo, ước chừng khoảng hơn ba mươi bước thì không thấy dấu chân trên rêu nữa.
Cả hội dừng bước, quan sát tỉ mỉ, hóa ra chỗ phiến đá trên mặt đất có một khe hở, Tư Mã Khôi lấy tay chạm vào cảm giác có thể nậy lên được, anh liền nậy lên, vừa mở được thì thấy bên trong là một gian thạch thất tối om.
Tư Mã Khôi nghĩ thầm, chắc Nhị Học Sinh bò từ gian thạch thất này ra. Chẳng lẽ hắn là củ cải trong lòng đất, nhổ một củ lại mọc lên một củ khác? Bên trong chắc chắn còn có thứ gì đó.
Bốn người đang định soi đèn quặng nhìn cho rõ, thì Nhị Học Sinh choàng tỉnh dậy, hắn nhìn thấy gian mật thất phía dưới động đạo, cả cơ thể bất giác run rẩy như muốn ngất, hai hàm răng va vào nhau lập cập, hai tay nắm chặt lấy dây ba lô của Hải ngọng không chịu buông.
Danh sách chương