Tư Mã Khôi thấy tấm bia nuốt rắn dựng dưới bức tường vẫn yên ắng im lìm, cũng không có biểu hiện gì khác thường, không biết âm thanh khi nãy phát ra từ đâu, nhưng hễ nhìn vào tấm bia đó, là anh lại lạnh toát sống lưng. Anh trấn tĩnh nhủ thầm, thấy vật quái mà không cho đó là quái, thì nó cũng sẽ tự khắc là bình thường, liền bạo gan soi đèn quặng lại gần, xem kỹ rốt cuộc thế nào.
Tấm bia nuốt rắn này loang lổ, cổ phác, hình thù kì quái. Gọi nó là tấm bia cũng chỉ là cách mà đội khảo cổ dựa vào hình dáng bên ngoài đặt ra, chứ thực tế không ai biết đó là thứ gì, bởi hình khối trên bề mặt như thể khuôn mặt người, nhưng không có đường nét rõ rệt, chỉ mỗi phần chân là chạm khắc cái miệng ma quái đang nuốt rắn, trông vô cùng quái dị và tàn bạo.
Tư Mã Khôi bỗng nhớ lại, ngày xưa có cuốn sách tên là “khu xà thư”, là sách ghi chép các loại bùa chú để thuần phục rắn. Nhiều đời trước, các trưởng môn cái bang thường giữ cuốn cổ thư này, để khi mở ra đọc là bầy rắn bất phân lớn nhỏ đều kéo đến nghe lệnh họ. Rồi mỗi kẻ ăn mày sẽ bắt một con trong số đó lột da, xả thịt nấu bát canh cho ấm dạ. Thế nhưng chiêu này chỉ được đem ra sử dụng vào những năm thực sự đói kém không kiếm nổi miếng ăn, nếu không sẽ phạm vào điều cấm kị. Liệu có phải tấm bia cổ này cũng có khả năng thu hút bầy rắn? Nhưng nhìn xung quanh địa cung này, ngoài hai mươi hai thi thể của thành viên đội khảo sát, thì không phát hiện thấy dấu tích của bất kì sinh vật nào khác.
Lúc này, Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Thi thể của các thành viên đội khảo sát tuy rằng chưa mục nát hẳn, nhưng đầu đã biến dạng, gương mặt khô quắt nghiêm trọng, rất khó đối chiếu với dung mạo ban đầu trong bức ảnh, phải sử dụng kỹ thuật chuyên môn mới kiểm định được”.
Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Thi thể của toàn bộ thành viên đội khảo sát đều nằm ở đây, chứng tỏ bóng ma trong tấm ảnh chỉ là hiện tượng khúc xạ quang học ngẫu nhiên. Có lẽ lúc trước mình đa nghi quá, bây giờ đã phát hiện địa điểm đội khảo sát gặp nạn, lại tìm thấy rất nhiều bản đồ và ghi chép trên các thi thể, thu hoạch cũng không nhỏ, nên phải mau chóng rời khỏi đây thì hơn”. Rồi anh bảo mọi người thu dọn tử thi, chụp ảnh bằng máy ảnh phản quang ống kính đơn K205 làm tư liệu, sau đó nhanh chóng rút lui.
Mọi người quay ra theo đường cũ, nhưng cảm giác càng đi càng thấy bất thường. Tứ phía trong địa cung đều có đường hầm, khu vực ở giữa là chính điện – có tấm bia nuốt rắn, hai bên đường hầm đều có rất nhiều gian động, lúc vào thấy đoạn đường hầm đi từ cửa đến chỗ các tử thi khoảng chừng hai ba trăm mét, nhưng khi đi ra thì không thấy cửa động đâu cả, mà chỉ có bức tường đá lạnh lẽo, sừng sững nằm ở điểm tận cùng.
Hải ngọng hoang mang: “Bọn mình đi lạc rồi, sao lại chạy vào ngõ cụt được nhỉ?”
Thắng Hương Lân nhìn kim la bàn, nghi ngờ nói: “Phương hướng không sai, chắc không phải lạc đường đâu…”
Tư Mã Khôi nghĩ thầm: “Đúng là ghét của nào trời trao của ấy, tòa địa cung này kì quái quá, chẳng lẽ lại có hệ thống ngầm ẩn giấu bên trong, nhốt sống những người bước chân vào đây?”. Có điều, Tư Mã Khôi cũng am hiểu sự biến hóa của hệ thống bẫy ngầm, nên không quá lo sợ, anh bảo mọi người: “Cái nơi quỷ quái này thì nhằm nhò gì, chỉ hù dọa được trẻ lên ba thôi, nếu nắm được nguyên lý tương sinh tương khắc, thì dễ như trở bàn tay ấy mà”.
Nói xong, anh lên trước lần sờ vách tường, nhưng rồi anh lập tức phát hiện sự việc không hề đơn giản như mình nghĩ. Khối đá được tạo từ tro núi lửa cứng chắc, kín bưng không một kẽ hở, ít nhất cũng dày đến bảy tám centimét, bên trong đặc, không hề có thiết bị ngầm nào, cho dù sử dụng lượng lớn thuốc nổ, cũng chưa chắc phá hủy nổi nó.
Đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà lo lắng nói: “Thủ trưởng ơi! Bên dưới tòa thành cổ này chắc có ma rồi, mấy con ma trong đội khảo sát không muốn chúng ta rời khỏi đây rồi!”
Tư Mã Khôi mắng: “Này, đừng có thần hồn nát thần tính nữa. Tôi thấy chuyện này quá nửa là liên quan đến tấm bia nuốt rắn chết tiệt kia, bây giờ có mà chạy đằng trời, chúng ta đành quay về tìm tấm bia cổ quái đó thôi!”
Đội khảo cổ đang định quay đầu trở về, thì thấy một loạt tiếng động văng vẳng bên tai, dường như có vật gì đang bò đến từ nơi sâu trong đường hầm, chúng cọ sát vào vách tường, phát ra âm thanh quái dị nghe sàn sạt, dường như có rất nhiều loài sinh vật cánh cứng. Rồi tiếng động càng lúc càng gần, không những vậy, tốc độ và sức mạnh còn dữ dội như nước triều dâng, thực sự khó lòng đoán được.
Mọi người thất kinh, không biết nơi sâu trong địa cung rốt cuộc xuất hiện thứ gì, nhưng xem chừng kẻ sắp đến không phải hạng tốt đẹp, khẩu xung phong PPS chưa chắc đã cản được bước của chúng. Cả đội đành tháo lui về gian động bên cạnh, rồi hợp lực đẩy cánh cửa đá hình tròn để nó cách biệt hoàn toàn với cửa động dẫn ra đường hầm.
Tư Mã Khôi áp người vào cánh cửa đá nghe ngóng một hồi, loáng thoáng thấy âm thanh phía ngoài đường hầm dường như đều bị chặn trước cánh cửa, anh mới thở phào một tiếng, đang định quay người, thì phát hiện ba thành viên còn lại đứng sững như trời trồng, dường như họ đã nhìn thấy thứ gì không thể tưởng tượng nổi. Tư Mã Khôi thầm nghĩ, trong gian động này thì có thứ gì được chứ? Anh ngẩng đầu nhìn lên và hồn bay phách lạc, thì ra dưới chân tường trong động thất, có một người đang ngồi lặng lẽ.
Người đó vóc dáng tiều tụy, khuôn mặt đầy nếp nhăn, tóc bạc phơ, hai mắt sáng quắc như điện, lão ta đang nhìn chằm chằm hội Tư Mã Khôi, cách ăn mặc giống hệt với các thành viên đội khảo sát tử nạn dưới lòng đất.
Trong khoảnh khắc, Tư Mã Khôi có thể phân biệt người này chắc chắn không phải kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh, bởi vì Nấm mồ xanh giống như u hồn hoặc xác ướp, cái mùi tử khí nặng nề quái dị đó khó có thể che đậy được, nhưng chẳng phải hai mươi hai xác chết của đội khảo sát đều nằm ngoài địa cung sao? Ông già tóc bạc này rốt cuộc là ai?
Lão tóc bạc nhìn chằm chằm hội Tư Mã Khôi như thể đang ngầm đánh giá, bỗng nhiên lạnh lùng mở miệng hỏi: “Các cậu… đến đây tìm ta sao?”
Tư Mã Khôi không đáp mà hỏi lại: “Lão có phải thành viên đội khảo sát kính viễn vọng Lopnor năm 1958 không?”
Lão tóc bạc “hừ” một tiếng rồi nói: “Này hậu bối! Đây là cơ mật quốc gia, ai là lãnh đạo của các cậu? Ta muốn nói chuyện trực tiếp với lãnh đạo của các cậu”.
Hội Tư Mã Khôi nhìn nhau, ai nấy đều cảm thấy trên mình người này tỏa ra một luồng khí thần bí, khó lòng miêu tả được, người này rốt cuộc là ai? Vì sao lại xuất hiện trong địa cung? Lẽ nào cả đội đang chạm trán với u hồn của một trong những thành viên đội khảo sát? Hơn nữa, trong bức ảnh hình như không có người này, chẳng lẽ hắn chính là bóng ma đó?
Tư Mã Khôi cảm thấy tình huống lúc này thật mơ hồ, anh định thăm dò hư thực, liền phân công đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà ra gác cửa, đề phòng trong động bất ngờ xảy ra biến cố, sau đó nói với lão tóc bạc: “Tôi là thủ lĩnh của đội, trước đây còn chụp ảnh cùng chủ tịch nước và bắt tay với thủ tướng rồi đấy…”
Hải ngọng chen ngang: “Chuyện này tôi có thể làm chứng. Lãnh đạo Khôi đúng là đã từng chụp ảnh chung với chủ tịch nước, nhưng là chủ tịch nước Cộng hòa Miến Điện, còn thủ tướng mà cậu ta bắt tay là thủ tướng Lào đấy”.
Lão tóc bạc nghi ngờ hỏi: “Thế nghĩa là các cậu không biết ta là ai hả?”
Tư Mã Khôi thấy đối phương không giữ thái độ ôn hòa, nên cũng chẳng cần khách khí nói luôn: “Trông bộ dạng xui tận mạng của lão thì chắc là một chuyên gia chứ gì?”
Lão tóc bạc gật đầu nói: “Người phàm tục bình thường đều gọi ta như vậy, nghe mãi cũng quen tai!”
Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi và Hải ngọng mồm mép tép nhảy, cứ vòng vo nói đi nói lại mãi thế này, thì biết bao giờ mới có kết quả? Thế là, cô liền kể thật cho lão tóc bạc nghe toàn bộ quá tình từ khi đội khảo cổ tiến vào Đại Sa Bản, vượt địa máng và rừng rậm than đá, tìm thấy trạm thám trắc trung tâm, tiếp theo thoát khỏi sự đeo bám của căn phòng số 86, rồi đào thoát ra ngoài chiếc hộp thời gian, cuối cùng đến được thành cổ trong biển cát. Cô kể tóm tắt tất cả sự việc một lượt, mong giành được sự tin tưởng của đối phương.
Tư Mã Khôi thấy lai lịch ông già tóc bạc rất bất minh, nên sao có thể dễ dàng khai tuốt tuột toàn bộ sự thật về đội khảo cổ cho lão nghe được? Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, thấy đội khảo cổ giờ đây đã đi đến đường cùng, nên những chuyện này cũng không cần thiết phải giữ bí mật nữa, bởi vậy anh cũng không ngăn cản cô, chỉ lặng im đứng bên quan sát xem cuối cùng đối phương sẽ nói gì.
Lão tóc bạc nghe xong bán tín bán nghi, dường như lão đang tự suy đoán xem, câu chuyện Thắng Hương Lân vừa kể là thật hay giả. Trầm ngâm một hồi lâu, sau cùng, lão cũng thừa nhận mình là một trong những thành viên của đội khảo sát liên hợp Trung Xô năm 1958. Còn về việc vì sao lão lại xuất hiện ở đây và rốt cuộc, lúc đó đã xảy ra những chuyện gì, thì hầu hết đều gần với những gì Tư Mã Khôi phỏng đoán, hơn nữa mọi sự kiện đều có liên quan đến tấm bia nuốt rắn trong lòng núi.
Lão nói với hội Tư Mã Khôi:. “Tôi không dám chắc mình hiểu tất cả những chuyện liên quan đến kính viễn vọng Lopnor, tàu ngầm Liên Xô bị mất tích và bí mật của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh, nhưng chí ít cũng biết bảy tám phần, có điều những sự kiện này đan cài vào nhau rất phức tạp, phải kể từ lúc bắt đầu, đó cũng chính là ngày trời đất thành hình.
Từ năm 1543, nhà vật lý thiên văn người Ba Lan Nicolaus Copernicus đã đưa ra một phát hiện mới đầu tiên của thuyết mặt trời là trung tâm, rồi từ đó những thảo luận về sự quay quanh của các thiên thể được quy nạp vào phạm trù khoa học. Sau đó, dần dần hình thành nên các trường phái khác nhau như: thuyết tinh vân, thuyết va chạm hành tinh… Nhưng trên thực tế, những học thuyết liên quan đến khởi nguồn của vũ trụ, cho đến tận bây giờ vẫn chỉ dừng lại ở giai đoạn giả thiết, hoàn toàn không cỏ căn cứ chứng minh.
Trong các mẫu lõi đá mà các nhà khoa học Liên Xô sưu tầm được ở kính viễn vọng Lopnor, có một loại vật chất khoáng quặng tên là Zirconi. Đó là một kim loại chuyển tiếp màu trắng xám, bóng láng, tương tự như Titan. Suy đoán theo năm tuổi đo lường từ mẫu vật này, thì không động nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái đất, ít nhất cũng tồn tại từ cách đây 4 tỉ 600 triệu năm, khi đó, vụ nổ vẫn thạch dưới lòng đất khiến vực sâu cách bề mặt Trái đất mười nghìn mét này bắt đầu xuất hiện ôxy và nước.
Trong khi đó, khoảng thời gian hơn bốn ngàn năm về trước, cũng chính là thời đại của hồng thủy, và chính trong thời điểm này, con người đã phát hiện ra không động dưới lòng đất. Huyệt động trong núi Long Môn khi Vũ Vương đào vét lưu vực sông Hoàng Hà, đã dẫn nước lũ ra đầm lớn, nó chính là Vũ khư mà sử sách vẫn ghi chép, đồng thời cũng là cực vực mà hậu thế sau này vẫn gọi. Tương truyền, mười vạn âm binh dưới lòng đất đã ra sức đào vét sông ngầm, nhờ vậy mới dẫn được nước từ núi Long Môn chảy vào Vũ khư. Mức độ chính xác về các số liệu địa lý mà cổ nhân đo đạc, cũng như độ khó và sự hùng vĩ của các công trình đó, quả thực khiến người đời nay khó lòng tưởng tượng nổi, mà chỉ có thể quy kết là được thần quỷ phù trợ. Kì thực, vì niên đại quá xa xôi, các ghi chép thực tế trong sách cổ lại vô cùng ít ỏi, nên rất nhiều phương pháp cổ xưa đã bị thất truyền”.
Tư Mã Khôi càng nghe càng hiếu kì, tuy ông già tóc bạc này nói có đầu có cuối, nhưng sao lão ta lại hiểu rõ cặn kẽ ngọn nguồn mọi chuyện như vậy nhỉ? Có thể những bí mật này vẫn còn tồn tại trong thành cổ, nhưng từ sau thời Tống thì làm gì còn ai có thể giải mã được chữ triện cổ triều Hạ nữa, vậy lão già này rốt cuộc là người sổng hay là bóng ma trong tấm ảnh hiện thân trở về?
Lúc này, chuyên gia tóc bạc lại càng làm ra vẻ bí mật, nói úp úp mở mở với mọi người: “Niên đại chữ triện cổ triều Hạ xuất hiện còn sớm hơn cả chữ giáp cốt, vì nội dung của nó quá cổ xưa và ảo diệu nên di chỉ sót lại không nhiều, hàng ngàn năm trước nó đã hoàn toàn thất truyền. Nhưng có thể nói không ngoa là thời nay chỉ mỗi mình ta hiểu được chúng, bởi vậy ta mới có thể phá giải những ẩn số kinh động trong cối đời này. Tạm thời các cậu đừng vội gạn hỏi về nguyên nhân ẩn chứa bên trong, mà trước tiên hãy nghe lão đây nói hết đã.
Trong lịch sử tồn tại truyền thuyết “Vũ Vương xiềng giao long”, tương truyền, thời nhà Hạ có con quái vật cổ, thân mình như vượn, mắt vàng răng tuyết, tên là Vô chi kì (1) . Khi Vũ Vương khơi thông sông Hoài Thủy, ông đã thu phục được nỏ, và xiềng nhốt nó trong giếng Hoài Cảnh sâu không thấy đáy. Cũng có quan điểm cho rằng Vô chi kì là con mãng xà lớn, bởi vậy mới xuất hiện truyền thuyết xiềng giao long.
[1] Vô chi kỳ: là con quái vật cổ xưa nhất xuất hiện trong truyền thuyết Trung Quốc. Nó sinh ra ở Hoa Quả Sơn, tự nhận mình là thần sông Hoài Thủy, phép thuật thần thông quảng đại. Về sau Ngô Thừa Ân lấy hình mẫu con quái vật này để xây dựng hình tượng nhân vật Tôn Ngộ Không.
Trên thực tế, thời đó, bên bờ sông Hoài Thủy có một cổ quốc tôn rắn làm thần. Người dân nước này đều sống trong các hang động dưới lòng đất, không biết sử dụng lửa. Do họ nhiều lần đào đường sông, nên dẫn đến nạn lũ lụt hoành hành. Sau khi bị vương triều nhà Hạ hàng phục, họ trờ thành nô lệ và bị đẩy xuống lòng đất đào con kênh ma quỷ. Lợi dụng kết cấu hợp lý sẵn có của các quần thể huyệt động nguyên sinh trong lớp vỏ Trái đất, nhà Hạ đã tạo ra con sông ngầm ngoằn ngoèo trải dài hàng ngàn dặm. Đồng thời, họ còn chôn giấu rất nhiều đồ vật cổ để trấn sông. Đỉnh đồng Vũ Vương cũng bị thất lạc dưới lòng đất chính vào lúc đó. Sau này, một lượng lớn bùn đất trong Hoàng Hà bị chìm lún xuống sâu, lấp kín con sông ngầm dưới lòng núi Long Môn. Mãi đến ngàn năm sau, những nô lệ tộc quỷ đã chạy trốn khỏi lòng đất, thâm nhập sa mạc Tây Vực và trở thành tổ tiên của tộc người Tochari(2) – một phân nhánh nhỏ trong tộc di cư đến Miến Điện vào thời Tần Hán, sau này chính là Diệt Hỏa quốc bị mất tích một cách thần bí dưới lòng đất.
[2] Người Tochari: phiên âm Hán Việt là người Thổ Hỏa La, có tư liệu cho rằng, đó chính là tiền thân của tộc người Nguyệt Chi. Ban đầu họ định cư ở miền đông khu vực lòng chảo Tarim, ngày này thuộc Tân Cương, Cam Túc và Kỳ Liên Sơn ở Trung Quốc, sau đó di cư tới Transoxiana, Bactria (Đại Hạ) và cuối cùng là miền bắc Ắn Độ, nơi họ lập ra Vương triêu Quý Sương.
Thắng Hương Lân thấy chuyên gia tóc bạc kể chuyện lịch sử cổ xưa từ hàng ngàn năm trước mà rõ ràng như thể dọc đường chỉ lòng bàn tay, thì biết tri thức của lão vượt xa người thường. Cô bất giác vừa kinh ngạc vừa thắc mắc, không lý giải được vì sao đối phương lại am tường mọi chuyện đến thế. Hải ngọng và đội trưởng Lưu Giang Hà cũng tròn mắt đứng ngẩn ra nghe.
Chỉ có Tư Mã Khôi là càng lúc càng hoài nghi, anh không muốn tiếp tục nghe chuyên gia tóc bạc huênh hoang kiến thức nữa. Trước khi làm rõ thân phận của đối phương, ai dám tin mấy lời xằng bậy của lão?
Tư Mã Khôi lôi tấm ảnh chụp đội khảo cổ ra, dưới ánh đèn quặng, anh liên tục đối chiếu lão chuyên gia tóc bạc với từng người trong ảnh. Không thấy người nào có dung mạo tương tự với lão, dẫu đối phương là vong linh đã chết từ nhiều năm trước, thì cũng tuyệt đối không phải vong linh của thành viên đội khảo sát liên hợp Trung Xô năm 1958.
Hải ngọng hậm hực nói với Tư Mã Khôi: “Cậu đúng là hạng đa nghi Tào Tháo! Có bao giờ chịu tin ai chưa hả? Trong tấm ảnh chẳng phải có một bóng ma lờ mờ không rõ mặt đấy à? Sao cậu dám chắc người thứ hai mươi hai không phải lão ta chứ?”
Tư Mã Khôi nói: “Tuy khuôn mặt của bóng ma trong tấm ảnh không rõ, nhưng tớ dám chắc thằng cha đó là người Nga, còn chuyên gia tóc bạc mà chúng ta đang gặp này, căn bản không hề xuất hiện trong tấm ảnh”.
Tấm bia nuốt rắn này loang lổ, cổ phác, hình thù kì quái. Gọi nó là tấm bia cũng chỉ là cách mà đội khảo cổ dựa vào hình dáng bên ngoài đặt ra, chứ thực tế không ai biết đó là thứ gì, bởi hình khối trên bề mặt như thể khuôn mặt người, nhưng không có đường nét rõ rệt, chỉ mỗi phần chân là chạm khắc cái miệng ma quái đang nuốt rắn, trông vô cùng quái dị và tàn bạo.
Tư Mã Khôi bỗng nhớ lại, ngày xưa có cuốn sách tên là “khu xà thư”, là sách ghi chép các loại bùa chú để thuần phục rắn. Nhiều đời trước, các trưởng môn cái bang thường giữ cuốn cổ thư này, để khi mở ra đọc là bầy rắn bất phân lớn nhỏ đều kéo đến nghe lệnh họ. Rồi mỗi kẻ ăn mày sẽ bắt một con trong số đó lột da, xả thịt nấu bát canh cho ấm dạ. Thế nhưng chiêu này chỉ được đem ra sử dụng vào những năm thực sự đói kém không kiếm nổi miếng ăn, nếu không sẽ phạm vào điều cấm kị. Liệu có phải tấm bia cổ này cũng có khả năng thu hút bầy rắn? Nhưng nhìn xung quanh địa cung này, ngoài hai mươi hai thi thể của thành viên đội khảo sát, thì không phát hiện thấy dấu tích của bất kì sinh vật nào khác.
Lúc này, Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Thi thể của các thành viên đội khảo sát tuy rằng chưa mục nát hẳn, nhưng đầu đã biến dạng, gương mặt khô quắt nghiêm trọng, rất khó đối chiếu với dung mạo ban đầu trong bức ảnh, phải sử dụng kỹ thuật chuyên môn mới kiểm định được”.
Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Thi thể của toàn bộ thành viên đội khảo sát đều nằm ở đây, chứng tỏ bóng ma trong tấm ảnh chỉ là hiện tượng khúc xạ quang học ngẫu nhiên. Có lẽ lúc trước mình đa nghi quá, bây giờ đã phát hiện địa điểm đội khảo sát gặp nạn, lại tìm thấy rất nhiều bản đồ và ghi chép trên các thi thể, thu hoạch cũng không nhỏ, nên phải mau chóng rời khỏi đây thì hơn”. Rồi anh bảo mọi người thu dọn tử thi, chụp ảnh bằng máy ảnh phản quang ống kính đơn K205 làm tư liệu, sau đó nhanh chóng rút lui.
Mọi người quay ra theo đường cũ, nhưng cảm giác càng đi càng thấy bất thường. Tứ phía trong địa cung đều có đường hầm, khu vực ở giữa là chính điện – có tấm bia nuốt rắn, hai bên đường hầm đều có rất nhiều gian động, lúc vào thấy đoạn đường hầm đi từ cửa đến chỗ các tử thi khoảng chừng hai ba trăm mét, nhưng khi đi ra thì không thấy cửa động đâu cả, mà chỉ có bức tường đá lạnh lẽo, sừng sững nằm ở điểm tận cùng.
Hải ngọng hoang mang: “Bọn mình đi lạc rồi, sao lại chạy vào ngõ cụt được nhỉ?”
Thắng Hương Lân nhìn kim la bàn, nghi ngờ nói: “Phương hướng không sai, chắc không phải lạc đường đâu…”
Tư Mã Khôi nghĩ thầm: “Đúng là ghét của nào trời trao của ấy, tòa địa cung này kì quái quá, chẳng lẽ lại có hệ thống ngầm ẩn giấu bên trong, nhốt sống những người bước chân vào đây?”. Có điều, Tư Mã Khôi cũng am hiểu sự biến hóa của hệ thống bẫy ngầm, nên không quá lo sợ, anh bảo mọi người: “Cái nơi quỷ quái này thì nhằm nhò gì, chỉ hù dọa được trẻ lên ba thôi, nếu nắm được nguyên lý tương sinh tương khắc, thì dễ như trở bàn tay ấy mà”.
Nói xong, anh lên trước lần sờ vách tường, nhưng rồi anh lập tức phát hiện sự việc không hề đơn giản như mình nghĩ. Khối đá được tạo từ tro núi lửa cứng chắc, kín bưng không một kẽ hở, ít nhất cũng dày đến bảy tám centimét, bên trong đặc, không hề có thiết bị ngầm nào, cho dù sử dụng lượng lớn thuốc nổ, cũng chưa chắc phá hủy nổi nó.
Đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà lo lắng nói: “Thủ trưởng ơi! Bên dưới tòa thành cổ này chắc có ma rồi, mấy con ma trong đội khảo sát không muốn chúng ta rời khỏi đây rồi!”
Tư Mã Khôi mắng: “Này, đừng có thần hồn nát thần tính nữa. Tôi thấy chuyện này quá nửa là liên quan đến tấm bia nuốt rắn chết tiệt kia, bây giờ có mà chạy đằng trời, chúng ta đành quay về tìm tấm bia cổ quái đó thôi!”
Đội khảo cổ đang định quay đầu trở về, thì thấy một loạt tiếng động văng vẳng bên tai, dường như có vật gì đang bò đến từ nơi sâu trong đường hầm, chúng cọ sát vào vách tường, phát ra âm thanh quái dị nghe sàn sạt, dường như có rất nhiều loài sinh vật cánh cứng. Rồi tiếng động càng lúc càng gần, không những vậy, tốc độ và sức mạnh còn dữ dội như nước triều dâng, thực sự khó lòng đoán được.
Mọi người thất kinh, không biết nơi sâu trong địa cung rốt cuộc xuất hiện thứ gì, nhưng xem chừng kẻ sắp đến không phải hạng tốt đẹp, khẩu xung phong PPS chưa chắc đã cản được bước của chúng. Cả đội đành tháo lui về gian động bên cạnh, rồi hợp lực đẩy cánh cửa đá hình tròn để nó cách biệt hoàn toàn với cửa động dẫn ra đường hầm.
Tư Mã Khôi áp người vào cánh cửa đá nghe ngóng một hồi, loáng thoáng thấy âm thanh phía ngoài đường hầm dường như đều bị chặn trước cánh cửa, anh mới thở phào một tiếng, đang định quay người, thì phát hiện ba thành viên còn lại đứng sững như trời trồng, dường như họ đã nhìn thấy thứ gì không thể tưởng tượng nổi. Tư Mã Khôi thầm nghĩ, trong gian động này thì có thứ gì được chứ? Anh ngẩng đầu nhìn lên và hồn bay phách lạc, thì ra dưới chân tường trong động thất, có một người đang ngồi lặng lẽ.
Người đó vóc dáng tiều tụy, khuôn mặt đầy nếp nhăn, tóc bạc phơ, hai mắt sáng quắc như điện, lão ta đang nhìn chằm chằm hội Tư Mã Khôi, cách ăn mặc giống hệt với các thành viên đội khảo sát tử nạn dưới lòng đất.
Trong khoảnh khắc, Tư Mã Khôi có thể phân biệt người này chắc chắn không phải kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh, bởi vì Nấm mồ xanh giống như u hồn hoặc xác ướp, cái mùi tử khí nặng nề quái dị đó khó có thể che đậy được, nhưng chẳng phải hai mươi hai xác chết của đội khảo sát đều nằm ngoài địa cung sao? Ông già tóc bạc này rốt cuộc là ai?
Lão tóc bạc nhìn chằm chằm hội Tư Mã Khôi như thể đang ngầm đánh giá, bỗng nhiên lạnh lùng mở miệng hỏi: “Các cậu… đến đây tìm ta sao?”
Tư Mã Khôi không đáp mà hỏi lại: “Lão có phải thành viên đội khảo sát kính viễn vọng Lopnor năm 1958 không?”
Lão tóc bạc “hừ” một tiếng rồi nói: “Này hậu bối! Đây là cơ mật quốc gia, ai là lãnh đạo của các cậu? Ta muốn nói chuyện trực tiếp với lãnh đạo của các cậu”.
Hội Tư Mã Khôi nhìn nhau, ai nấy đều cảm thấy trên mình người này tỏa ra một luồng khí thần bí, khó lòng miêu tả được, người này rốt cuộc là ai? Vì sao lại xuất hiện trong địa cung? Lẽ nào cả đội đang chạm trán với u hồn của một trong những thành viên đội khảo sát? Hơn nữa, trong bức ảnh hình như không có người này, chẳng lẽ hắn chính là bóng ma đó?
Tư Mã Khôi cảm thấy tình huống lúc này thật mơ hồ, anh định thăm dò hư thực, liền phân công đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà ra gác cửa, đề phòng trong động bất ngờ xảy ra biến cố, sau đó nói với lão tóc bạc: “Tôi là thủ lĩnh của đội, trước đây còn chụp ảnh cùng chủ tịch nước và bắt tay với thủ tướng rồi đấy…”
Hải ngọng chen ngang: “Chuyện này tôi có thể làm chứng. Lãnh đạo Khôi đúng là đã từng chụp ảnh chung với chủ tịch nước, nhưng là chủ tịch nước Cộng hòa Miến Điện, còn thủ tướng mà cậu ta bắt tay là thủ tướng Lào đấy”.
Lão tóc bạc nghi ngờ hỏi: “Thế nghĩa là các cậu không biết ta là ai hả?”
Tư Mã Khôi thấy đối phương không giữ thái độ ôn hòa, nên cũng chẳng cần khách khí nói luôn: “Trông bộ dạng xui tận mạng của lão thì chắc là một chuyên gia chứ gì?”
Lão tóc bạc gật đầu nói: “Người phàm tục bình thường đều gọi ta như vậy, nghe mãi cũng quen tai!”
Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi và Hải ngọng mồm mép tép nhảy, cứ vòng vo nói đi nói lại mãi thế này, thì biết bao giờ mới có kết quả? Thế là, cô liền kể thật cho lão tóc bạc nghe toàn bộ quá tình từ khi đội khảo cổ tiến vào Đại Sa Bản, vượt địa máng và rừng rậm than đá, tìm thấy trạm thám trắc trung tâm, tiếp theo thoát khỏi sự đeo bám của căn phòng số 86, rồi đào thoát ra ngoài chiếc hộp thời gian, cuối cùng đến được thành cổ trong biển cát. Cô kể tóm tắt tất cả sự việc một lượt, mong giành được sự tin tưởng của đối phương.
Tư Mã Khôi thấy lai lịch ông già tóc bạc rất bất minh, nên sao có thể dễ dàng khai tuốt tuột toàn bộ sự thật về đội khảo cổ cho lão nghe được? Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, thấy đội khảo cổ giờ đây đã đi đến đường cùng, nên những chuyện này cũng không cần thiết phải giữ bí mật nữa, bởi vậy anh cũng không ngăn cản cô, chỉ lặng im đứng bên quan sát xem cuối cùng đối phương sẽ nói gì.
Lão tóc bạc nghe xong bán tín bán nghi, dường như lão đang tự suy đoán xem, câu chuyện Thắng Hương Lân vừa kể là thật hay giả. Trầm ngâm một hồi lâu, sau cùng, lão cũng thừa nhận mình là một trong những thành viên của đội khảo sát liên hợp Trung Xô năm 1958. Còn về việc vì sao lão lại xuất hiện ở đây và rốt cuộc, lúc đó đã xảy ra những chuyện gì, thì hầu hết đều gần với những gì Tư Mã Khôi phỏng đoán, hơn nữa mọi sự kiện đều có liên quan đến tấm bia nuốt rắn trong lòng núi.
Lão nói với hội Tư Mã Khôi:. “Tôi không dám chắc mình hiểu tất cả những chuyện liên quan đến kính viễn vọng Lopnor, tàu ngầm Liên Xô bị mất tích và bí mật của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh, nhưng chí ít cũng biết bảy tám phần, có điều những sự kiện này đan cài vào nhau rất phức tạp, phải kể từ lúc bắt đầu, đó cũng chính là ngày trời đất thành hình.
Từ năm 1543, nhà vật lý thiên văn người Ba Lan Nicolaus Copernicus đã đưa ra một phát hiện mới đầu tiên của thuyết mặt trời là trung tâm, rồi từ đó những thảo luận về sự quay quanh của các thiên thể được quy nạp vào phạm trù khoa học. Sau đó, dần dần hình thành nên các trường phái khác nhau như: thuyết tinh vân, thuyết va chạm hành tinh… Nhưng trên thực tế, những học thuyết liên quan đến khởi nguồn của vũ trụ, cho đến tận bây giờ vẫn chỉ dừng lại ở giai đoạn giả thiết, hoàn toàn không cỏ căn cứ chứng minh.
Trong các mẫu lõi đá mà các nhà khoa học Liên Xô sưu tầm được ở kính viễn vọng Lopnor, có một loại vật chất khoáng quặng tên là Zirconi. Đó là một kim loại chuyển tiếp màu trắng xám, bóng láng, tương tự như Titan. Suy đoán theo năm tuổi đo lường từ mẫu vật này, thì không động nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái đất, ít nhất cũng tồn tại từ cách đây 4 tỉ 600 triệu năm, khi đó, vụ nổ vẫn thạch dưới lòng đất khiến vực sâu cách bề mặt Trái đất mười nghìn mét này bắt đầu xuất hiện ôxy và nước.
Trong khi đó, khoảng thời gian hơn bốn ngàn năm về trước, cũng chính là thời đại của hồng thủy, và chính trong thời điểm này, con người đã phát hiện ra không động dưới lòng đất. Huyệt động trong núi Long Môn khi Vũ Vương đào vét lưu vực sông Hoàng Hà, đã dẫn nước lũ ra đầm lớn, nó chính là Vũ khư mà sử sách vẫn ghi chép, đồng thời cũng là cực vực mà hậu thế sau này vẫn gọi. Tương truyền, mười vạn âm binh dưới lòng đất đã ra sức đào vét sông ngầm, nhờ vậy mới dẫn được nước từ núi Long Môn chảy vào Vũ khư. Mức độ chính xác về các số liệu địa lý mà cổ nhân đo đạc, cũng như độ khó và sự hùng vĩ của các công trình đó, quả thực khiến người đời nay khó lòng tưởng tượng nổi, mà chỉ có thể quy kết là được thần quỷ phù trợ. Kì thực, vì niên đại quá xa xôi, các ghi chép thực tế trong sách cổ lại vô cùng ít ỏi, nên rất nhiều phương pháp cổ xưa đã bị thất truyền”.
Tư Mã Khôi càng nghe càng hiếu kì, tuy ông già tóc bạc này nói có đầu có cuối, nhưng sao lão ta lại hiểu rõ cặn kẽ ngọn nguồn mọi chuyện như vậy nhỉ? Có thể những bí mật này vẫn còn tồn tại trong thành cổ, nhưng từ sau thời Tống thì làm gì còn ai có thể giải mã được chữ triện cổ triều Hạ nữa, vậy lão già này rốt cuộc là người sổng hay là bóng ma trong tấm ảnh hiện thân trở về?
Lúc này, chuyên gia tóc bạc lại càng làm ra vẻ bí mật, nói úp úp mở mở với mọi người: “Niên đại chữ triện cổ triều Hạ xuất hiện còn sớm hơn cả chữ giáp cốt, vì nội dung của nó quá cổ xưa và ảo diệu nên di chỉ sót lại không nhiều, hàng ngàn năm trước nó đã hoàn toàn thất truyền. Nhưng có thể nói không ngoa là thời nay chỉ mỗi mình ta hiểu được chúng, bởi vậy ta mới có thể phá giải những ẩn số kinh động trong cối đời này. Tạm thời các cậu đừng vội gạn hỏi về nguyên nhân ẩn chứa bên trong, mà trước tiên hãy nghe lão đây nói hết đã.
Trong lịch sử tồn tại truyền thuyết “Vũ Vương xiềng giao long”, tương truyền, thời nhà Hạ có con quái vật cổ, thân mình như vượn, mắt vàng răng tuyết, tên là Vô chi kì (1) . Khi Vũ Vương khơi thông sông Hoài Thủy, ông đã thu phục được nỏ, và xiềng nhốt nó trong giếng Hoài Cảnh sâu không thấy đáy. Cũng có quan điểm cho rằng Vô chi kì là con mãng xà lớn, bởi vậy mới xuất hiện truyền thuyết xiềng giao long.
[1] Vô chi kỳ: là con quái vật cổ xưa nhất xuất hiện trong truyền thuyết Trung Quốc. Nó sinh ra ở Hoa Quả Sơn, tự nhận mình là thần sông Hoài Thủy, phép thuật thần thông quảng đại. Về sau Ngô Thừa Ân lấy hình mẫu con quái vật này để xây dựng hình tượng nhân vật Tôn Ngộ Không.
Trên thực tế, thời đó, bên bờ sông Hoài Thủy có một cổ quốc tôn rắn làm thần. Người dân nước này đều sống trong các hang động dưới lòng đất, không biết sử dụng lửa. Do họ nhiều lần đào đường sông, nên dẫn đến nạn lũ lụt hoành hành. Sau khi bị vương triều nhà Hạ hàng phục, họ trờ thành nô lệ và bị đẩy xuống lòng đất đào con kênh ma quỷ. Lợi dụng kết cấu hợp lý sẵn có của các quần thể huyệt động nguyên sinh trong lớp vỏ Trái đất, nhà Hạ đã tạo ra con sông ngầm ngoằn ngoèo trải dài hàng ngàn dặm. Đồng thời, họ còn chôn giấu rất nhiều đồ vật cổ để trấn sông. Đỉnh đồng Vũ Vương cũng bị thất lạc dưới lòng đất chính vào lúc đó. Sau này, một lượng lớn bùn đất trong Hoàng Hà bị chìm lún xuống sâu, lấp kín con sông ngầm dưới lòng núi Long Môn. Mãi đến ngàn năm sau, những nô lệ tộc quỷ đã chạy trốn khỏi lòng đất, thâm nhập sa mạc Tây Vực và trở thành tổ tiên của tộc người Tochari(2) – một phân nhánh nhỏ trong tộc di cư đến Miến Điện vào thời Tần Hán, sau này chính là Diệt Hỏa quốc bị mất tích một cách thần bí dưới lòng đất.
[2] Người Tochari: phiên âm Hán Việt là người Thổ Hỏa La, có tư liệu cho rằng, đó chính là tiền thân của tộc người Nguyệt Chi. Ban đầu họ định cư ở miền đông khu vực lòng chảo Tarim, ngày này thuộc Tân Cương, Cam Túc và Kỳ Liên Sơn ở Trung Quốc, sau đó di cư tới Transoxiana, Bactria (Đại Hạ) và cuối cùng là miền bắc Ắn Độ, nơi họ lập ra Vương triêu Quý Sương.
Thắng Hương Lân thấy chuyên gia tóc bạc kể chuyện lịch sử cổ xưa từ hàng ngàn năm trước mà rõ ràng như thể dọc đường chỉ lòng bàn tay, thì biết tri thức của lão vượt xa người thường. Cô bất giác vừa kinh ngạc vừa thắc mắc, không lý giải được vì sao đối phương lại am tường mọi chuyện đến thế. Hải ngọng và đội trưởng Lưu Giang Hà cũng tròn mắt đứng ngẩn ra nghe.
Chỉ có Tư Mã Khôi là càng lúc càng hoài nghi, anh không muốn tiếp tục nghe chuyên gia tóc bạc huênh hoang kiến thức nữa. Trước khi làm rõ thân phận của đối phương, ai dám tin mấy lời xằng bậy của lão?
Tư Mã Khôi lôi tấm ảnh chụp đội khảo cổ ra, dưới ánh đèn quặng, anh liên tục đối chiếu lão chuyên gia tóc bạc với từng người trong ảnh. Không thấy người nào có dung mạo tương tự với lão, dẫu đối phương là vong linh đã chết từ nhiều năm trước, thì cũng tuyệt đối không phải vong linh của thành viên đội khảo sát liên hợp Trung Xô năm 1958.
Hải ngọng hậm hực nói với Tư Mã Khôi: “Cậu đúng là hạng đa nghi Tào Tháo! Có bao giờ chịu tin ai chưa hả? Trong tấm ảnh chẳng phải có một bóng ma lờ mờ không rõ mặt đấy à? Sao cậu dám chắc người thứ hai mươi hai không phải lão ta chứ?”
Tư Mã Khôi nói: “Tuy khuôn mặt của bóng ma trong tấm ảnh không rõ, nhưng tớ dám chắc thằng cha đó là người Nga, còn chuyên gia tóc bạc mà chúng ta đang gặp này, căn bản không hề xuất hiện trong tấm ảnh”.
Danh sách chương