Hai người gần như cùng lúc bật ra câu hỏi: "Rốt cuộc anh/ ông đã chạm phải cái gì?"
Nhưng ngay sau đó họ lập tức nhớ ra, cả gian đại điện này trống rỗng, cho dù có va phải thứ gì cũng tuyệt đối không thể không phát giác ra được, như vậy nghĩa là hai người họ đều không đụng phải bất cứ gì cả!
Trong khoảng khắc Trác Mộc Cường Ba và Merkin ngần ra, hai vòng tròn trên tường cơ hồ như đã tăng tốc độ, nhưng ngay sau đó, họ đã nhận ra, không phải đồ án hình tròn đang chuyển động, hình tròn trên tường ấy không hề nhúc nhích, mà là...cả gian đại điện này đang chuyển động.
Cả gian đại điện hình chữ nhật đột nhiên xoay một trăm tám mươi độ theo trục giữa, Trác Mộc Cường Ba và Merkin còn chưa kịp hiểu đầu cua tai nheo gì, cả người đã thình lình lơ lửng giữa không trung, sau một thoáng mất trọng lực ngắn ngủi, họ liền rơi từ độ cao ba bốn mét xuống mặt đất, lăn lông lốc bảy tám vòng, không còn phân biệt được phương hướng nào nữa.
Trác Mộc Cường Ba thấy đau, vị trí tiếp xúc với mặt đất trước tiên là eo lưng dường như bị thứ gì đó cộm lên, hai tay chống xuống, bàn tay cũng sờ thấy thứ gì đó gồ ghề, lòng bàn tay cũng hơi đau đau. Trác Mộc Cường Ba cúi đầu nhìn, liên đờ người ra, sao lại thế này? Mặt đất không phải là sàn nhà phẳng phiu hay sao? Trần nhà đều là những đầu rồng chi chít, tại sao? Tại sao mình lại giẫm lên đầu rồng? Ngẩng đầu nhìn lên, trời đất... sàn nhà sao lại trở thành trần nhà vậy chứ? Đầu óc Merkin cũng trống rỗng, trước đó y đã thầm sự đoán về các loại cạm bẫy ở đây. Y đã nghĩ đến rất nhiều khả năng, chẳng hạn như đầu rồng có thể phun ra tên, phun nước hoặc chất dộc... chì là không thể ngờ cả gian đại điện bằng đá lại hoàn toàn đảo ngược lộn tùng phèo như thế này. Nhưng những người thiết kế ra cạm bẫy không định để cho hai kẻ hồ đồ như bọn họ nhiều thời gian mà nghĩ ngợi, cả hai còn chưa kịp đứng lên, những đầu rồng bên cạnh họ đã bắt đầu chuyển động.
Chỉ thấy vô số các đầu rồng kia nhô lên từng cái từng cái một, có cao có thấp, hệt như những mẩu chữ chì dùng trong in ấn thời xưa. Toàn bộ các đầu rồng nhô lên đều xoay về phía Trác Mộc Cường Ba và Merkin vẫn ngây ra chưa kịp phản ứng gì. "Không ổn!" Hai người đều phản ứng cực nhanh, cùng lúc bật người lên, lăn về phía không có đầu rồng chĩa vào.
Ban đầu họ tính là đi men theo bờ tường, sẽ có góc chết mà đầu rồng không thể bắn tới, giờ cả gian đại điện đã lộn ngược, đầu rồng đều ở dưới chân, thêm vào đó, những đầu rồng này có thể dịch chuyển lên cao hoặc xuống thấp, khiến cho toàn bộ cạm bẫy này không còn bất cứ góc chết nào nữa. Hai người bọn Trác Mộc Cường Ba chỉ còn biết cắm đầu cắm cổ mà chạy giữa trận địa toàn những đầu rồng quái dị ấy.
Khốn nỗi, hai cánh cửa ở hai đầu đã bị bít kín họ có chạy thế nào thì cũng không thể thoát khỏi gian đại điện bằng đá này. Tuy tốc độ cả hai đều rất nhanh, nhưng những đầu rồng kia cũng không ngừng tăng tốc theo, mỗi khi một trong hai người đặt chân xuống, xung quanh liền có đầu rồng bật lên ngay tắp lự, cái cao cái thấp, phun ra một trận mưa kim châm rồi lại tụt xuống trở về vị trí ban đầu.
Trác Mộc Cường Ba và Merkin kẻ lăn người bò hết nhảy lên lại thụp xuống, giở đủ mười tám ban võ nghệ, chỉ nghe trên không trung toàn những tiếng kim bay "vù vù vù", bỗng Merkin loạng choạng bổ về phía trước, hiển nhiên là đã trúng chiêu. Vai phải Trác Mộc Cường Ba nhói lên, gã hít vào một hơi khí lạnh, thầm chửi áo chống đạn của tên Merkin này không chắc chắn. Kỳ thực chuyện này cũng không thể trách Merkin được, ngoại trừ đạn phá giáp, đại đa số các loại đạn đều không hạ gục đối phương bằng sự bén nhọn của đầu đạn, mà những mũi kim này lại vừa nhọn vừa sắc, đầu kim nhỏ như lông trâu, thậm chí còn phát ra ánh sáng lành lạnh, áo chống đạn chặn được thân kim, chứ không thể ngăn được đầu mũi kim. Thực ra, cũng may là có bộ áo chống đạn này, nên những mũi kim bắn trúng người họ chỉ đâm vào thịt được chừng hai ba mi li mét. Chỉ khốn nỗi, chính vì cách da hai ba mi li mét ấy là chỗ đau nhất khi bị kim chích vào. Mỗi lần trúng kim châm, cơ thể hai người đều không tự chủ được mà vặn vẹo cả đi, nhất thời, bao nhiêu tư thế quái dị nhất đều bày ra hết, chốc chốc lại vang lên những âm thanh "hự", "ối", "á" kỳ dị.
Hai người nhanh chóng phát hiện ra, dù họ có né tránh thế nào cũng vô dụng, họ nhảy càng nhanh, tốc độ bật lên và bắn kim châm của các đầu rồng cũng nhanh theo, hy vọng duy nhất của họ là mỗi cái đầu rồng ấy đều không lớn lắm, chắc cũng không chứa được nhiều kim châm, bắn ra hai ba cái là hết. Đương nhiên, tốt nhất là không bắn ra cái nào. Cuối cùng, hai người mới phát hiện ra, chỉ cần đứng yên bất động, những đầu rồng kia bắn hết một đợt kim châm đầu tiên sẽ không bật lên nữa, ở những chỗ xa hơn cũng không có đầu rồng nhô lên tấn công. Chỉ có điều, khi Trác Mộc Cường Ba và Merkin phát hiện ra điều này, cả hai đã bị bắn cho không còn ra hình người nữa. Merkin chỉ lo chắn đỡ mặt trước, bỏ mặc phía sau, kết quả là số kim châm ghim trên lưng y ít nhất cũng phải nặng đến mấy cân, nhìn từ vị trí của Trác Mộc Cường Ba, trông y thực chẳng khác nào một con nhím khổng lồ đang xù lông. Tình hình Trác Mộc Cường Ba đỡ hơn một chút, gã có ba lô trên lưng che chắn phía sau, song cũng vì đeo ba lô nên động tác của gã không thể nhanh nhẹn bằng Merkin, phía trước phía sau đều bị kim châm bắn trúng. Trên ngực gã có hơn trăm mũi kim xếp thành hình tam giác ngược, trông như một đám lông ngực rậm rạp. Còn bộ mặt, gã đã phải giở hết mọi cách, tung mọi chiêu trò, cũng coi như là giữ được dung nhan toàn vẹn.
Hai người phát hiện ra sự ảo diệu của cơ quan, rốt cuộc cũng có chút thời gian rảnh rang nhổ những kim châm cắm chi chít trên người mình.
Merkin đau đến nỗi nghiến răng kèn kẹt, mỗi lần rút một cây kim ra lại làu bàu chửi một câu.
"Cơ quan chó chết gì thế này!"
"Thằng chó chết nào thiết kế ra cái cơ quan này thế!"
"Bọn người Qua Ba là đồ con lừa!"
Merkin từng xâm nhập không ít mộ cổ, số lượng cơ quan cạm bẫy mà y đã gặp nhiều không đếm xuể, nhưng y chưa từng gặp phải loại cơ quan nào như thế này. Chỉ cần ngoan ngoãn đứng yên bất động, để đợt kim châm đầu tiên chích cho vài phát thì không sao, nếu dám nhảy tránh, càng nhảy sẽ càng trúng nhiều kim châm. Trên đời này sao lại có loại cạm bẫy thất đức như thế chứ!
Trác Mộc Cuờng Ba lặng lẽ nhổ kim ra, những cây kim này dài khoảng mười xăng ti mét, hai đầu nhọn hoắt, cũng không hiểu những đầu rồng này bắn chúng ra như thế nào nữa. Thấy Merkin chửi bới càng lúc càng khó nghe, gã không nhịn được bèn nói: "Bớt bớt lời đi, theo tôi thấy, những người Qua Ba cổ đại đối xử với chúng ta thế này là cũng khá lắm rồi."
"Hả?" Merkin ngạc nhiên ngẩng đầu lên, muốn xem có phải Trác Mộc Cường Ba bị kim bắn trúng nhiều quá đâm ra lú mề hay không.
Trác Mộc Cường Ba nhón tay nhổ một cây kim ra, nói: "Ông xem, trên mũi kim không tẩm độc, cũng không có móc ngược, thế này đã là phúc tổ mười tám đời nhà chúng ta rồi đấy."
Merkin nghiến răng cúi đầu, bụng tầm rủa luôn cả Trác Mộc Cường Ba. "Lại còn muốn trên mũi kim có móc ngược nữa hả?"
Trác Mộc Cường Ba chẳng có tâm tư đâu tính toán với y, lại cất tiếng hỏi: "Giờ làm sao?"
"Làm sao? Hỏi tôi làm sao hả?" Merkin vẫn chưa hết tức tối. "Tôi làm sao biết phải làm sao chứ? Từ lúc theo anh đi ra khỏi cái giếng tế chết tiệt đó là đã chẳng có chuyện gì tốt đẹp cả."
"Sao lại không có?" Trác Mộc Cường Ba nói: "Lúc trông thấy mấy cái bình sứ, không phải ông đã mừng rớt nước mắt đấy sao?"
Merkin nghẹn họng, nhưng ngay sau đó lại phản pháo: "Khổ nhiều hơn vui." "Nếu không có khổ sở, làm sao ông biết đến niềm vui?" Những câu nói mang đậm chất thiền này Trác Mộc Cường Ba từng nghe cha gã nói đi nói lại rất nhiều, mặc dù đã lâu không dùng đến, nhưng giờ chỉ cần mở miệng là lời tự tuôn ra, Merkin tuyệt đối không phải là đối thủ của gã.
Tiếng Trung của Merkin vốn đã không lưu loát cho lắm, không nói lại được với Trác Mộc Cường Ba, chỉ biết lầm bẩm chửi rủa mấy câu tiếng Anh rồi lại mấy câu tiếng Trung, thi thoảng còn chêm vào tiếng của mấy nước khác nữa.
Hai người nhổ hết những cây kim có thế nhổ ra được trên người, rồi quay sang nhổ giúp nhau ở những chỗ không thể tự với tay đến, sau đó đứng trên đám đầu rồng nhất thời cũng không biết phải làm gì tiếp theo. Nếu tiếp tục xông ra cửa, sẽ không tránh khỏi phải "xơi" thêm vô số kim châm nữa, ra đến đó rồi, lại cũng chưa chắc có thể tìm được cơ quan mở cửa hay không?
Đang trầm ngâm suy nghĩ, Merkin đột nhiên thốt lên: "Tôi hiểu rồi!"
"Gì vậy?"
"Tôi biết cái bẫy được khởi động như thế nào rồi! Chính là những lỗ nhỏ kia!" Merkin chỉ ngón tay vào hàng lỗ nhỏ giờ đây đã đáo vị trí lên sát với trần nhà, nói: "Là kỹ thuật lợi dụng ánh sáng và bóng ảnh! Những người thợ thời xưa khi thiết kế gian đại điện này đã tính toán hết sức chu đáo, họ đoán bọn trộm mộ e ngại cạm bẫy dưới sàn không dám đi ra giữa, vì vậy đã để lại một hàng lỗ nhỏ dưới chân tường. Chúng ta vừa nãy đi sát vào tường, đã chắn mất tia sáng chiếu vào trong lỗ nhỏ ấy, tới khi ra đến giữa đại điện, cạm bẫy tự nhiên sẽ được kích phát!"
Trác Mộc Cường Ba lấy làm nghi hoặc: "Thời xưa đã có kỹ thuật này rồi sao? Làm thế nào mà cảm ứng được?"
Merkin lắc đầu: "Tôi không phải kỹ sư thiết kế, tôi cũng không rõ lắm, nghe nói là nhờ một loài thực vật cực kỳ mẫn cảm với ánh sáng, loại cơ quan này tôi mới gặp một lần, chỉ có trong mộ thời Đường ở Trung Quốc. Khả năng lợi dụng ánh sáng và bóng ảnh của người thời Đường quả thực đã đạt đến đỉnh cao, nhưng sau này lại thất truyền gần như toàn bộ."
Trác Mộc Cường Ba nói: "Không ngờ lại có công nghệ thần kỳ như thế."
Merkin nói: "Cái đáng sợ không chỉ là công nghệ, mà là việc người thiết kế cơ quan này có thể tính toán được hành động của chúng ta cả nghìn năm sau đó, tâm tư ấy mới gọi là đáng sợ." Y liếc nhìn Trác Mộc Cường Ba, kỳ quái, đột nhiên nói: "Có lẽ anh nói không sai, nếu chẳng nhờ may mắn, có khi chúng ta đã chết mấy lần rồi cũng nên."
Trong đầu Trác Mộc Cường Ba lại hiện ra mấy hàng chữ khắc trên cửa: "Một người huyết thống thuần chủng... tại sao lại nói vậy? Chẳng lẽ nếu người khác tiến vào đây, sẽ là một loại cạm bẫy khác?"
Đột nhiên, một đợt rung động truyền đến, hai người đứng không vững, loạng choạng lùi lại mấy bước, nhưng lần này không thấy có đầu rồng nào bắn kim châm ra nữa, chỉ thấy những đầu rồng như con chữ chì dưới chân bắt đầu trồi lên sụp xuống theo hình sóng. Trác Mộc Cường Ba kinh hãi kêu lên: "Lại gì nữa đây?"
Merkin nghĩ ngợi trong giây lát, rồi giật mình thốt lên: "Không xong, gian đại điện này sắp vỡ ra rồi!"
"Thế là sao?"
"Là sắp sụp đổ chứ còn sao!" Merkin còn chưa dứt lời đầu rồng ở giữa đã tụt xuống, để lại một lỗ nhỏ dưới sàn, ngay sau đó lập tức xảy ra phản ứng dây chuyền, những đầu rồng xung quanh nó cũng đua nhau tụt xuống. Trác Mộc Cuờng Ba và Merkin vốn chẳng còn chỗ nào để chạy, xem chừng cũng sắp rơi xuống theo những đầu rồng ấy. Đúng lúc ấy, cả gian đại điện lại xoay chuyển một lần nữa. Mặt sàn đang theo phương ngang, đột nhiên nghiêng di, cuối cùng dựng đứng lên một góc chín mươi độ so với mặt đất. Trác Mộc Cường Ba và Merkin vội bám tay vào các đầu rồng đu người lên, khốn nỗi những đầu rồng ấy cũng không ngừng lìa ra, buộc cả hai phải liên tục di chuyển xuống phía duới.
Cuối cùng, khi không còn chỗ nào để di chuyển nữa, cả bức vách ở phía duới cũng bung hết ra, thân thể Trác Mộc Cường Ba và Merkin hẫng một cái, lập tức rơi tự do xuống dưới.
Đang luống cuống, Trác Mộc Cường Ba liếc thấy ánh sáng, có cây cột! Gã không kịp nghĩ ngợi gì nhiều, cổ tay hất lên, dây móc bắn vút ra. Thân hình khôi vĩ của gã vạch trên không trung nửa vòng tròn rồi chầm chậm đu xuống.
Merkin thì không được may mắn như vậy, y rơi thẳng xuống mặt sàn tầng bên dưới. Dẫu có mình đồng da sắt thì cú ngả này cũng khiến cho y xây xẩm mặt mày, hồi lâu vẫn chưa bò dậy nổi. Độ cao của cú rơi tự do này lớn hơn lúc toàn bộ gian đại điện xoay một trăm tám mươi độ nhiều. Trong tình huống hết sức cấp bách đó, Merkin vẫn kịp sử dụng phương pháp nhảy của lính nhảy dù,vừa chạm đất liền cuộn người lăn tròn về phía trước để hóa giải bớt lực phản chấn, nhưng rốt cuộc y vẫn bị những cái đầu rồng rơi vung vãi dưới sàn đập cho thâm tím mình mẩy, may mà không gãy cái chân cái tay nào. Trác Mộc Cường Ba nương theo dây móc từ từ hạ xuống, đến bên cạnh Merkin hỏi: "Ông không sao chứ?"
Merkin ngẩng đầu lên, nói: "Anh xem tôi có sao không?" Trên đầu y bị đầu rồng "thơm" cho một phát, giờ sưng phồng lên to tướng, thoạt trông cứ tưởng mọc ra một cái bướu thịt.
"Bỏ đi," Trác Mộc Cường Ba nói, "xem xem chỗ này là nơi nào."
Gã ngửa đầu nhìn lên, chỉ thấy bên trên là một khay tròn khổng lồ rỗng ở giữa. Gian đại điện mà bọn họ tiến vào ấy, chính là xoay chuyển một trăm tám mươi độ bên trong lỗ tròn này. Giờ đây, các vách tường của gian điện đều đã sụp đổ, chỉ còn lại sàn nhà vẫn dập dềnh như bập bênh bên trong lỗ tròn.
Chỗ họ vừa rơi xuống là một mỏm đá trơ trọi, diện tích lớn hơn lỗ tròn phía bên trên, có cột đá thô sơ nối liền với bên trên, hiển nhiên đây là phần đáy của cái bẫy, mặt đất gồ ghề, không được gia công mài đục, vẫn còn giữ nguyèn bế mặt đá núi xù xì. Lúc này, đầu rồng rơi vung vãi khắp nơi, ngoài ra còn vô số những vật thể trông như cành cây gãy. Mấy ngọn đèn vốn gắn trên tường đại điện cũng rơi xuống, nhưng còn chưa tắt hẳn, ngọn lửa vẫn bập bùng nhảy múa chiếu sáng xung quanh. Bốn bề nổi lèn từng trận gió ấm, hệt như lúc trước khi hai người chui vào trong hang động. Bên ngoài mỏm đá toàn là những khe nứt khổng 1ồ, có điều thứ ánh sáng dịu dàng màu lam nhạt ấy giờ đây đã trở nên mờ mờ ảo ảo, xa xăm như thể những ngôi sao trên trời.
Trác Mộc Cường Ba nói: "Hình như chúng ta rơi xuống bên dưới của cơ quan rồi. Chẳng lẽ vì niên đại quá lâu nên cái bẫy này mới bung ra thành từng mảnh như thế?"
"Không giống lắm." Merkin cẩn thận kiểm tra những vật thể giống như cành cây, đầu rồng và một số khối đá lớn khác, đưa ra kết luận: "Bản thân cơ quan được thiết kế như vậy, nếu có người phát hiện đứng yên sẽ không có kim châm bắn ra nữa, nhất định sẽ đứng yên tại chỗ, nguời xưa đã tính đến khả năng này khi thiết kế ra cơ quan, chỉ cần đứng yên bất động, toàn bộ phần dưới gian đại điện sẽ từ từ bung ra không ai thoát được hết." Nói đoạn, Merkin ngước nhìn vị trí ban đầu của gian đại điện, ánh mắt dường như vẫn chưa hết kinh hoảng. Nếu không phải gian đại điện ấy dựng đứng lên, mà cứ thế vỡ bung ra, bọn họ sẽ rơi từ độ cao mấy trăm mét xuống, lúc ấy dù là người thép cũng nát bấy.
Trác Mộc Cuờng Ba thắc mắc: "Cả gian đại điện lớn như vậy, họ làm thế nào mà khiến nó đột ngột xoay một trăm tám mươi độ được nhỉ?"
Merkin không lên tiếng, chỉ cắm cúi tìm kiếm gì đó trên mỏm đá.
Lúc nãy khi rơi xuống, hai người họ đều nhìn thấy gian đại điện phía trên lại xoay một vòng nữa, vách tường ở đầu bên kia cũng rơi xuống, tưởng chừng sắp biến hai người họ thành miếng thịt kẹp trong bánh xăng uých tới nơi, nhưng rồi hai vách tường đá ấy không hiểu sao lại đột nhiên biến mất. Lúc đó, thân thể Merkin đang lộn nhào giữa không trung, không nhìn rõ được, giờ đây nghxi kỹ lại, mới thấy tình hình lúc đó thực sự là tột cùng hung hiểm. Sau đó, trước khi y chạm đất, lại nghe thấy một vật thể nặng nề đập xuống nền đá bên dưới, rồi không còn âm thanh gì nữa. Merkin suy đoán, vật nặng ấy đã trượt từ mép mỏm đá xuống bên dưới rồi.
Quả nhiên, y tìm được một chỗ vỡ mới trên mép vách đá. Nham thạch cứng như vậy không ngờ cũng bị va đập làm vạt đi một mảng lớn, từ diểm này có thể thấy thứ kia nặng nề đến chừng nào. Kế đó, Merkin lại quan sát tỉ mỉ kết cấu của mâm tròn có 1ỗ thủng ở giữa kia, đặc biệt là hai vách tường của cái "cầu bập bênh" còn sót lại sau khi gian đại điện vỡ tung. Hồi lâu sau, y bỗng reo lên: "Tôi hiểu rồi!"
"Thế nào?" Trác Mộc Cường Ba cũng hết sức quan tâm chuyện này.
Merkin nói: "Hai bức tường trước và sau của đại điện kia chắc rằng mỗi bên đều gắn một khối đá nam châm khổng lồ, đồng thời ở điểm đối ứng với hai khối đá ấy trên mâm tròn kia, cũng có hai khối đá nam châm lớn tương đương như thế. Bốn khối nam châm này hút lẫn nhau, khiến cả gian đại điện được cố định ở vị trí song song với mặt đất. Một khi cơ quan được kích hoạt, liền có một lực lớn hơn làm thay đổi khối đá nam châm gắn ở bên trong mâm tròn, có lẽ là đảo chiều hai cực Nam Bắc. Khi ấy khối nam châm ở hai đầu gian đại điện sẽ đồng thời chịu tác động của lực đẩy và lực hút, tất nhiên sẽ xoay một trăm tám mươi độ. Còn khi chúng ta đứng yên bất động, sàn đại điện bát đầu vỡ ra, cũng chính nguồn lực đó đã đổi khối đá nam châm bên trong mâm tròn đi, lần này hẳn là đổi thành một khối đá bình thường. Trọng tâm của gian đại điện ấy nằm ở hai khối nam châm hai đầu, khi phần sụp đổ không đều, đại điện tự nhiên sẽ chầm chậm nghiêng đi. Khi khối nam châm ở một đầu rơi xuống, trọng tâm của gian đại điện liền thay đổi lần nữa, đầu bên kia cũng lập tức xoay ngược lại. Hai khối nam châm khổng lồ hút lẫn nhau giữa không trung, một trong hai khối xoay tròn một vòng, lực đạo khổng lồ đó khiến cả hai cùng thay đổi hướng rơi ban đầu, cuối cùng lăn xuống vách đá kia. Hai người chúng ta sém chút nữa là bị kẹp vào giữa!"
Trác Mộc Cường Ba bất giác nghĩ thầm: "Toàn bộ cạm bẫy này được thiết kế tinh vi như vậy, tại sao cuối cùng lại thay hai khối đá nam châm kia đi?" Nghĩ tới đây, gã không kìm được đưa mắt nhìn sang Merkin, đồng thời nhẩm lại trong đầu: "Một người huyết thống thuần chủng..."
Merkin vừa giải được bí mật kết cấu của cạm bẫy trong gian đại điện phía trên, không khỏi thầm hoan hỉ, chẳng ngờ ngẩng đầu nhìn lên, lại phát hiện ra một sự lạ, liền buột miệng thốt: "Này, Cường Ba, anh nhìn chỗ kia xem..."
Hai người vừa trải qua một phen thập tử nhất sinh, Trác Mộc Cường Ba cũng không để tâm đến tiếng gọi "Cường Ba" Ngượng ngịu ấy của Merkin, bước đến đứng cạnh y bên rìa vách đá, dõi mắt nhìn ra phía xa.
Xa xa chỉ thấy một mảng tối đen, Trác Mộc Cường Ba căng hết cả mắt cũng không nhìn thấy gì, đang định chất vấn Merkin, chợt trong bóng tối lóe lên một tia chớp xé toanh tấm màn đêm mịt mù, chiếu sáng một dải phía xa, khiến tòa cung điện ở thế giới dưới lòng đất này bỗng hiện lên trước mắt họ!
ĐẠI DIỄN LUN HỒI ĐÀI
Ánh sáng màu tím đỏ lóe lên một cái rồi biến mắt ngay, trong chớp mắt ngắn ngủi đó, Trác Mộc Cường Ba và Merkin đều nhìn thấy, nơi được ánh sáng chiếu rọi ấy tươi sáng rực rỡ muôn phần, trên dốc núi hiện lên một tòa cung điện, đường nét góc cạnh rõ ràng, tầng tầng lớp lớp nhô cao, giữa các mỏm núi có cầu treo nối với nhau. Trọn vẹn một quần thể kiến trúc quanh co uốn lượn như rồng chầu, kéo dài liên miên không dứt, cảnh tượng vô cùng tráng lệ huy hoàng. Sau khi ánh chớp lóe tắt phụt đi, phía xa xa lại chìm vào màn tối mênh mang. Hai người bọn Trác Mộc Cường Ba đứng trong bóng tối đó, ngưng thần nín thở, mắt mở to không chớp. Chẳng rõ bao lâu sau, ánh sáng đó lại lóe lên, cung điện nguy nga hùng vĩ ẩn mình trong bóng tối thấp thoáng hiện lên, mái cao mái thấp, kiểu cách độc đáo, rường cột san sát, Phật tháp chen chúc. Trên vách núi dựng đứng còn thoáng thấy một hàng bậc thang nhỏ, hoặc quanh co uốn lượn, lúc ẩn lúc hiện, hoặc vươn thẳng lên cao, dựng dứng nghìn thước. Có điều ánh sáng chỉ chớp lên trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, khoảng cách lại ở quá xa, hai người chỉ có thể thoáng lướt qua cảnh quan ấy một chút rồi trước mắt lại tối sầm.
Ánh sáng xung quanh họ cũng dần ảm đạm, những ngọn lửa trên đại điện rơi xuống đã sắp tàn, Trác Mộc Cường Ba nhắc nhở: "Phải nghĩ cách rời khỏi chỗ này thôi."
Merkin hỏi ngược lại gã: "Anh nói xem đó là cái gì?"
Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Ông hỏi những chùa chiền cung điện đó ư?"
Merkin lắc đầu: "Không, thứ ánh sáng đó cơ".
Trác Mộc Cuông Ba nói: "Ừm, khoảng cách xa quá, hay là ánh chớp?"
Merkin phản đối: "Ánh chớp? Trong lòng núi thì lấy đâu ra sấm với chẳng chớp?"
Trác Mộc Cường Ba nói: "Ánh sáng ấy lóe lên rồi phụt tắt, không phải ánh chớp thì là gì? Chớp, chính là rất nhiều positron va đập với electron, điện tích nén lại hình thành hồ quang điện và phát ra ánh sáng. Người Qua Ba cổ đại đã có thể dùng những khối đá nam châm nặng hàng trăm tấn để cố định một gian đại điện bằng đá, thử hỏi còn chuyện gì họ không làm được nữa chứ?"
Merkin vẫn lắc đầu nói: "Thần miếu, thì ra là như vậy!" Đến tận lúc này hai người họ mới biết, thì ra thần miếu chỉ là một tên gọi chung, không phải là một ngôi chùa miếu, mà là một quần thể kiến trúc. Mạch núi khổng lồ ở đây không biết chịu tác dụng của ngoại lực gì, khiến cả ngọn núi nhìn bề ngoài vẫn hoàn hảo, nhưng bên trong lại đỡ vỡ toác, rãnh vực chằng chịt, người Qua Ba cổ đại đã lợi dụng lòng núi trống rỗng này để xây dựng nên vô số kiến trúc vô tiền khoáng hậu, diện tích rộng lớn vô cùng, muốn đi hết toàn bộ thần miếu không biết phải mất bao nhiêu ngày nữa.
Ánh sáng ấy phải một lúc thật lâu mới lóe lên một lần, hai người căng mắt ra vẫn không thể nhìn rõ được những kiến trúc mờ mờ hư ảo ở phía xa, mãi hồi lâu sau mới định thần lại, bắt đầu tìm kiếm lối thoát. Mỏm đá trơ trọi này cũng lơ lửng chìa ra giữa khoảng không, hệt như cái rường đá ban nãy, trên không chạm trời, dưới không chạm đất, ngoại trừ diện tích lớn hơn cái rường đá nhiều lần ra thì cũng không có lối thoát nào cả. Hai người tìm cả buổi, tuy uổng công vô ích, song lại tìm được một rãnh nước. Trên vách đá có nước chảy ri rỉ từ trên cao xuống, đến đây tụ lại thành dòng, trải qua trăm nghìn năm, không ngờ đã tạo thành một rãnh nước nhỏ sâu chừng ba ngón tay.
Từ lúc rời khỏi hồ nước đến giờ, hai người đều chưa uống giọt nước nào, dọc đường chạy nhảy liên hồi, miệng đã khát khô hết cả. Mới đầu, họ còn lo lắng trong nước có tạp chất dị vật gì, sau khi uống mấy ngụm, chỉ thấy ôn nhuận ngọt mát, nước miếng trào ra, liền vục đầu uống thỏa thuê.
Trác Mộc Cường Ba thấy mấy đốm lửa sắp tắt lụi, bèn nói: "Xem ra, người xưa không hề lưu lại lối thoát để ra khỏi mỏm đá này, chẳng lẽ phải bám lên vách đá leo qua đó?"
Trong hoàn cảnh bình thường, leo vách đá cũng không là gì với hai người bọn họ, nhưng leo vách đá ở trong lòng núi xòe tay không thấy ngón như thế này, có thể coi là đã sáng tạo ra một môn thể thao mới rồi. Đèn pha của Merkin cho dù vẫn còn đầy pin, thì cũng cầm cự được bao lâu? Ai biết đến lúc nào họ mới leo qua hết vách đá khổng lồ này? Nếu được nửa chừng đã hết pin, vậy phải làm sao? Khe rãnh ở đâu, điểm đạt chân ở chỗ nào, chẳng lẽ phải sờ mó bằng tay?
"Leo vách đá? Đúng rồi, sao tôi không nghĩ đến nhỉ!" Câu nói ấy của Trác Mộc Cường Ba đã nhắc nhở Merkin, y lớn tiếng kêu lên: "Nhớ gian đại điện trên kia như thế nào không? Hai đầu đều có cửa, tức là, chúng ta chỉ cần leo một lúc thôi, phía trước liền có một thông đạo khác, nói không chừng leo ra phía mé bên vách đá này là trông thấy luôn cũng nên."
Trác Mộc Cường Ba nói: "Vậy thì leo lên thôi."
Bỗng Merkin lại lo lắng nói: "Nếu leo lên mà không thấy lối vào thông đạo đó thì sao?"
Trác Mộc Cường Ba cười khổ đáp: "Giờ không nghĩ được nhiều như vậy đâu."
Hai người đi đến dưới chân vách đá, bật đèn pha lên, Trác Mộc Cường Ba tinh mắt, lập tức phát hiện dưới chân vách đá có khắc một hàng chữ nhỏ: "Kẻ không tìm thấy lối ra, hãy tự tuyệt tại đây."
Merkin nghe Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm trong miệng, liền hỏi: "Nghĩa là gì thế?"
Trác Mộc Cường Ba bực bội nói: "Ý là, nếu không tìm thấy đường thì từ đây nhảy xuống cho xong."
Merkin tức giận gầm gừ: "Đám cổ nhân này cũng coi thường nguwowfita quá!"
Trác Mộc Cường Ba lại chợt nghĩ: "Rốt cuộc là sao nhỉ? Người thiết kế cơ quan này rất am hiểu tâm lý của kẻ xâm nhập, mỗi lần bọn họ lâm vào tuyệt cảnh, người này đều để lại các dấu hiệu, toàn là những lời khiến người ta phải tuyệt vọng. Muốn dọa khiếp kẻ xâm nhập ư? Nếu chỉ là vậy, tại sao những cạm bẫy đó lại không thực sự đẩy người ta vào chỗ chết chứ?" Trong lòng gã hiểu rất rõ, mặc dù gã và Merkin đều đã dốc hết toàn lực, mấy lần thập tử nhất sinh, nhưng cũng phải thừa nhận, những cơ quan cạm bẫy đó căn bản chưa hề triển khai toàn bộ, dường như người thiết kế cơ quan đã cố ý nương tay một chút. Cạm bẫy giống như một kẻ lúc nào cũng ở phía sau truy đuổi bọn họ, nhưng từ đầu chí cuối vẫn không hạ sát thủ. Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng có cảm giác, những cạm bẫy này dường như không phải dùng để giết người, ít nhất thì cũng không dùng để giết chết hai người bọn họ, mà là một khảo nghiệm, giống như trong Đảo Huyền Không tự vậy. Họ phải vuợt qua khảo nghiệm này mới có tư cách tiếp tục tiến lên phía trước, bằng không sẽ bị vây khốn ở đây cho đến chết. Người thiết kế cơ quan không để cho những kẻ không thể vượt qua khảo nghiệm bất cứ cơ hội lùi bước nào.
Nghĩ vậy, tư duy Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng thêm rành mạch, để lại văn tự ở nơi tưởng chừng là tuyệt lộ này, thoạt trông thì có vẻ khiến người ta suy sụp tinh thần mất đi ý chí, nhưng sự thực, nếu đúng là cùng đường tuyệt lộ rồi thì cớ gì phải để lại những lời đó nữa? Vậy chẳng phải là vẽ rắn thêm chân hay sao? Nếu không phải là tuyệt lộ thì hàng chữ để lại ấy lại hơi có chút giấu đầu hở đuôi, càng cố che đậy càng lộ ra ý đồ. Vậy tức là, mấy chữ đó chỉ có thể ngăn được những người tâm trí không kiên định, còn đối với những người một lòng muốn phá giải bí mật của thần miếu như bọn gã, ngược lại còn là một sự cổ vũ tinh thần nữa. Trác Mộc Cường Ba bừng tỉnh ngộ, thì ra là vậy, những người Qua Ba cổ đại kia sớm đã để lại yếu quyết để tiến vào Bạc Ba La thần miếu ngay ở ngoài cửa lớn rồi.
Một người huyết thống thuần chính!
Một người trí tuệ tuyệt luân!
Một người không biết sợ hãi, thân thủ phi phàm!
Tất cả mọi thứ đều xoay chuyển xung quanh ba câu này, nếu thiếu bất cứ điều kiện nào trong ba điều kiện trên, ở trong thần miếu này ắt hắn sẽ khó lòng tiến bước. Trác Mộc Cường Ba bất giác thầm nghĩ, không ngờ mình lại được ăn theo Merkin, nếu không có y, không hiểu mình có thể đi được bao xa trong Bạc Ba La thần miếu này? Nghĩ tới đây, gã lại không khỏi nhớ đến pháp sư Á La, Lữ Cánh Nam và Mẫn Mẫn, không hiểu tình hình của họ lúc này ra sao rồi?
"Tôi lên trước." Merkin xung phong.
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu phản đối: "Ông đang bị thương, để tôi đi trước, ông đi sau." Tuy lúc hai người rơi xuống, gian đại điện đã dựng đứng lên, nhưng độ cao từ điểm rơi xuống mỏm đá cũng phải hai ba chục mét, cho dù đã sử dụng phương pháp cuộn người lộn vòng trong môn nhảy dù thì ngã từ độ cao ấy xuống cũng không phải chuyện chơi.
Hai người liền xuất phát ở chỗ hàng chữ nhỏ ấy, sử dụng ánh sáng có hạn của ngọn đèn pha tìm đường trong bóng tối, áp mình vào vách đá, nhích từng chút một, cũng không xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn. Merkin suy đoán rất chính xác, leo qua chỗ ngoặt trên vách đá, phía trước liền xuất hiện một chiếc cầu đá.
Hai người yên ổn lên cầu, phía sau là một con dốc, bậc thang kéo thẳng lên trên, hiển nhiên nó nối liền với lối ra của gian đại điện. Phía trước là cây cầu đá rộng chừng ba mét, bắc qua hai bên khe nứt. Cây cầu này cũng giống như mọi con đường ở nơi này, không có lan can, vươn thẳng sang phía đối diện, bên dưới là vực sâu. Đầu cầu bên kia là một vách đá khác, cửa lớn rộng mở, khêng biết ẩn chứa huyền cơ gì bên trong.
"Đi thôi." Trác Mộc Cường Ba hít sâu một hơi, hai người đưa mắt nhìn nhau, rồi sải chân bước lên cầu.
Trong đại điện đèn đuốc sáng rực, pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam sớm đã không còn để ý đến đám lính đánh thuê kia nữa, mà dồn sự chú ý lên những tác phẩm điêu khắc ở đây.
"Sợ hãi gấp ba!" Vừa nhìn thấy những bức tượng này, Lữ Cánh Nam tức thì liên tưởng đến một thuật ngữ trong ngành tâm lý học. Không biết là trùng hợp, hay là người xưa đã cố ý làm vậy, song nhìn những bức tượng này, có lẽ vế sau chiếm khả năng lớn hơn. Nếu đúng như vậy, chứng tỏ rằng nguời Qua Ba cổ đại cũng nghiên cứu rất sâu về tâm lý học rồi.
"Sợ hãi gấp ba" là một hiện tượng tâm lý. Con người ở thời thơ ấu, tâm trí vẫn chưa hoàn toàn thành thục, có một độ tuổi ký ức mơ hồ, khoảng ba bốn tuổi gì đó, cũng có trường hợp sớm hơn, khoảng hai ba tuổi. Khi đó, trẻ con trông thấy người lớn, liền có cám giác như đó là thiên thần, bởi người lớn dù là thể hình hay sức mạnh đều hơn xa một đứa trẻ con ba bốn tuổi. Đứa trẻ khi ấy, vì hoàn toàn không có năng lực chống cự lại người lớn, nên chúng sợ hãi nhất chính lả người lớn, mà thể hình của một người lớn bình thường, so ra thì vừa khéo bằng khoảng ba lần một đứa trẻ ba bốn tuổi bình thường.
Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học, nỗi sợ này đã bén rễ vào sâu thẳm trong tâm trí con người, dù là khi đã trưởng thành, trong mỗi người đều tồn tại nỗi sợ hãi gấp ba này. Nói cách khác, khi một người trưởng thành gặp phải một sinh vật có thể hình to gấp ba lần bản thân, ắt sẽ sinh ra một cảm giác sợ hãi mang tính bản năng.
Những bức tượng này, nhỏ nhất cũng cao chừng năm sáu mét, vừa khéo bằng khoảng ba lần một người trưởng thành, lại được điêu khắc giống hệt như người thật, bước đi giữa chúng, người ta không khỏi thấy dâng lên thứ cảm giác sợ hãi vì không thể phản kháng đó. Dĩ nhiên, thu hút nhất vẫn là những bức tượng lớn, cao mấy chục mét, nổi lên như một tòa nhà đồ sộ, thần thái uy nghi, khiến ai ai cũng có cảm giác kính sợ. Điều khiến bọn họ kinh ngạc nhất là, hình dạng những bức tượng này hoàn toàn không giống tạo hình của tượng trong Phật giáo. Tượng Phật bình thường đa số đều đứng thằng, dáng điệu trang nghiêm, sắc mặt từ ái hoặc phẫn nộ, hai mắt khép hờ nhìn xuống; còn những bức tượng ở đây lại thiên về tả thực, nét mặt của những người khổng lồ cao hai ba chục mét ấy thảy đều khác nhay, tư thế cũng khác nhau, thoạt nhìn như thể một đám người khổng lồ vẫn đang sống sờ sờ ra đó vậy.
Phía đông có một nhóm tượng năm bức, đều cao khoảng hai lăm mét, trong dó có một pho ngồi xổm, hai mắt chăm chú nhìn xuống đất, như muốn nhìn rõ xem đám người tí hon bên dưới rốt cuộc muốn làm gì. Một pho tượng khác xem dáng vẻ như thể đang nhón chân bước tới sau lưng y, chuẩn bị vỗ vai một cái, nét mặt cẩn trọng pha lẫn đùa cợt; hai pho tượng khác đang châu đầu vào nhau, một người ghé miệng vào tai người kia, ánh mắt lại liếc sang hướng khác, còn một người thì nhoẻn miệng nở một nụ cười hiểu ý; người còn lại bên cạnh chỉ một ngón tay xuống đất, tựa như đang chỉ vào đám kẻ trộm báu vật này, tay kia kéo kéo vạt áo của người đang chăm chú lắng nghe kia, môi hơi hé ra, hình như chuẩn bị nói với người kia: "Có khách đến."
Nhóm tượng này tuyệt đối không phải tượng Phật. Hình dạng các pho tuợng rất giống thật, động tác tự nhiên y như một đám diễn viên khổng lồ đang diễn kịch nói. Phục sức của tượng cũng là áo rộng vạt lớn, thắt eo, tương tự như dân Tạng bình thường. Nếu nói họ là các vị anh hùng, thì những người khổng lồ này có cả nam cả nữ, không giống võ sĩ cũng khỏng giống văn thần; còn bảo họ là thần Phật thì trong ấn tượng của Lữ Cánh Nam, không hề có vị thần Phật nào trông như thế cả. "Lẽ nào là anh hùng của bộ tộc Qua Ba?" Lữ Cánh Nam ngẫm nghĩ, rồi buột miệng hỏi thành tiếng.
Pháp sư Á La mỉm cười thản nhiên nói: "Đây là các vị thần."
"Thần?" Lữ Cánh Nam nhíu đôi lông mày thanh tú lại.
Pháp sư Á La giải thích: "Đúng, không phải các vị thần trong Phật giáo, cũng không phải thần trong Bản giáo, mà là thần trong tín ngưỡng dân gian của Tây Tạng, nhưng trong Phật giáo và Bản giáo cũng có ghi chép về họ, chỉ là lời lẽ khác nhau mà thôi. Nếu ta không lầm, năm pho tuợng nay là năm vị thần núi, nhưng rốt cuộc là năm vị nào thì cũng không rõ. Vì Tây Tạng chúng ta có rất nhiều thần núi, miêu tả về các vị thần đều từa tựa nhau, không có thú cưỡi và pháp khí thì khó lòng xác nhận được."
Nét mặt Lữ Cánh Nam liền trở nên nghiêm trang kính cẩn: "Những bức tượng lớn nhỏ ở đây, toàn bộ đều là thần linh sao? Tại sao lại giống như người bình thường vậy?"
Pháp sư Á La mìm cười: "Bình thường hóa các vị thần linh, vừa khéo hợp với áo nghĩa Phật chúng bình đẳng, ta tức là Phật của Thánh giáo chúng ta."
"Các người xem những vị thần này, giống như đang làm gì vậy?" Người trẻ tuổi dột nhiên xen vào hỏi.
Nghe người trẻ tuổi ấy nhắc nhở, Lữ Cánh Nam mới phóng tầm mắt ra rộng hơn, không tập trung vào một hai pho tượng hay một nhóm tượng nào đó nữa, mà cố gắng có một cái nhìn tổng thể về tất cả các pho tượng trong gian rộng lớn này. Chỉ thấy những vị thần linh ấy tụm năm tụm ba, đằng này một nhóm, đằng kia một nhóm, đều đang đàm luận gì đó, cũng có người nhíu mày trầm ngâm suy nghĩ. Xa hơn chút nữa, không ngờ cũng có tượng của Tạng truyền Phật giáo, chỉ là khoảng cách quá xa, nhìn không được rõ lắm. Nhưng nhìn mấy pho tượng lớn nhất, Lữ Cánh Nam vẫn có thể khẳng định, các tượng Phật ấy trang nghiêm hơn tượng thần này nhiều, tuy cũng đang trò chuyện, nhưng chỉ hơi nghiêng đầu, liếc mắt, không giống các tượng thần linh ở phía này, kẻ đứng người ngồi, tư thế hết sức tùy tiện.
Thị lực của pháp sư Á La tốt hơn của Lữ Cánh Nam, ông nhìn thấy đằng phía sau các bức tượng Phật ấy, ở mé phía Tây có một số bức tượng khác nữa, tạo hình độc đáo kỳ dị, nửa người nửa yêu, một sừng, một mắt. Một tia chớp lóe lên trong đầu pháp sư, ông lập tức hiểu ra, đại điện khổng lồ này quy mô thực sự vĩ đại, đã dung nạp hết mọi lực lượng về một mối. Các thần linh trong truyền thuyết thần thoại dân gian của Tây Tạng cổ chiếm cứ một phương, các vị Phật trong Tạng truyền Phật giáo chiếm một phương, các Tán, Ma, Niên trong Bản giáo cổ đại chiếm một phương, ngoài ra còn một số bức tượng khác mà ngay cả pháp sư Á La cũng không biết lai lịch từ đâu. Các loại thần Phật của Tây Tạng cổ đại đều tề tựu về đại sảnh này, từ những vị người đời đã biết, cho đến những vị xưa nay không được nhắc đến trong kinh sách nào. Quy mô hùng vĩ, số lượng đầy đủ, chỉ riêng một đại điện này thôi, cũng đã ẩn chứa không biết bao nhiêu bí mật và tri thức đủ khiến người đời phải sững sờ kinh hãi rồi! Nếu có thể để các chuyên gia học giả đến khảo chứng, thực không biết sẽ phát hiện ra được bao nhiêu thứ có giá trị văn hóa lịch sử to lớn nữa!
"Hình như đang hội đàm thảo luận gì đó?" Lúc này, Lữ Cánh Nam đã trả lời được câu hỏi của người trẻ tuổi kia. Không sai chút nào, những tuợng thần này ghé đầu ghé tai vào nhau, túm năm tụm ba, thực giống như đang tham gia một buổi thảo luận. Nguời Qua Ba cổ đại đã lợi dụng những mỏ đá khổng lồ duới lòng đất, đẽo gọt ra vô số bức tượng cỡ lớn, rồi thỉnh tất cả các vị thần Phật ấy về một gian đại điện. Sắp xếp theo hình thức tương tự như đàn tràng Mạn đà la, chính là để bọn họ tham gia hội thảo ư? Người xưa rốt cuộc muốn thông qua những pho tuợng này nói gì với chúng ta? Các vị Phật này thuộc về nhiều giáo phái khác nhau, rốt cuộc đang thảo luận luận điều gì?
Người trẻ tuổi cũng đang hỏi Lữ Cánh Nam đúng câu hỏi ấy: "Đúng vậy, đúng là đang hội thảo, vậy các người có biết, bọn họ đang thảo luận vấn đề gì không?" Câu hỏi này Lữ Cánh Nam không trả lời được, thần linh đang thảo luận vấn đề gì, người trần mắt thịt làm sao có thể biết được chứ?
"Ừm, đáp án ở đằng kia." Người trẻ tuổi vươn thẳng cánh tay, chỉ về phía đằng xa.
Lữ Cánh Nam nhìn theo hướng đó, chỉ thấy ở chỗ xa nhất dường như có một bức điêu khắc rất lớn, những người khổng lồ cao hai ba chục mét kia vẫn còn chưa cao bằng một phần bức tượng này. Thứ ấy, có lẽ là tác phẩm điêu khắc lớn nhất trong đại điện này rồi, chỉ có điều khoảng cách quá xa, lại bị vô số các tượng thần lớn nhỏ chắn mất tầm mắt, không dễ gì nhận ra được. Nhìn từ xa, trông vật ấy tựa như một quả đào, có điều phần chóp đỉnh lại không nhọn, hơi giống quả táo. Lữ Cánh Nam lắc đầu, sợ rằng đi đến được đó cũng phải mất rất nhiều thời gian, chỉ đành chờ khi nào lại gần hơn chút nữa, ra chỗ thoáng đãng rộng rãi mới nhìn rõ được.
Tuy Pháp sư Á La từ đầu đến cuối không nói không rằng, nhưng cũng muốn tìm hiểu cho rõ ràng. Người trẻ tuổi đề nghị: "Đi xem đi, để vén lên tấm màn bí mật che phủ trong lòng các người." Nghe giọng điệu ấy, dường như y vốn không hề lo lắng bọn họ sẽ bỏ chạy. Pháp sư Á La không khỏi thầm than: "Kẻ này tự tin quá."
Ý NGHĨA CỦA SỰ TỒN TẠI
Lữ Cánh Nam dìu pháp sư Á La, cùng tiến về phía bức điêu khắc khổng lồ. Dọc đường toàn là các tượng thần Phật cao lớn, trước mặt một số vị thần Phật quan trọng có kê một chiếc bàn đá khổng lồ. Đồ vật bày trên những bàn đá ấy đã không thể gọi là đồ thờ cúng được, toàn bộ đều là châu báu sáng lấp lánh, chất thành đống như quả núi nhỏ. Bọn lính đánh thuê đang mải mê leo lên leo xuống, qua qua lại lại giữa những ngọn núi báu vật. Chúng cứ hết hơi hết sức, khó khăn lắm mới leo lên được một cái bàn, trong đầu chỉ còn biết đống báu vật rực rỡ, sáng mắt lên lao bổ vào giữa một rừng pháp khí và châu báu, bị va đập mạnh cũng chẳng hề đau đớn. Nhưng khi chúng leo lên đến đỉnh một ngọn núi châu báu, nhìn sang bàn khác, lại phát hiện ra đống châu báu ở cái bàn đằng xa ấy to hơn đống bên này, bảo vật nhiều hơn, tinh xảo đẹp đẽ hơn, vậy là lại nhao nhao leo xuống, lao về phía cái bàn kia, đợi khi leo được lên đến đỉnh, lại có phát hiện mới, vậy là lại hùng hục xông đến một chỗ khác.
Bọn lính đánh thuê nhảy nhót leo trèo như khỉ, hùng hục lao như sói, túi quần túi áo nhét căng các loại đồ trang sức vàng bạc, có tên nhét đầy túi, hai tay cũng không cầm hết được, liền dùng miệng cắn, dùng đầu đội. Nhiều tên khác thì dùng túi da rắn cỡ lớn đã chuẩn bị từ trước, nhét đầy hai túi, buộc dây thừng vào lối đi xềnh xệch, rõ ràng đã nặng đến nỗi không kéo nổi nữa, mà vẫn ra sức nhét vào, trông thấy thứ gì trân kỳ là lại bất chấp tất cả lao xồng xộc tới, lại bỏ những thứ đã nhét vào vung vãi ra ngoài, trông bừa bãi hết sức.
Thi thoảng cũng có tranh chấp, nhưng Khafu trị thuộc hạ rất nghiêm khắc, luôn có một nhân vật kiểu như tiểu đội trưởng đứng ra hòa giải, hai bên lập tức ngừng ngay lại, càng không nói đến việc phải đụng dao đụng súng. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là báu vật ở đây quá nhiều, cho dù bọn lính đánh thuê này có dốc hết tâm lực ra cũng chỉ mang đi được một phần không đáng kể mà thôi.
Kim cương xử, Thập tự kim cương xử, Phản vạn tự kim phù, Kim cương quyết, Hoàng kim cô lâu bổng, Cốt bổng, Thiên yết kiếm, Thiên yết mâu, Thiên yết câu, Hoàng kim lâu cốt, Thất bảo hải loa, Kim dực điểu, Ma yết, voi, hổ, ngựa, Hoa mạn cung, Câu hồn bài, Thổ bảo thử...
Các loại pháp khí và bảo vật Mật giáo nằm lăn lóc vương vãi khắp nơi, pháp sư Á La nhìn mà lắc đầu suốt, ông rảo chân bước nhanh ra phía xa, ít nhất cũng coi như khuất mắt trông coi.
Chẳng rõ đi được bao lâu, nhữmg tiếng cười the thé náo động, tiếng gào hét đã không còn lọt vào tai họ nữa, hai người dần rút ngắn khoảng cách với bức điêu khắc lớn nhất ở trung tâm, càng đến gần, lại càng thấy kinh hãi. Bức điêu khắc này quả thật rất lớn, cao chừng trăm mét, gần như chạm đến trần đại điện, khi đến gần họ mới phát hiện, hình như đây là một cái đầu người, phần họ trông thấy có lẽ là cái gáy.
Một cái đầu người cao cả trăm mét, đặt chính giữa các loại thần Phật của nhiều tôn giáo khác nhau, người Qua Ba cổ đại rốt cuộc muốn biểu đạt điều gì? Cả pháp sư Á La lẫn Lữ Cánh Nam đều hiểu rõ, bức điêu khắc lớn thế này, đến quá gần sẽ chỉ có thể nhìn thấy một bộ phận, hai người bèn quyết định không tiến lên nữa, mà xuyên qua các tượng thần Phật, đi vòng ra phía chính diện bức tượng đầu người khổng lồ.
Đi mất gần một tiếng, Lữ Cánh Nam đột nhiên dừng lại, tò mò nhìn xuống mặt đất xung quanh. Pháp sư Á La lướt ánh mắt qua, lập tức hiểu Lữ Cánh Nam phát hiện ra điều gì. Mặt đất chỗ họ đang đi có màu sắc hơi khác với mặt đất chỗ đằng xa kia, có điều, vì diện tích quá lớn nên không dễ gì phát hiện được. Màu sắc dưới đất lại vẽ nên những đường tròn đồng tâm xung quanh tượng đầu người, để ý quan sát sẽ thấy các tượng thần Phật phân bố trên mỗi vòng tròn ấy đều khác nhau. Pháp sư Á La ngẫm nghĩ hồi lâu, thầm nhủ: "Bố cục này, kết cấu này, lẽ nào là Đại diễn Luân hồi đài trong truyền thuyết?" Ông bất giác nhớ lại miêu tả về Luân hồi đài trong kinh điển Mật giáo: "Các vị thần Phật, đưa mắt nhìn vào, sinh tử luân hồi, mãi không chấm dứt..."
Lữ Cánh Nam xem xét một lúc rồi nói với pháp sư A La: "Chỗ này cũng có cơ quan, chỉ là chưa khởi động thôi." Pháp sư Á La chầm chậm gật đầu. Hai người càng thêm dè dặt, các tượng đá ở đây cái nhỏ nhất cũng cao năm sáu mét, cái lớn thì cao đến hai ba chục mét, nếu cơ quan khởi động thật, tuyệt đối chẳng phải chuyện chơi. Không biết bao lâu sau, hai người rốt cuộc cũng đến được phía trước tượng đầu người đó, cảnh tượng đạp vào mắt không khỏi khiến họ sững sờ. Đây chính xác là một bức tượng đầu người khổng lồ, ngũ quan rõ nét, đầu không có tóc, nhưng không liên quan gì đến hình tượng Phật hay La hán trong tôn giáo mà lại hơi giống những hình người ở chỗ Cánh cửa Chúng sinh: không có tóc, cũng không phân biệt nam nữ. Không thể phân biệt được các đường nét trên gương mặt pho tượng đầu người này, bởi toàn bộ phần mặt bò lúc nhúc các loại trùng kiến, toàn là những loài sinh vật hung dữ, có độc, khiến người ta nhìn mà phát sợ. Các loại sinh vật có độc bò ngang dọc khắp trên bộ mặt khổng 1ồ ấy, mỗi con đều được điêu khắc tinh xảo giống hệt vật sống, nhìn từ xa thậm chí còn có cảm giác như chúng đang nhung nhúc di động.
Bản thân gương mặt của tượng đầu người ấy vốn đã rất hung dữ, cái miệng há to, lỗ mũi hếch lên, bộ dạng như thể đang chọn người để cắn nuốt, hai mắt lồi hẳn ra ngoài, tròng mắt tựa hồ đang trừng lên nhìn sinh vật trước mặt mình. Nhãn cầu được điêu khắc như mắt của đứa trẻ bị não úng thủy, chỗ lông mày tuy bị độc trùng phủ kín, song vẫn nhìn ra được hai hàng lông mày chau lại như thể đang trầm ngâm nghĩ ngợi điều gì đó. Nhìn từ xa, đây là một bức tượng đầu nguời bị buộc phải banh miệng ra, hai mắt hết sức kinh hãi, đồng thời lại lộ ra dáng vẻ lo lắng trầm tư. Thị lực của pháp sư Á La rất tốt, ông còn trông thấy trong cặp mắt trũng xuống và cái miệng khổng lồ đang há to ra ấy dường như còn thứ gì khác, bèn cùng Lữ Cánh Nam tiến lại gần hơn để nhìn cho rõ.
Khi khoảng cách rút ngắn lại, những sự vật trong miệng và trong nhãn cầu của tượng đầu người cũng dần trở nên rõ ràng hơn. Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La càng lúc càng thêm kinh ngạc. Chỉ thấy trên cặp mắt của pho tuợng đầu người khống lồ ấy toàn là những hình chạm khắc các tư thế giao hợp của nam và nữ, còn trong cái miệng há to kia lại có cả chim bay thú chạy, cây cỏ hoa lá, đủ các loại người, thần Phật yêu ma... không gì là không có. Quan sát ở cự ly gần mới thấy, lũ độc trùng trên gương mặt kia không chỉ đang cắn xé bộ mặt người khổng lồ, mà đồng thời cũng đang cắn xé lẫn nhau. Phần xương đầu phía trên trán một chút đã bị bọn độc trùng cắn thủng một lỗ, cơ hồ tất cả lũ độc địa ấy đều chen chúc, tranh nhau bò về phía cái lỗ ấy, cũng có rất nhiều độc trùng bò ra từ trong tai, lỗ mũi và khóe mắt của pho tượng, song số nhiều hơn lại muốn chui vào... Pháp sư Á La và Lử Cánh Nam chưa bao giờ gặp tác phẩm điêu khắc nào giống thế này, không có trong Mật giáo, Phật giáo hay Bản giáo, thậm chí cả trong các truyền thuyết thần thoại lưu truyền trong dân gian cũng không có thứ kỳ dị đặt giữa trung tâm của chư thần chư Phật này rốt cuộc là gì?
"Pháp sư đại nhân, thứ... thứ này... trong điển tịch có nhắc đến không?" Lữ Cánh Nam hỏi với vẻ đầy nghi ngại.
Pháp sư Á La khẳng định: "Không có, tuyệt đối không có! Có lẽ, người Qua Ba sau khi tới đây mới điêu khắc ra thứ này. Ta tin chắc ở bất cứ nơi đâu trên thế giới, cũng không thể tìm được một bức điêu khắc tương tự. Thứ này rốt cuộc tượng trưng cho điều gì? Đặt nó ở vùng trung tâm của tất cả tượng thần Phật, để các vị thần linh suy tư, rốt cuộc là suy tư vấn đề gì?"
"Tồn tại!" Giọng nói của người trẻ tuổi kia vang lên ở đằng trước, kế đó, hai người liền thấy y bước ra từ phía sau một pho tuợng đá lớn. Thì ra, sau khi Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đi, người trẻ tuổi ấy cũng tò mò đến xem xét bức điêu khắc trung tâm đại điện. Y đi lối tắt, nên đến phía dưới bức tượng đầu người khổng lồ trước Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La, và đã ở đây quan sát được một lúc lâu rồi.
"Tồn tại?" pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam thực sự không thể liên hệ tác phẩm điêu khắc trước mắt với lời người trẻ tuổi kia vừa nói.
"Đúng thế, sự tồn tại." Người trẻ tuổi chắp hai tay sau lưng bước tới, nét mặt lộ vẻ đắc ý, bộ dạng tựa như một hướng dẫn viên thâm niên trong viện bảo tàng, chậm rãi giải thích cho hai người: "Trong tất cả các sinh vật, những loài sở hữu ý thức tự ngã cực kỳ hiếm hoi, voi, cá heo, tinh tinh, gorilla... đếm được trên đầu ngón tay, đại đa số các sinh vật còn lại đều chỉ hành động theo bản năng. Mục đích tư duy của chúng cũng chỉ là để thỏa mãn nhu cầu mang tính bản năng: lãnh địa, ăn, giao phối. Những sinh vật cấp thấp hơn nữa còn không có năng lực tư duy, ngay cả phương thức hành vi của chúng cũng đều được di truyền trực tiếp từ đời cha ông. Bọn chúng chỉ là một bản sao của chính mình, không ngừng lặp lại bản thân trong dòng thời gian vô tận. Chỉ có con người các ngươi, mới thực sự học được và có khả năng sử dụng tư duy để sáng tạo."
Nói đoạn, người trẻ tuổi giơ tay chỉ về phía bức tượng đầu người khổng lồ. Điểm này thì Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La chỉ có thể gật đầu thừa nhận, xét cho cùng, ngoại trừ sinh vật ngoài hiành tinh có trí tuệ cao xưa nay vẫn luôn nằm trong vòng nghi vấn, con nguời có thể xem là vạn vật chi linh, là loài duy nhất trên địa cầu nắm được năng lực tư duy và vận dụng nó một cách thành thục. Đây là sự thật đã được công nhận rộng rãi.
Nhưng pháp sư Á La lại để ý thấy, người trẻ tuổi kia không nói "con người chúng ta", mà là "con người các ngươi", nhìn vẻ mặt khinh khỉnh của y, tựa như không thèm tự nhận mình là con người vậy.
"Rất rõ ràng, người Qua Ba cổ đại từ hơn một nghìn năm trước đã nhận thức được đại não, chứ không phải trái tim, mới là hạt nhân của tư tưởng, sớm hơn châu u cả mấy trăm năm," người trẻ tuổi cười gàn lạnh lẽo, nói: "Vì vậy bản thân bức tượng đầu người này hẳn là đại diện cho một con ngườỉ. Trung khu của năng lực hành vi, năng lực phán đoán, năng lực tư duy đều nằm ở đại não, đó cũng là điểm duy nhất khác biệt giữa nhân loại và các loài sinh vật khác. Khi quan sát từ xa, các người có nhận ra gương mặt này hơi quen quen không? Không tính đến thể tích khổng lồ và những loài độc trùng bò đầy mặt kia, trông nó có giống bức "Người suy tưởng" của Rodin hay không? Nếu không xét tới bộ mặt kinh khủng như vậy, cũng không xét tới cái miệng há to, mà chỉ nhìn vào hai hàng chân mày nhíu chặt kia, rõ ràng những người Qua Ba cổ đại đó đã nắm bắt được cách biểu đạt hai chữ "suy tưởng" một cách rất hoàn mỹ" Nghe người trẻ tuổi chỉ ra vậy, Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đều chau mày, nghxi kỹ lại cũng thấy hơi giống thật. Hiển nhiên năng lực quan sát của người trẻ tuổi này sắc bén hơn họ rất nhiều, nhưng càng như vậy, hai người lại càng thêm lo lắng, đồng thời cũng không khỏi run sợ trong lòng. Họ cảm thấy có điều gì đó không ổn, nhưng lại không sao nói ra được.
"Trong cặp mắt toàn là dục vọng." người trẻ tuổi thu nụ cười lại, ngước nhìn hai mắt pho tượng, "có lẽ các người cho là vậy, nhưng thực ra không phải, tin rằng cả hai đều không lạ lẫm gì với Hoan hỉ thiền trong Tạng truyền Phật giáo, chắc cũng từng gặp vô số các bức điêu khắc miêu tả cảnh quan hệ nam nữ. Hai người xem những hình khắc nam nữ giao cấu trong đôi mắt này, so với những bức điêu khắc ấy, có chút khác biệt nào không? Những hình khắc này kỳ thực chỉ là những bức tranh giao phối rất nguyên thủy, rất bình thường mà thôi, chúng tượng trưng cho sự sinh sản. Bất cứ loài nào muốn duy trì sự tồn tại của mình, cho dù sử dụng phương thức nào chăng nữa, cũng không thể tách khỏi hai chữ 'sinh sản' được. Sinh sản là phương pháp duy nhất để mọi thể sống hữu hạn bảo tồn được hệ thống tự thân của chúng, nhân loại các người cũng không ngoại lệ."
Nghe đối phương giải thích, Lữ Cánh Nam mới ngẩng lên nhìn lại cặp mắt của bức tượng đầu người, quả nhiên, những hình tượng nam nữ trong đó tuy đang tiến hành giao phối với nhiều phương vị, tư thế khác nhau, nhưng thứ được nhấn mạnh ở đây đích thực không phải tính dục, thậm chí người xưa còn cố ý ẩn đi vẻ hoan lạc của hai bên. Nét mặt của các cặp nam nữ đều nghiêm túc dị thường, giống như những cặp khổ sai đang lao động vất vả vậy. Lột bỏ đi tấm áo ngoài văn minh, thực ra hành vi mà nhân loại phê phán, ngợi ca, cảm thấy thần bí, cảm thấy tò mò, cảm thấy hổ thẹn, cảm thấy khinh thường ấy, chẳng qua chỉ vì một mục đích cực kỳ đơn giản... sinh sản!
Không dừng lại ở đó, người trẻ tuổi tiếp tục cất tiếng: "Mắt nhìn xa hơn, vì vậy nó nhìn thấy ý nghĩa bản chất của sự tiếp diễn giống nòi... sinh sản, còn miệng, trong cái miệng lớn này có vô số thứ, bao la vạn tượng, nhưng bất luận thế nào cũng không thể thoát ra khỏi phạm trù vật chất hữu cơ. Nó tượng trưng cho sự tuần hoàn của năng lượng, ừm, nói vậy có vẻ hơi thâm ảo quá, có lẽ người xưa biểu đạt đơn giản hơn một chút, nhưng tôi cảm thấy, nó chính là tượng trưng cho sự tuần hoàn của năng lượng. Một giống loài muốn tiếp tục tồn tại thì không thể tách rời khỏi sự sinh sản, còn một cá thể sinh vật muốn tiếp tục tồn tại thì không thể không có tuần hoàn năng lượng. Đối với nhân loại bình thường, đó cũng chính là... ăn. mọi thứ điêu khắc bên trong cái miệng này, đều có thể ăn được." Người trẻ tuổi nhếch mép lên, như cười mà không phải cười, liếc nhìn cái miệng khổng lồ đó.
"Những... những tượng Phật ấy..." Lữ Cánh Nam kinh ngạc chỉ vào phía trong cùng, trong đó còn có cả tượng thần Phật yêu ma cơ mà!
Người trẻ tuổi nhìn có vẻ giễu cợt, đoạn quay sang pháp sư Á La nói: "Nếu trên đời này có yêu ma thần Phật, con người lại trong tình trạng đói không thể chịu nổi nữa, nói không chừng cũng đành bắt lấy mà ăn thôi, phải vậy không?"
Pháp sư Á La ớn lạnh cả sống lưng, đối với tôn giáo, câu nói này thực sự là một điều đại bất kính, nhưng ông lại nhất thời quên cả phản bác, trong lòng ngấm ngầm cảm thấy, có lẽ người trẻ tuổi này đã nói đúng! Trong các thần thoại truyền thuyết khác nhau, chuyện ăn thịt thần, ăn thịt ma cũng không hiếm, thí dụ như trong Tây Du Ký, bất kể là yêu ma quỷ quái hay những kẻ xấu bình thường, chẳng phải đều muốn bắt Đường Tăng ăn thịt đấy hay sao?
Người trẻ tuổi lại đưa ánh mắt thương hại liếc nhìn Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La, châm biếm: "Phàm những thứ có thể tìm được, có thể bỏ vào miệng, có loại nào mà con người chưa từng ăn chứ? Có điều, những người Qua Ba cổ đại này cũng không phê bình hành vi đó, họ chẳng qua chỉ biểu đạt một thứ bản năng bằng phương pháp đơn giản và nguyên thủy nhất mà thôi, một con người muốn tồn tại, ắt phái có sự trao đỏi náng lượng, ăn chinh là điéu kiện cơ bán nhất để nhân loại duy trì sự tồn tại của mình."
Nói tới đây, người trẻ tuổi mới dừng lại, quay đầu tiếp tục quan sát bức tượng đầu người khổng lồ. Pháp sư Á La liếc nhìn bóng lưng của y, thầm thắc mắc, người trẻ tuổi này nhắc đến cặp mắt, đến cái miệng, nhưng điểm đặc biệt, rõ ràng nhất của pho tượng này thì y lại không hề nhắc đến. Ông rốt cuộc cũng không nén được, cất tiếng hỏi: "Những độc trùng trên mặt, tượng trưng cho thứ gì?"
Người trẻ tuổi quay đầu lại, bộ dạng như một ông cụ đang dạy đời cho lũ trẻ con: "Tượng trưng cho vấn đề mà tất cả thần Phật trong đại điện này đều đang suy tư... ý nghĩa của sự tồn tại," nét mặt y lúc này tựa hồ một vị trí giả đã nếm trải đủ ngọt bùi đắng cay của cuộc đời, trong mắt toát lên niềm cảm ngộ cùng sự xót thương trước thế sự đa đoan. Pháp sư Á La thầm kinh hãi, mỗi cử động dù là nhỏ nhặt nhất của người trẻ tuổi này, không ngờ đều mang theo ám thị tâm lý rất mạnh mẽ, khiến người ta chấp nhận quan điểm của y một cách vô thức, thủ đoạn này... đáng sợ, thật sự quá đáng sợ!
Nhân lúc người trẻ tuổi ấy không để ý đến mình, pháp sư Á La khẽ nói với Lữ Cánh Nam: "Nghe y nói, chớ nhìn vào mắt y." Lữ Cánh Nam cơ hồ đột nhiên tỉnh ngộ, làm một động tác nhỏ, biểu thị ý "đã biết" với ông, mắt vẫn nhìn về phía người trẻ tuổi kia, nhưng ánh mắt thì đã chếch ra tít đằng xa.
Người trẻ tuổi kia hoàn toàn không phát giác ra động tác nhỏ của hai người, hoặc giả đối với y, kiểu cách nói chuyện đầy ám thị này sớm đã trở thành một thosiquen rồi cũng nên. Y tiếp tục giải thích: "Ý thức của trẻ con lúc mới sinh ra là một mảng trống rỗng, như một tờ giấy trắng vậy, khi nó phát ra tiếng khóc đầu tiên, nghe thấy âm thanh đầu tiên của thế giới này, cũng giống như vạch lên tờ giấy trắng ấy một nét bút, khi nó mở mắt ra, bắt được tia sáng đầu tiên, cũng giống như vạch thêm một nét bút nữa lên tờ giấy trắng ấy, cứ thế trải qua một đời người, những gì nhìn thấy, nghe thấy, ngửi thấy, nếm được, tiếp xúc được, cảm tri được, tất thảy mọi thứ đều vạch lên vô số đường nét khác nhau trên tờ giấy trắng ấy. Đối với bức tượng này, mỗi sự vật trên thế gian, đều được biểu đạt bằng một con độc trùng, có lẽ ẩn hàm đạo lý "Ngũ sắc khiến mắt người ta mù lòa, ngũ âm khiến người ta điếc lác" của Đạo gia. Cuối cùng, đời người sẽ giống như bức tượng này vậy, bị các loại độc trùng bò khắp nơi, chui vào trong óc, bụp..." Người trẻ tuổi phát ra âm thanh như thể tên lửa bắn vút lên, tay làm động tác biểu thị mọi thứ dều kết thúc.
Pháp sư Á La thấp giọng nói: "Lời từ một phía, không thể tin hết được."
Lữ Cánh Nam hỏi: "Ngươi nói các vị thần Phật ở đây đều đang suy nghĩ, suy nghĩ cái gì? Trên mặt bò đầy sâu bọ, tượng trưng cho ý nghĩa của sự tồn tại ư?"
Người trẻ tuổi đáp: "Toàn bộ bức tượng này biểu đạt một sự mâu thuẫn của tồn tại, cặp mặt tượng trưng cho sự tồn tại của giống loài, cái miệng tượng trưng cho sự tồn tại của cá nhân, còn các loại sâu độc bò khắp mặt tượng trưng cho mâu thuẫn của hai sự tồn tại này, đây là một cuộc giao tranh rất dữ dội. Ai cũng biết, một sinh mệnh sinh ra trên đời này, kết quả cuối cùng là cái chết, chưa bao giờ có ngoại lệ, từ đó suy rộng ra, kết quả cuối cùng của bất cứ loại vật chất nào xuất hiện trên thế gian này cũng đều là diệt vong, tiêu vong. Kể từ ngày bắt đầu sự tồn tại của mình, nó đã bước trên con đường dẫn đến sự không tồn tại. Ngay cả chúng ta, trong vũ trụ này, chúng ta cũng chỉ sinh ra từ một điểm đơn lẻ, cuối cùng lại trở về một điểm đơn lẻ, sinh ra trong hư vô, rồi lại trở về với hư vô. Đây chính là điểm quy tụ cuối cùng của toàn bộ vật chất mà thời gian và không gian có thể bao hàm. Như vậy, sẽ nảy sinh một vấn đề nếu sinh ra chỉ là bắt đầu của chết đi, mục đích cuối cùng của sự tồn tại đều là hủy diệt, vậy thì, ý nghĩa của sự tồn tại rốt cuộc là ở đâu? Vì cớ gì mà phải tồn tại? Kể từ khi nhân loại sở hữu ý thức tư tưởng có hệ thống đến nay, ngoài việc tìm hiểu xem bản thân là ai, thì vấn đề này cũng là một mệnh đề triết học chung cục. Kỳ thực, cả hai cũng có thể coi là một vấn đề. Kể từ khi con người biết ghi chép lịch sử, đã xuất hiện vô số triết gia, vĩ nhân, nhưng chưa một ai làm rõ được vấn đề này. Nói một cách đơn giản là, ta từ đâu đến? Sau này sẽ đi đâu? Gần như mọi tôn giáo đều được sinh ra để giải quyết vấn đề này. Những tôn giáo thâm ảo một chút thì cố trình bày cho rõ, tại sao con người lại sống, tại sao con người lại chết. Những tôn giáo nông cạn hơn thì trực tiếp nói với ta, con người nên sống như thế nào, và phải đối mặt với cái chết như thế nào. Nhưng sự thực là không có tôn giáo nào tìm được một đáp án chính xác, những câu trả lời mơ hồ nửa nạc nửa mỡ cuối cùng sẽ dẫn đến kết quả, những người khác nhau đọc giáo lý của cùng một tôn giáo, lại có được những câu trả lời khác nhau, thậm chí còn có nhân sinh quan và thế giới quan khác nhau nữa." Nói tới đây, y nghiêng mặt nhìn Lữ Cánh Nam nói: "Cô có biết cô tồn tại vì cái gì không?"
Lữ Cánh Nam không cần nghĩ ngợi, lập tức đáp ngay: "Đương nhiên."
Người trẻ tuổi lộ vẻ mặt như thể mình đã hỏi sai người, vỗ vỗ trán nói: "À, quên mất, cô là kẻ sống gửi."
Lữ Cánh Nam biến sắc, không tự chủ được giơ tay lên chỉ mặt người trẻ tuổi nói: "Ngươi... ngươi..."
Pháp sư Á La cũng ngầm kinh hãi, cả chuyện bí mật như vậy mà đối phương cũng biết, người trẻ tuổi này rốt cuộc đã nắm trong tay bao nhiêu bí mật?
Người trẻ tuổi cười cười nói tiếp: "Đối với một kẻ sống gửi đã quên đi bản thân mình, chỉ tồn tại vì người khác như cô, hỏi vấn đề này thành ra lại thừa thãi mất rồi."
Người trẻ tuổi lại hướng ánh mắt dò hòi sang phía pháp sư Á La, pháp sư bèn đáp lại bằng một câu kệ: "Làm theo tâm mình, cả đời không hối."
Chỉ nghe đối phương bật cười châm biếm: "Ta hỏi ông tồn tại vì cái gì, còn câu trả lời của ông lại là một phương thức tồn tại." Y lắc lắc đầu, nói tiếp: "Nói gì thì nói, điều pho tượng khổng lồ trước mặt chúng ta đây muốn biểu đạt, chính là ý này, nó đang chất vấn mọi vị thần Phật, nếu mục đích của tồn tại là để hủy diệt, vậy thì ý nghĩa của sự tồn tại rốt cuộc nằm ở đâu?"
Đôi mắt u uất của người trẻ tuổi bất ngờ ngước lên, trong mắt lóe sáng, pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam không hẹn mà cùng chìm vào suy tư. Chỉ là, điều pháp sư Á La băn khoăn không phải ý nghĩa của sự tồn tại, mà là: "Câu cuối cùng của người trẻ tuổi này hình như có nhầm lẫn, không nên nói mục đích của tồn tại là để hủy diệt, mà phải nói kết quả cuối cùng của sự tồn tại đều là hủy diệt mới đúng chứ nhỉ?"
Cả ba dường như đều đắm chìm trong suy nghĩ của riêng mình, nhất thời không ai lên tiếng. Lúc này, Lữ Cánh Nam nhìn lại bức tượng đầu người khổng lồ ấy, tức thì có cảm giác khác biệt hẳn ban đầu. Nếu không có người trẻ tuổi này giải thích, ai có thể nghĩ ra bức tượng đầu nguời thoạt trông thì xấu xí, dữ tợn và đáng sợ này, lại ẩn hàm ý nghĩa sâu xa đến thế? Nhìn mãi, nhìn mãi, cô trông thấy bên dưới cái miệng khổng lồ ấy, hình như có mấy bóng người!
VÙNG ĐẤT LINH HỒN
Bọn lính đánh thuê ấy không phải toàn bộ đều là hạng tầm thường dung tục, trong nhóm cũng có một số không bị các thứ vàng bạc châu báu chất đống lên như núi trên những bán đá khổng lồ ấy làm mê hoặc tâm trí. Bọn chúng đã quan sát, đồng thời nhanh chóng nhận ra, trên những bàn đá ấy chẳng qua chỉ là các món đồ thờ dùng để cung phụng cho những vị thần Phật phía sau, rõ ràng đẳng cấp của vị thần phía sau càng cao thì đồ vật bày trên bàn sẽ càng phong phú, châu báu càng tinh xảo đẹp đẽ hơn. Vì vậy, những tên lính đánh thuê ấy bắt đầu tìm kiếm xem trong cả đại điện này pho tượng nào có đẳng cấp cao nhất, tìm qua tìm lại, rốt cuộc chúng tìm được pho tượng lớn nhất ở chính giữa này. Tuy không biết đó là gì, nhưng nhìn thể tích của pho tượng, cả mấy tên đều khẳng định đẳng cấp của đồ vật bên trong chắc chắn không thể kém được.
Bởi vậy, khi người trẻ tuổi ra lệnh giải tán, mấy tên lính đánh thuê rất biết nhìn hàng không nói lời nào, đã chạy thẳng đến chỗ pho tượng khổng 1ồ ở chính giữa luôn. Bọn chúng đến bên dưới pho tượng còn trước cả Lữ Cánh Nam lẫn người trẻ tuổi.
Để những người ở xa cũng nhìn thấy các hình điêu khắc trong mắt và trong miệng, phần mặt của pho tượng hơi nghiêng đi một chút. Mấy tên lính đánh thuê kia vốn chẳng quan tâm đến ý nghĩa của hình khắc, chỉ một lòng tìm kiếm xem bên trong có bảo bối gì không, ngay từ đầu đã thấy trong miệng pho tượng có đủ thứ khác nhau, lại thấp thoáng lóe lên ánh sáng riêng của các loại đá quý. Cả bọn nhận định cái miệng khổng lồ ấy chính là nơi chúng cần tìm, bèn hưng phấn chạy một mạch đến bên dưới chỗ đó. Đến khi tới trước mặt pho tượng, bọn chúng mới phát hiện pho tượng đầu nguởi này quả thực quá lớn, nhìn từ xa thì thấy phần môi dưới chạm đất, nhưng đến gần mới biết muốn leo lên cũng phải tốn khá nhiều công sức. Mấy tên bèn dùng cả tay lẫn chân, dốc hết sức lực leo vào bên trong miệng bức tượng.
Thực ra, bọn Lữ Cánh Nam vẫn còn cách bức tượng đầu người ấy khá xa, nếu không quan sát kỹ, khó lòng phát hiện ra mấy tên lính đánh thuê đang đeo bám nhau leo vào trong cái miệng khổng lồ ấy. Hiển nhiên, người trẻ tuổi cũng đã nhận ra mấy kẻ này, chỉ nghe y hoảng hốt gọi lớn: "Này! Mấy thằng kia, mau trở lại!" Có điều, khoảng cách quá xa, không gian lại quá rộng lớn, tiếng kêu ấy không thể truyền đến tai mấy tên lính đánh thuê đó. Người trẻ tuổi vội vàng lấy thiết bị liên lạc ra, điều chỉnh tần số, tiếc rằng đã muộn mất một bước, còn chưa chỉnh xong Lữ Cánh Nam đã trông thấy tên lính đánh thuê nhanh nhất leo lên đến chỗ mép môi của bức tượng đầu người ấy rồi.
Tên lính đánh thuê đó còn chưa kịp vẫy tay hoan hô, thì đã bị một lực hút khổng lồ hút tuột vào bên trong. Lữ Cánh Nam thoáng ngẩn người, ngay sau đó mặt đất đột nhiên rung lên, tiếng ầm ầm vang dội như có một vật thể khổng lồ nặng cả vạn tấn đập mạnh xuống sàn. Cô đưa mắt nhìn bức tượng đầu người kia, chỉ thấy cái miệng đang ngoác to không ngờ đã ngậm lại! Mấy tên lính đánh thuê con đang đeo bám ở mép môi bức tượng cũng bị chấn động vừa rồi làm cho rơi xuống hết. Từ độ cao ấy ngã xuống, hẳn khó có tên nào sống nổi. Chỉ nghe người trẻ tuổi thấp giọng lầm bầm: "Một lũ ngu xuẩn, lại tốn thêm không ít thời gian của tao rồi!"
Sau khi cái miệng lớn ấy khép lại, cả bức tượng đầu người khổng lồ đó cũng nảy sinh tiến hóa, trước tiên là đôi mắt dần chuyển thành màu đỏ, vô số hình điêu khắc nam nữ giao phối trên con ngươi cũng nhuốm lên một sắc đỏ yêu dị, kế đó sắc đỏ lan dẫn ra phía ngoài mắt, tựa như vết nẻ trên mặt vậy. Những con độc trùng kia cũng lần lượt bị phủ lên màu đỏ, tựa như đang không ngừng vùng vẫy uốn éo, trông lại càng thêm phần sống động. Những vệt đỏ chằng chịt như mạng nhện ấy rời khỏi bức tượng, tiếp tục vươn ra khắp sàn đại điện. Máu của tên lính đánh thuê đó dù sao cũng có hạn, tuyệt đối không thể nhuộm đỏ cả một diện tích lớn như vậy được, hiển nhiên ở bên trong còn có cơ quan khác nữa. Diện tích bị nhuộm đỏ càng lủc càng lớn, toàn bộ Luân hồi đài bắt đầu từ từ chuyển động.
Lấy pho tượng đầu người khổng lồ làm trung tâm, mặt sàn đại điện tỏa ra thành nhiều vòng tròn đồng tâm lồng vào nhau, hiện giờ, các vòng tròn ấy đều đang chuyển động. Pho tượng đầu người ở giữa xoay ngược chiều kim đồng hồ, vòng bên ngoài lại chuyển động thuận chiều kim đồng hồ, vòng ngoài nữa lại xoay chuyển ngược chiều kim đồng hồ, cứ vậy tiếp nối nhau, tốc độ chuyển động của mỗi vòng cũng khác biệt. Vòng ngoài cùng chuyển động nhanh nhất, bàn đá ở đó cũng nhiều nhất, còn rất nhiều lính đánh thuê đang lăn lê bò toài trong đám châu báu ở trên đó. Từ lúc bắt đầu có chấn động, bọn chúng đã cảm thấy bất ổn rồi, nhưng bàn đá rất cao, không phải nói xuống là xuống ngay được, nhiều tên chưa kịp nhảy xuống thì cả vòng tròn đã bắt đầu tăng tốc. Mấy giây sau, tốc độ xoay chuyển đã làm đống đồ cung phụng chất như núi trên bàn đá chuyển động, vài tên lính đánh thuê xấu số bị vùi mình giữa đống vàng bạc châu báu cũng coi như là chết có ý nghĩa, một số tên khác đứng không vững, liền bị hất văng khỏi bán đá rơi xuống đất.
Khi tốc độ xoay chuyển tăng dần, chỉ thấy các vòng tròn cũng bắt đầu tách ra, những vòng xoay ngược chiều kim đồng hồ từ từ chìm xuống, ngược lại, những vòng xoay thuận chiều kim đồng hồ lại dâng lên cao. Mỗi vòng này đều rộng khoảng năm mươi mét, vậy là, trong đại điện đột nhiên dựng lên vô số bức tường dày.
Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La để ý thấy những tượng Phật toàn bộ đều nằm trên các vòng xoay ngược chiều kim đồng hồ, còn trên các vòng xoay thuận chiều thì hoàn toàn không có vật gì. Khá nhiều tên lính đánh thuê vẫn chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra, đứng ở vòng tròn đang dâng lên cao, nhìn vòng tròn đang hạ xuống mỗi lúc một thấp ở trước mặt sau lưng, muốn nhảy lại không dám nhảy, chỉ biết cuống cuồng chạy qua chạy lại.
Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và người trẻ tuổi kia đều đứng ở giữa các tượng thần Phật, thấy vòng tròn nơi mình đứng chầm chậm chìm xuống, Lữ Cánh Nam ngầm ra hiệu hỏi pháp sư Á La có nên tranh thủ cơ hội nhảy lên vòng tròn đang dâng lên cao không? Nhưng pháp sư lại lắc đầu từ chối, bọn họ hoàn toàn không biết gì về kết cấu cơ quan trong đại điện này, còn người trẻ tuổi trước mắt dường như lại biết khá nhiều, nếu y vẫn đứng yên giữa những tượng thần Phật này, chắc chắn là có nguyên nhân.
Đối với những người đứng giữa các pho tượng thần Phật như Lữ Cánh Nam, những vòng tròn không ngừng dâng lên kia giống như các vòng tường vây đang vươn cao vậy. Cùng lúc đó, một bức bích họa khổng lồ tinh xảo cũng từ từ hiện lên trước mắt họ. Kèm theo đó, còn có vô số những ô của chạm trổ đẹp đẽ. Qua các ô cửa này, có thể nhìn thấy các cầu thang hình tròn đan xen chằng chịt bên trong, lên lên xuống xuống phức tạp vô cùng.
Những vòng tròn dâng lên cao đã sắp chạm tới đỉnh vòm mà vẫn không có dấu hiệu dừng lại, khiến bọn lính đánh thuê không may đứng trên những vòng ấy đều phát hoảng, cuống cuồng gào thét ầm ĩ. Lữ Cánh Nam không khỏi thầm khen pháp sư Á La sáng suốt, phỏng chừng những vòng tròn ấy không chạm trần đại điện thì sẽ không dừng lại. Bấy giờ, mấy tên lính đánh thuê bị kẹt trên các vòng tròn ấy mới có phản ứng, cuống cuồng tìm trong ba lô xem có thứ gì dùng thay cho dù để nhảy xuống không, tiếc rằng ba lô của bọn chúng lúc này đều nhét đầy vàng bạc châu báu, những thứ vô dụng như dù diếc đều đã vứt bỏ ở đâu chẳng rõ nữa rồi.
Tiếng kêu thảm thiết văng vẳng vang lên trong đại điện rộng lớn, đã có một số tên đen đủi bị nghiền nát trong cái cối xay khổng lồ. Người trẻ tuổi liên lạc với đám lính đánh thuê còn lại, bảo chúng đứng yên tại chỗ, không được chạy lung tung, y sẽ đến tiếp ứng.
Người trẻ tuổi ngoẹo đầu, cất tiếng hỏi pháp sư Á La: "Đi cùng tôi không?" Nói dứt lời, y liền nhấc chân đi luôn. Pháp sư Á La ra hiệu, rồi cùng Lữ Cánh Nam theo sau. Lúc này các vòng tròn đá biến thành vô số bức tường vây hình tròn, khắp nơi trên tường đều có các lỗ lớn, trông nửa giống cửa sổ nửa giống cửa ra vào, một số ở sát mặt đất, còn đa phần đều lơ lửng trên cao.
Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam theo người trẻ tuổi vào một cánh cửa, cuối hành lang bên trong là một cầu thang dẫn lên trên, đi được một đoạn, cầu thang tách ra làm hai nhánh, lại xuất hiện một cầu thang dẫn xuống dưới. Người trẻ tuổi dẫn bọn họ đi vòng vèo lúc lên lúc xuống trên các cầu thang như mê cung này, không lâu sau đã bước ra từ một cánh cửa khác.
Hai người quan sát, thấy mình đã đến một vòng tròn có tượng Phật khác, đi thêm chừng trăm mét, liền thấy một pho tượng Phật chắn ngang đường. Những tượng thần Phật khổng lồ kia lúc này đã trở thành những khối đá cản đuờng, chắn ngang thông lộ. Người trẻ tuổi chẳng buồn để mắt, liền chui vào một cánh cửa khác. Ba người cứ vậy thoắt lên thoắt xuống giữa vô số cầu thang, hành lang.
Mặt khác, Trác Mộc Cường Ba và Merkin cũng bắt đầu một cuộc tìm kiếm mới. Sau khi qua cầu, xác nhận tạm thời không có gì nguy hiểm, hai người bèn dừng chân nghỉ ngơi ở đầu cầu, đợi cho thể lực hồi phục. Ngoài ra, còn một nguyên nhân rất quan trọng nữa, họ phát hiện ở đầu cầu có một hàng chữ nhỏ. Giờ đây hai người đã đi đến một sự đồng thuận, phàm là chỗ nào xuất hiện chữ, đều chẳng hay ho gì cả. Trước khi thể lực hồi phục tương đối, cả hai đều không dám mạo hiểm xông vào trong. Nghĩa đen của hàng chữ này được Trác Mộc Cường Ba dịch ra là: "Vùng đất linh hồn quẩn quanh, đến chết không thôi." Nhưng đến giờ thì Merkin không còn dám tin lời Trác Mộc Cường Ba nữa, qua mấy lần trước đó, có thể thấy trình độ dịch thuật của gã này rất có vấn đề.
Rời khỏi chỗ đầu cầu, hai người liền chui vào một hang đá, mới đầu động huyệt rất lớn, nhưng càng đi sâu vào trong, thông đạo càng hẹp dần lại. Trong động lại có động, liên hoàn nối tiếp, khiến cả hai nảy sinh cảm giác như đang lần mò bước trong tổ kiến vậy. Merkin nhìn vách hang ẩm ướt, bỗng sực nhớ lại những gì trải qua trước đó không khỏi lẩm bẩm: "Nơi này..."
"Thích hợp để nuôi dưỡng sinh vật" Trác Mộc Cường Ba bổ sung nốt phần còn lại.
Đây là câu mà Merkin không muốn nghe nhất lúc này, hai người bọn họ không phải Thao thú sư, vả lại những thứ mà đám người Qua Ba cổ đại kia nuôi dưỡng, thực sự đều rất khó tưởng tượng.
Trong thông đạo âm u ẩm thấp xộc lên mùi mốc meo, cả bốn mặt thông đạo đều ướt rườn rượt, dưới đất có nước đọng thành vũng, hai người một trước một sau giẫm chân lên các vũng nước phát ra những âm thanh ì oạp. Vũ khí cầm trên tay, cả hai đều tập trung toàn bộ tinh thần cảnh giác. Càng đi sâu vào trong, không gian lại càng tăm tối, chỉ thấy một vùng đen kịt, đèn pha của họ chỉ chiếu được khoảng ba bốn mét phía trước. Tiếng chân giẫm nước trong hang động mỗi lúc một vang hơn. Không lâu sau, hai người hợ chợt nghe thấy những tiếng "táp táp táp" từ trong hang động vẳng ra, Merkin nói: "Động vật nhiều chân, thể hình lớn hơn lũ gián ở ngoài kia."
Trác Mộc Cường Ba cũng nói: "Số lượng không ít, cũng phát ra tiếng giẫm nước, bọn chúng có thể leo bám trên tường." Không biết có phải do ngọn đèn pha hay vì nguyên nhân gì khác, những sinh vật đó không chịu lộ diện mà chỉ ẩn mình sâu trong bóng tối, chốc chốc lại phát ra những tiếng "táp táp táp" khi chuyển động, sau khi đi được một quãng, bọn chúng cũng không bám theo hai người nữa, như thể tiếng bước chân của Trác Mộc Cường Ba và Merkin đã quấy rầy chúng nghỉ ngơi vậy. Merkin luôn miệng thúc giục: "Nhanh lên, nhanh lên!" Giờ đây bọn họ đã không còn đường quay lại nữa, cũng chỉ biết hy vọng cái hang động tối om này không dài lắm, có khi ra khỏi đây là thoát nợ không chừng.
Trác Mộc Cường Ba chọn đường thẳng, đi một mạch khoảng hai ba mươi phút là ra khỏi hang tối, có điều cảnh tượng trước mắt lại khiến hai người chẳng thể nào hân hoan nổi.
Phía trước, tình cảnh cũng không khác mấy so với lúc ha người phải leo thang mây. Họ đang đứng trên một mỏm đá chìa ra như mỏ chim ưng, lơ lửng giữa từng không, leo lên không được leo xuống cũng chẳng xong, đằng trước là khe sâu không đáy. Chỉ có một điểm khác biệt duy nhất, đối diện họ không phải là vách đá, mà là một dãy cột đá chỉnh tề ngay ngắn.
Những cột đá ấy to nhỏ không đều, cái nhỏ chu vi khoảng một hai mét, cái lớn chu vi đến mấy chục mét, đều vươn từ đáy vực sâu lên, rồi mất hút trong khoảng không gian đen kịt trên đỉnh đầu. Giữa các cột đá chìa ra các thanh ngang, kết cấu tương tự như cầu thăng bằng, nhưng khoảng cách và độ rộng hẹp khác nhau. Trên những cột đá lớn có ánh lửa bập bùng, còn những cột đá nhỏ thì được khảm đá phát quang. Từng hàng từng dãy cột vươn ra, toát lên một khí thế mênh mông.
Trong mắt Merkin, trận địa cột đá này tựa như một giàn cốp pha khổng lồ. Y bất giác lẩm bẩm: "Khốn kiếp, chẳng trách vừa nãy bắt chúng ta luyện tập leo trèo."
Trác Mộc Cường Ba nói: "Xem ra phải leo qua những cột đá này rồi, có điều, phỏng chừng có vẻ dễ hơn leo vách đá."
Merkin lầm bầm: "Tôi lo ở giữa những cái cột kia có vấn đề."
"Vùng đất linh hồn quẩn quanh, đến chết không thôi..." Trác Mộc Cường Ba lặp lại câu cảnh báo ở đầu cầu, tự hỏi: "Tại sao lại xây thành thế này nhỉ?"
"Ê, nhìn phía kia xem!" Merkin chi lên đỉnh đầu Trác Mộc Cường Ba liền ngửa mặt ngó lên, chỉ thấy bề mặt đá phía trên đầu họ phủ lớp vật chất trông như một đám sợi bông mỏng. Từ đám sợi buông xuống những sợi tơ mảnh treo lơ lửng hai vật trông như cái túi, thoạt nhìn thấy giống túi tơ nhện, có điều, kích thước hơi lớn. Theo tính toán sơ bộ của Trác Mộc Cường Ba, thể tích của hai vật hình túi ấy không thể nhỏ hơn người gã được.
"Chẳng lẽ là nhện?" Merkin đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, tựa như đang hỏi gã.
Trác Mộc Cường Ba nói: "Chúng tôi quả thực đã gặp phải một số loại nhện thể hình rất lớn, có điều..." Gã nhìn chằm chằm lên phía trên đầu, đoạn nói tiếp: "Muốn treo được vật lớn như vậy lên, lũ nhện ở đây, chắc hắn còn lớn hơn cả những con mà chúng tôi từng gặp nữa."
"Mang hai cái kia xuống xem là gì." Merkin đề nghị.
Thấy Trác Mộc Cường Ba trố mắt nhìn mình, Merkin liền giải thích: "Ít nhất chúng ta cũng phải biết chỗ này rốt cuộc có thứ gì, mới quyết định xem bước tiếp theo sẽ đi như thế nào được chứ."
Trác Mộc Cường Ba nghĩ lại thấy cũng phải, liền gật đầu đồng ý, Merkin bảo gã dùng dây móc bắn xuyên qua vật thể trông như cái túi ấy, sau đó dồn sức giật xuống. Chỉ nghe "bịch", một vật thể dạng túi bọc kín trong tơ nhện rơi xuống đất.
Merkin lấy dao cắt ra, mùi ẩm mốc liền xộc thẳng lên mũi. Y lập tức đưa tay che kín mũi miệng, Trác Mộc Cường Ba đứng xa hơn một chút, thấy vật đó hơi ngả về phía sau, liền buột miệng thốt lên: "Thứ này... giống như loài linh trưởng vậy."
Chỉ thấy trong túi tơ nhện ấy là một cái xác đã phân hủy được một nửa, bị họ giật từ trên cao xuống, nhiều chỗ lòi cả xương trắng ra ngoài, nhưng vẫn có thể nhận ra đầu mình chân tay, trông rất giống con người.
"Xác người đấy..." Giọng Merkin trở nên lạnh lẽo, số xác chết y từng thấy nhiều hơn Trác Mộc Cường Ba không biết bao nhiêu lần, vừa liếc mắt là đã nhận ra ngay tắp lự, bên trong cái túi tơ nhện này là xác người.
"Xác người hả!" Vừa nghe Merkin nói ra chữ "người", Trác Mộc Cường Ba cũng giật mình kinh ngạc.
Merkin không phải Thao thú sư, nhưng đã ở cùng Soares một thời gian dài, cũng biết được một số điều, chỉ nghe y gật đầu khẳng định: "Phương thức bắt mồi điển hình của loài nhện, nhả tơ quấn con mồi chưa ăn hết lại, bơm chất độc vào đề phòng thối rữa, đồng thời cũng tiêu hóa con mồi từ bên trong, sau đó, con nhện chỉ cần hút nước chảy ra là đủ. Nhìn mức dộ phân hủy của cái xác này, có thể thấy nó đã ở đây gần một tháng rồi, nơi này sao lại có người được nhỉ? Chẳng lẽ, người Qua Ba vẫn còn trong thần miếu? Nhưng nếu thế, sao bọn họ lại bị lũ nhện này bắt làm thức ăn chứ? Hay là tế phẩm?"
Đáng tiếc, vì cả hai đều không phải Thao thú sư, nên họ không hề biết nhện là loài cực kỳ mẫn cảm với thức ăn của mình, ở chỗ treo thức ăn bao giờ nó cũng để lại một sợi tơ kéo ra xa, chỉ cần hơi có động tĩnh một chút thôi là bọn chúng sẽ lập tức cảm ứng được, dù đang ở rất xa.
Trác Mộc Cường Ba vừa mới nhớ ra điều gì đó, đã nghe tiếng chân chạy gấp gáp vang lên bên tai gã. Những âm thanh rào rào ấy khiến lông tóc gã dựng đứng hết cả lên, không kịp giải thích gì, gã vội vàng kéo tay Merkin, hét toáng lên: "Chạy mau!"
Trác Mộc Cường Ba cuống quýt chạy đà, dồn sức nhảy ra khoảng không, trước khi chộp được vào giá đỡ giữa hai cột đá ấy, một tay gã hơi giơ lên, sẵn sàng bắn ra dây móc bất cứ lúc nào, tay kia lại hơi co lại, chuẩn bị vươn ra tóm lấy Merkin. Gã chỉ lo cái cầu thăng bằng nhỏ ấy không đủ kiên cố, trải qua nghìn năm giờ đã mục nát rồi. Có điều, khi cả hai tay chụp vào rồi, mới biết giá đỡ này tương đối chắc chắn. Merkin cũng nhảy qua theo gã, cảm giác như thể rơi xuống một thanh sắt chữ I rất chắc chắn vậy, không hề thấy đung đưa lắc lư chút nào. Hai người ngoảnh đầu lại, chỉ thấy trong hang động họ vừa đi ra khi nãy tràn ra vô số sinh vật trông giống nhền nhện.
Thể hình của những sinh vật này phải ngang với bánh xe tải, có lẽ vì sống trong bóng tối quá lâu, dưới ánh đèn yếu ớt, toàn thân chúng hiện lên màu trắng bợt bạt như thịt thối rữa. Sở dĩ nói bọn chúng giống nhện là bởi tám cái chân của lũ này to khỏe hơn nhện bình thường rất nhiều, phần đầu không có tám con mắt như nhện, mà gồ lên hai con mắt bóng đèn giống như loài cua, trong mắt chỉ thấy màu trắng đục nhờ nhờ lưu động, có lẽ thị lực đã thoái hóa từ lâu. Phía trước miệng chúng mọc ra một đôi hàm thịt to khỏe, không ngừng đưa lên đưa xuống, đằng trước hàm thịt là hai cái nanh độc to tường, bên trong đầy dịch thể đen bóng.
"Chó chết." Merkin vừa nhìn thấy lũ quái vật này đã lạnh toát người, những thứ đám người Qua Ba cổ đại kia nuôi dưỡng quả nhiên đều chẳng dễ đụng vào. Trác Mộc Cường Ba lại lập tức nhớ đến loài nhện trắng trong truyền thuyết, "Tuyết sơn có nhện, to như bánh xe, màu trắng như ngọc, gặp sẽ vong hồn." Tuyết sơn tam thánh: rắn trắng, bò cạp trắng, nhện trắng, đều được gọi là thần hộ vệ của núi tuyết, là thánh vật của núi tuyết, nhưng trong những câu chuyện thần thoại ấy, bọn chúng đều là vật kịch độc, bất cứ kẻ nào dám khinh nhờn thần linh trên núi tuyết, ắt đều trúng độc mà vong mạng.
Giờ đây, những thánh vật của núi tuyết này đang bừng bừng nổi giận, thả cho các ngươi di qua rồi thì thôi, không ngờ lại dám động đến kho lương thực của bọn ta, không cho các ngươi nếm mùi lợi hại thì các ngươi vẫn còn chưa thấy quan tài chưa đổ lệ. Tám cẳng chân to khỏe của lũ quái vật này không phải để trang trí, chúng chỉ khẽ nhún một cái đã nhảy lên rào rào, cũng có một số con leo lên vách ngoài hang động rồi bật người nhảy ra. Nhất thời, như có vô số chiếc ô nhỏ màu trắng xòe ra trên không, trông cũng khá đẹp mắt. Chỉ có điều, vẻ đẹp ấy lại mang theo sự nguy hiểm chết người. Trác Mộc Cường Ba và Merkin chẳng có tâm trạng nào mà thưởng thức. Hai người lại một lần nữa bỏ chạy thục mạng, mả chạy trên cái giá đỡ nhỏ như cái cầu thăng bằng này đâu phải chuyện dễ dàng.
Hai người dang rộng cánh tay để giữ thăng bằng, chạy bước nhỏ, mỗi khi nhìn thấy một giá đỡ khác lại tung mình nhảy lên, cũng may những chiếc "cầu thăng bằng" này không thích hợp với bọn quái vật tám chân kia lắm, bọn nhện trắng đành phải bò trên những cột đá khổng 1ồ, rổi từ trên cao bổ nhào xuống chỗ hai người.
Vậy là bọn họ vừa phải cẩn thận giữ thăng bằng, chạy trên những chiếc cầu thăng bằng bắc ở giữa vực sâu thăm thẳm với tốc độ nhanh nhất có thể, vừa phải né tránh lũ nhện trắng từ trên lao bổ xuống. Mới đầu, Merkin còn nổ súng bắn mấy con, nhưng y nhanh chóng nhận ra, nổ súng sẽ rất khó giữ thăng bằng. Bọn nhện bị bắn trúng, song bản thân y cũng suýt rơi xuống. Vì thế, y không dám làm bừa nữa, chỉ tập trung tinh thần vào việc giữ thăng bằng, di chuyển, né tránh.
Lũ nhện trắng này tấn công tương đối đơn giản, chỉ nhảy chồm lên rồi lao bổ tới, muốn tránh cũng rất dễ, khốn nỗi bọn chúng lại quá nhiều, cứ nhảy tanh tách như châu chấu, mà không gian để né tránh quá nhỏ, hai người thực chẳng khác nào đang đi trên dây thép. Trác Mộc Cường Ba và Merkin dường như đã trông thấy thần Chết đang mỉm cười vẫy tay với mình ở phía trước.
NHỆN TUYẾT
Tránh được mấy lần, đột nhiên Trác Mộc Cường Ba bước hụt chân, cả người thụt xuống, cái ba lô sau lưng đập mạnh lên mặt "cầu thăng bằng", cũng may bên dưới còn một "cầu thằng bằng" khác nằm vắt ngang, trong lúc hoảng loạn gã vẫn kịp thời ôm lấy được. Lúc gã ngẩng lên nhìn, bọn nhện đã nhao nhao bổ nhào xuống chỗ gã vừa đứng. Dĩ nhiên, lũ nhện chỉ bổ vào khoảng trống, rốt cuộc đều va vào nhau, rơi xuống lả tả. Trác Mộc Cường Ba nói: "Bọn này cũng giống như lũ gián ngoài kia, dựa vào năng lực cảm tri chấn động để khóa chặt mục tiêu."
Chỉ nghe Merkin ở phía sau đáp: "Biết rồi." Sau đó, y lại kinh hoảng thốt lên: "Hả? Không đúng! Không đúng!" Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại nhìn, chỉ thấy Merkin ở "cầu thăng bằng" phía trên đang đung đưa lảo đảo, thân thể không ngừng lắc lư, mãi vẫn chưa đứng vững được, rốt cuộc lộn nhào rơi xuống. Hai chân Trác Mộc Cường Ba liền móc lại, đu người ra ngoéo lấy hai tay Merkin. Hai người xoay hơn nửa vòng trên không, rồi Trác Mộc Cường Ba văng Merkin ra. Merkin bay người bám vào được một cây cầu thăng bằng phía trước, bản thân Trác Mộc Cường Ba cũng leo lên một cầu thăng bằng khác, đoạn cất tiếng hỏi: "Chuyện gì thế?"
Merkin nói: "Thứ này... thứ này chuyển dộng được!" Trác Mộc Cường Ba sực tỉnh ngộ, vừa nãy gã rõ ràng nhìn kỹ rồi mới đặt chân xuống, sao có thế bước hụt được, hiển nhiên là do thanh ngang ấy đã di chuyển. Hai người đứng vững rồi nhìn lại, mới thấy những thanh gỗ đó, thanh thì rụt về sau, thanh nhô lên trước, lại có thanh lăn sang trái hoặc sang phải. Những thanh gỗ này đều gác trên cột đá hiển nhiên là những cột đá kia có vấn đề. Ánh mắt Trác Mộc Cuờng Ba luớt về phía cột đá, quả nhiên phát hiện ra, những cột đá này giống như vô số chiếc hòm chất chồng lên nhau. Không hiểu cơ quan bị phát động từ lúc nào, giờ đây các cột đá bắt đầu phân đốt, mỗi đốt lại xoay chuyển theo một hướng khác nhau.
Như vậy, toàn bộ các giá cố định đều đang chuyển động. Một thanh ngang giờ tách ra làm hai, nối với nửa thanh ngang khác, tạo thành một lối đi mới. Không bao lâu sau, tất cả lại thay đổi một lượt. Muốn tìm được lối đi trên những cầu thăng bằng không ngừng dịch qua dịch lại này thực không hề dễ dàng chút nào. Thêm một điều khiến hai người càng rầu rĩ hơn là lũ nhện trắng vẫn nhao nhao đuổi theo. Không có thời gian nghĩ ngợi, lại càng không có nhiều lựa chọn, bọn họ chỉ còn biết cắm đầu cắm cổ nhìn chỗ nào gần nhất, lại ít nhện nhất thì nhảy sang. Sau khi tránh được mấy đợt tấn công của lũ nhện, hai người cũng lần mò ra một chút bí quyết để di chuyển trên giàn giáo khổng 1ồ di dộng được này.
Khoảng cách giữa một số thanh gá là tương đương, đều chĩa về phía trước và thấp dần xuống, có thể sử dụng lực chân giống nhau để nhảy liên tiếp, chỉ cần nắm vững thời cơ đồng thời hoàn toàn quên mình đang nhảy nhót trên độ cao mấy nghìn mét, bọn họ thậm chí có thể lao một mạch không dừng lại. Một số thanh gá lại cao hơn hẳn, càng lúc càng cao dần lên. Họ liền vận dụng cách thức của môn đu xà lệch, hai tay vừa bám vào thanh gá lập tức bật cả người lên. Khi các thanh gá bắt đầu xoay chuyển, họ bèn đeo mình lơ lửng bằng hai tay, dồn sức vào eo lưng đu qua đu lại, chỉ cần thanh gá dừng lại là lập tức lộn người lên trên, hoặc mượn lực lộn vòng trên không, vươn người ra chộp lấy thanh gá phía trước.
Dần dần hai người cũng tìm được cảm giác phối hợp, khi khoảng cách giữa hai thanh gá quá xa, một người khó lòng vượt qua được, họ liền giở ra chiêu tiếp lực trên không trung. Hoặc là Trác Mộc Cường Ba một tay bám vào thanh gá, một tay giữ tay Merkin, mượn lực vung mạnh ném cả người Merkin ra xa, kế đó Merkin lại chộp lấy thanh gá tiếp theo, còn Trác Mộc Cường Ba thì leo lên thanh gá nhảy tới, tóm lấy hai chân Merkin. Merkin mượn thế đu người, dồn sức vào hông, hất Trác Mộc Cường Ba văng ra phía trước. Hai người cứ bắt rồi lại ném nhau như ném bao cát, rất nhiều chỗ không có đường, hai người cũng có thể đu qua, tuy có chút kinh hoảng song không nguy hiểm gì.
Lũ nhện kia cũng phải lựa đường để đi, có những cột đá cách nhau quá xa, không thể nhảy bật qua được, bọn chúng buộc lòng phải dịch chuyển theo phương ngang, rồi nhảy sang cột đá khác bên cạnh. Một số con nhện đã dần dần mất hứng với hai con mồi vừa khó bắt lại vừa chạy nhanh này, chán nản lui về phía sau. Cứ như vậy, Trác Mộc Cường Ba và Merkin cũng dần dần kéo dãn được khoảng cách với 1ũ nhện.
Chỉ là, hai người cũng chẳng hoan hỉ được lâu. Họ nhanh chóng nhận ra, kết quả của việc cắm đầu cắm cổ chạy bừa chính là... phía trước không còn đường nữa! Họ không ngờ lại bị lũ nhện lùa vào góc chết. Lúc này, hai người giống như đang đi trên cây cầu độc mộc, bốn bề đều không có thanh gá nào, khoảng cách giữa các cột đá đều hơn hai chục mét. Merkin thấy tình thế không ổn, lập tức nói: "Chạy ngược lại!"
Vừa quay người, một con nhện trắng to tướng liền xồ tới trước mặt. Merkin không kịp nghĩ ngợi gì, vung tay lên đấm mạnh, đánh văng con nhện ấy xuống vực sâu vạn trượng. Nhưng phía sau con nhện đó vẫn còn rất nhiều con khác không chịu bỏ cuộc, một con bị hất ra, lại có hai con nhẩy tới. Merkin vừa đưa tay gạt chúng ra, liền có thêm hai con khác...
Trác Mộc Cường Ba mở ba lô, lớn tiếng nói: "Dùng vũ khí!" Nhưng dùng vũ khí gì bây giờ? Lúc này, gã sực nhớ ra, bọn nhện này nhờ vào cảm tri chấn động để phát hiện ra sự tồn tại của bọn họ, vậy thì, cho chúng một chút chấn động mạnh là được.
Gã giật chốt một quả lựu đạn sáng, ném thẳng lên không trung. Có lẽ vì không gian quá lớn, ánh chớp lóe lên ấy cũng không sáng chói gì lắm. Chỉ là, ở những chỗ ánh sáng chiếu tới, có thể thấy trên các cột đá nhung nhúc toàn lũ nhện trắng ởn. Tiếng nổ vang như sấm ngay sau đó làm Trác Mộc Cường Ba giật thót mình. Chấn động khởi nguồn từ giữa không trung không ngờ lại khiến những cột đá xung quanh rung lên, rung động lan sang cả các thanh gá, khiến Trác Mộc Cường Ba và Merkin còn tưởng toàn bộ giàn giáo khổng lồ này sắp sập xuống đến nơi.
Sau khi lựu đạn nổ, lũ nhện trắng rơi xuống lả tả. Trác Mộc Cường Ba thấy có hiệu quả, lại móc ra thêm quả nữa, nhưng Merkin vội ngăn lại: "Đừng, đừng ném nữa, hình như lại có cơ quan gì bị khởi động rồi." Trác Mộc Cường Ba liền dừng lại ngay tắp lự, nếu đám người Qua Ba cổ đại ấy thiết kế cơ quan cạm bẫy gì khác nữa, khiến các cột đá và thanh gá rời nhau ra gioonsg gian đại điện gắn đầy đầu rồng kia thì chẳng phải là toi đời sao?
Tuy nhiên, dù sao hai người cũng đã ngăn được bọn nhện trong giây lát, lập tức xoay người chạy ngược trở lại. Đột nhiên, thanh gá rời ra, Trác Mộc Cường Ba và Merkin vội chia nhau nhảy sang hai phía. Khốn nỗi, khoảng cách đến những thanh gá gần đó đều quá xa, cả hai liền song song rơi xuống theo phương thẳng đứng. "Tiêu đời rồi!" Ý nghĩ đó vừa lóe lên trong óc, Merkin bỗng thấy thân thể chùng xuống, rồi lại nảy lên, tưởng như rơi xuống tấm nệm nhảy vậy. Y toan nhổm người lên, liền phát hiện ra thân thể mình đã bị dính chặt. Merkin ngoảnh đầu quan sát, mới nhận ra giữa không trung có một tấm lưới khổng lồ, còn y thì đang bị dính trên tấm lưới nhện ấy! Merkin ngoảnh sang phía khác, liền trông thấy Trác Mộc Cường Ba cũng chung số phận, cả người bị dính chặt vào mặt lưới, lơ lửng giữa từng không.
Không thể ngờ, lũ nhện kia lại dồn bọn họ vào một cái bẫy được thiết kế tinh vi đến vậy. Những con nhện còn lại từ khắp bốn phương tám hướng ùa tới, chuẩn bị hưởng thụ một bữa yến tiệc no nê.
Trác Mộc Cường Ba liếc thấy tay phải Merkin co vào duỗi ra một cái, chớp mắt đã rút ra khỏi bộ áo liền quần, kế đó tay trái y cũng nhanh chóng rút ra được. Chỉ nghe y cuống quýt nói: "Dùng lửa."
Nhện sợ lửa, điều này thì Merkin biết. Nhưng khi đưa mắt nhìn lại, y mới nhận ra vị trí của tấm lưới này hết sức độc địa, lưới được đan giữa bốn cột đá, bên dưới hình như không thấy có thanh gá nào, vội vàng xua tay: "Đốt là rơi xuống luôn!" Nhưng nếu không đốt thì lũ nhện kia đã ùn ùn kéo tới chỗ này rồi, mà bọn chúng bò trên lưới lại càng linh hoạt hơn bội phần.
Trong khoảnh khắc nghìn cân treo sợi tóc, Trác Mộc Cường Ba bỗng nhớ ra, loài nhện phán đoán thể trọng kích cỡ của con vật nằm trong lưới như thế nào. Gã vội dồn hết sức, giật được hai tay khỏi tấm lưới nhện dính nhớp, kế đó dang rộng hai tay ra, bám vào mép lưới, bắt đầu làm động tác như bươm bướm đập cánh. Merkin nhất thời vẫn chưa hiểu ra, tròn mắt kinh ngạc nhìn gã. Trác Mộc Cường Ba vội giục: "Lắc, lắc đi!"
Merkin bấy giờ mới có phản ứng, cùng Trác Mộc Cường Ba cật lực lắc lư mành lưới, sau mấy lần đung đưa, nhịp lắc của hai người dần trở nên đều đặn, phần giữa tấm lưới nhện bắt đầu rung rinh dữ dội.
Lũ nhện không hiểu gì, bắt đầu dừng dại, cẩn thận tra xét chấn động truyền tới. Những rung động đó khiến chúng cảm thấy đối phương là một kẻ săn mồi to khỏe đủ sức xé toang lưới nhện làm thịt ngược lại mình. Vậy là, đàn nhện lập tức nháo nhác lùi lại, thoáng cái đã không thấy bóng dáng đâu nữa.
Merkin giơ một ngón tay cái lên với Trác Mộc Cường Ba, ý bảo gã làm rất tốt. Trác Mộc Cường Ba hơi nhếch mép mỉm cười, hỏi: "Ban nãy làm thế nào vậy?" Nói đoạn, gã đưa tay lên thọc vào trong áo.
Merkin hiểu ý, liền chập hai tay lại, loáng cái đã rụt trở vào trong bộ đồ liền thân, giải thích: "Kỹ thuật cởi áo kiểu Houdini, đây là tuyệt chiêu của đặc công Mỹ, rất có tác dụng trong những thời điểm then chốt. Chắc Lữ Cánh Nam không biết chiêu này, nên không dạy cho các anh được" Ngừng lại một chút, y thở dài tiếp lời: "Nếu có Soares ở đây thì tốt, chúng ta cũng không đến nỗi phải khổ sở chạy trốn thế này."
"Soares? Không phải y bị ông đuổi đi sao?"
Merkin ủ rũ nói: "Đó là do bị bọn tiểu nhân chia rẽ, không phải ý của tôi."
Mành lưới nhện mềm mại lại bền chắc, chẳng khác nào giường của hãng Simmons. Hai người nằm trên đó, cá thân thể lẫn tinh thần đều mệt mỏi cực độ. Từng đợt sóng không khí nóng hổi từ bên dưới cuồn cuộn dâng lên. Những luồng không khí lưu động ấy khiến lưới nhện dập dềnh như sóng, nằm bên trên tựa như đang trôi nổi bồng bềnh trên mặt biển Chết vậy. Trác Mộc Cường Ba và Merkin cảm thấy xương cốt rã rời, tứ chi mỏi rũ, chẳng muốn nhúc nhích lấy một ngón tay.
May thay, Trác Mộc Cường Ba vẫn còn chút tỉnh táo vội nhắc nhở: "Bọn nhện ấy không lâu sau sẽ trở lại, không thể nằm mãi ở đây được."
Merkin tỏ vẻ đã hiểu, đoạn lại hỏi: "Đi thế nào đây?" Tấm lưới này được lũ nhện đan ở giữa lưng chừng không, chỉ nối với bốn cột đá lớn, mà lại không tìm thấy khe hở nào, hai người làm sao leo lên được? Còn leo xuống ư? Bọn họ đã men theo giàn giáo khổng lồ này đi xuống lâu như vậy rồi vẫn chưa xuống tới đáy, có trời mới biết phía dưới kia sâu đến chừng nào.
Trác Mộc Cường Ba nói: "Ra bên cạnh cột đá xem thử coi sao." Gã thầm nhủ, dù không tìm được khe hở nào để bám vào thì cũng có thể dùng dây móc cầm cự thêm một quãng thời gian, dẫu sao cũng đỡ hơn nằm trên tấm lưới này thành cá nằm trên thớt. Tuy nhiên, nói là một chuyện, làm lại là một chuyện hoàn toàn khác.
Tấm lưới nhện này thoạt nhìn mỏng mảnh, song thực ra lại rất bền chắc, tựa như dùng tơ tằm xoắn lại thành sợi to như đầu ngón tay vậy, độ dính cũng rất cao, hai người phải dồn hết sức mới đứng lên được. Khi bước đi, thực chẳng khác nào con ruồi trên tấm dính, mỗi bước đều phải dồn sức nhấc chân lên, đồng thời 1ại phải giữ thăng bằng cơ thể, bằng không chỉ hơi bất cẩn một chút, người nghiêng đi, sẽ lại bị dính chặt vào lưới.
Trác Mộc Cường Ba và Merkin mỗi người giơ một cánh tay nắm vào vai đối phương, cùng nhấc chân lên, cùng cất bước, chỉ có như vậy mới không bị nghiêng người ngã nhào ra. Mới đi được mấy bước, mảng lưới nhện phía trước bị rách toác một lỗ lớn, trông như thể bị sinh vật gì to lớn lắm vùng vẫy xé ra, hai người đành phải cẩn thận đi vòng qua. Trác Mộc Cường Ba lấy làm lạ, nói: "Mành lưới này có phải hơi to quá không nhỉ, do bọn nhện lúc nãy kết phải không?"
Merkin đưa mắt nhìn, nếu tấm lưới này do một con nhện kết ra, vậy thì con nhện ấy quả thực quá lớn. Y ngẫn nghĩ, đột nhiên nhớ ra một chuyện, lắc đầu nói: "Tôi nhớ Soares từng kể, có một loại nhện sống thành đàn, chúng cùng kết lưới, sau đó con mồi bắt được cũng chia nhau ăn, tấm lưới này, có lẽ là do cả đàn nhện ấy cùng hoàn thành."
Trác Mộc Cường Ba không nói gì, đối với những thứ này thực ra gã cũng không hiểu lắm. Khi hai nguời đến gần chỗ cột đá, liền trông thấy ở rìa cột đá có mấy con nhện bám vào. Bọn chúng không tiến lại gần hai người, cũng không leo lên trên cột, mà cứ chạy qua chạy lại chỗ mành lưới tiếp xúc với cột đá. "Bọn chúng đang làm gì vậy?" Trác Mộc Cường Ba hỏi.
Merkin sực hiểu ra, thốt lên: "Không ổn, chúng đang nhai lưới!" Trác Mộc Cường Ba cũng nhớ ra, lũ nhện hình như có thói quen ăn lưới do mình kết ra. Bụng chúng giống như một lò tôi luyện, phân giải tơ nhện nuốt vào, rồi 1ại phun ra từ lỗ ở đuôi. Hai người biết rõ là vậy, nhưng không sao tăng tốc lên được. Merkin rút súng ra định bắn, đột nhiên một đầu lưới trầm hẳn xuống, tiếp đó là cả tấm lưới trôi tuột vào khoảng không vô tận bên dưới. Bọn nhện kia không ngờ lại cắn đứt toàn bộ lưới nhện trên bốn cột đá.
Hai người Trác Mộc Cường Ba và Merkin tức thì mất thăng bằng, khi lộn nhào giữa không trung, chẳng rõ đã bị bao nhiêu lưới nhện mắc phải. Trác Mộc Cường Ba toan bắn dây móc ra, song cánh tay lại bị quấn chặt, gã định vận sức giật bung ra, nhưng lại va phải gì đó. Gã vừa nghĩ ra thứ ấy hình như giống tấm lưng người, thì đột nhiên trán đau nhói lên một cái, chỉ nghe Merkin nói: "Xin lỗi, xin lỗi." Thì ra, hai người vốn chẳng cách xa nhau lắm, cả hai đều vùng vẫy loạn xạ, bị lưới nhện quấn phải, dồn sức giằng ra lại hóa thành giơ người hứng lấy tay đấm chân đạp của nhau.
Trong khi hai người vùng vẫy vung tay vung chân, tấm lưới nhện bất thình lình sững lại giữa không trung! Cả hai vội ngoảnh đầu nhìn, chỉ thấy bốn phía lại có rất nhiều thanh gá nhỏ chìa ra, tấm lưới hiển nhiên đã bị những thanh gá này ngoác vào, tách hai người họ ra. Hai người như bị treo trong hai cái kén, trố mắt nhìn nhau qua mành lưới, bộ dạng nhếch nhác thảm hại hết sức. Trác Mộc Cường Ba gắng sức vươn tay ra, nắm lấy một thanh gá phía trên đầu, nói: "Dùng lửa!"
Merkin vội lấy bật lửa ra. Lưới nhện này quả nhiên không khác gì tơ nhện thông thường, gặp lửa liền cháy ngay, phát ra những âm thanh lách tách như khi đốt lông tóc người hoặc súc vật. Thoáng sau, hai người họ đã thoát khỏi tấm lưới, leo lên trên thanh gá.
"Giờ đang ở đâu đây?" Đây là vấn đề Merkin quan tâm nhất, bọn họ lộn nhào vô số lần trên không, giờ vẫn còn váng vất chóng mặt.
Trác Mộc Cường Ba nói: "Chắc là vẫn ở giữa đám cột đá, nhưng rơi lâu như thế. chắc chúng ta đã gần đến đáy rồi."
Bên dưới rất tối tăm, chỉ phía trên cột đá mới có đèn đuốc, ngẩng đầu nhìn, trông như tinh tú lập lòe vậy, Merkin bật đèn pha lên, quả nhiên, những cột đá này đều sừng sững trên mặt nham thạch, chỉ là không biết nơi đây có phải phần đáy của toàn bộ lòng núi này hay không nữa. Họ nhanh chóng nhận ra là không phải. Vì ở đầu bên kia mặt nham thạch, các cột đá xuất hiện đường ranh giới rõ rệt, bên dưới vẫn còn vực sâu. Trác Mộc Cuòmg Ba ngẫm nghĩ giây lát, rốt cuộc cũng hiểu ra kết cấu địa lý nơi này giống như hai cái bàn chải úp vào nhau, những cột đá này chính là lông bàn chải. Đoạn đường họ vừa đi, cột đá mọc từ trên chĩa xuống, còn đoạn đường phía sau, cột đá lại dựng từ dưới lên, mà hai cái bàn chải này cũng chia ra lơ lửng giữa lưng chừng vách đá.
"Xuống dưới trước xem sao," Trác Mộc Cường Ba đề nghị, hai người đã chịu đựng lũ nhện đủ quá rồi, liền lợi dụng các thanh gá leo dần xuống, chỉ chốc lát sau đã chạm đất. Bấy giờ, tâm trạng họ mới ổn định lại phần nào. Song vẫn chưa kịp thở, Merkin đã kinh hãi thốt lên: "Nhện."
Chỉ thấy ở phía sau xuất hiện một con nhện trắng đại tướng, nhanh chóng lướt qua phía trên đầu bọn họ. Hai nguời chưa kịp định thần lại, trong bóng tối lại lao ra mấy bóng đen, chớp mắt đã bổ nhào tới chỗ con nhện trên cột đá. Hình dáng mấy cái bóng này cũng khá giống nhện, nhưng chỉ có bốn chân. Hai chân trước của bóng đen này dường như rất linh hoạt, loáng cái đã tóm được chân con nhện. Mấy bóng đen cùng lúc vận sức, giật tung cả tám chân nhện ra. Con nhện mất hết chân không ngừng giãy giụa, nhưng rốt cuộc cũng không nhúc nhích được gì. Mấy bóng đen ấy cũng chẳng vội vàng, thụp xuống tại chỗ dường như đang nhai sống chân nhện. Nhìn cách ăn của mấy bóng đen, Merkin càng lúc càng khẳng định đó là một loại động vật bốn chân nào đó. Chỉ có điều, bốn chân loài này đều thon dài, không giống chó săn. Bảo là lừa ngựa cũng không phải, tứ chi và thân thể của sinh vật này tỷ lệ rất không cân đối. Merkin chưa từng gặp loài sinh vật bốn chân nào có cách chạy kiểu như thế. Y chiếu đèn pha qua chỗ đó, mấy bóng đen dường như bị ánh sáng mạnh thình lình xuất hiện làm cho kinh hãi, vội nháo nhác giơ chi trước lên chắn cột sáng lại. Chi trước ấy, không ngờ lại có năm ngón tay! Merkin và Trác Mộc Cường Ba cũng bị sinh vật xuất hiện trong ánh đèn pha ấy làm cho kinh hãi đến ngẩn ra, đó... đó là con người mà!
Lúc này dưới ánh đèn là sáu người trưởng thành đang lom khom dưới đất, đi bằng cả tứ chi. Bốn nam hai nữ trần như nhộng, trên người không có một sợi lông tóc, cánh tay và cẳng chân họ gần như dài bằng nhau, to bằng nhau, đều khẳng khiu dài ngoãng, trông chẳng khác nào dân chết đói ở Châu Phi. Họ chỉ còn da bọc xương, đúng theo nghĩa đen, chẳng trách trong tối nhìn giống như lũ nhện bốn chân. Những người này bất luận nam hay nữ, trước ngực đều lộ rõ hai hàng xương sườn gồ lên, bụng lõm xuống. Dù là ai nhìn thấy họ, trước tiên ắt sẽ liên tưởng đến từ "đói khát". Vì sống quanh năm ở đáy huyệt động không ánh mặt trời, chỉ dựa vào chút ánh sáng mờ nhạt của mấy viên đá huỳnh quang, nên da sáu người này trắng nhợt một cách dị thường. Giống như lũ nhện kia, làn da họ có màu trắng của thịt thối bị ngâm nước lâu ngày.
Kỳ dị hơn nữa là, bộ mặt bốn nam hai nữ này gầy quắt lại, cằm nhọn hoắt, nhưng bộ răng chuyên dùng để cắn xé trong miệng lại vừa to vừa dài. Có hai người thậm chí răng còn mọc chìa ra ngoài môi, biến thành răng nanh. Lúc này, khóe miệng họ vẫn còn vương máu nhện màu xanh nhạt. Còn trong hốc mắt hõm sâu vào của họ, là đôi mắt trông hệt như mắt chuột, tròng đen to khác thường, gần như không thấy tròng trắng.
Trác Mộc Cường Ba và Merkin ngẩn người ra, cảnh tượng trước mắt đã tạo thành một làn sóng xung kích mạnh mẽ ập vào tâm linh mỗi người. Đầu óc cả hai đều trống rỗng, bọn họ đã gặp đủ loài sinh vật quái dị xấu xí, nhưng không có loài nào ghê rợn như những gì đang đập vào mắt họ lúc này đây. Đó, đó là người sao? Nếu không phải, tại sao lại có ngũ quan và tứ chi hệt như con người? Nhưng nếu là người, tại sao hành vi của họ lại chẳng khác gì dã thú?
Sau một lát hai bên gằm ghè nhìn nhau, mấy người ở đáy huyệt động kia dần dần thích ứng với ánh sáng của ngọn đèn pha, rốt cuộc cũng nhìn rõ bộ dạng của Trác Mộc Cường Ba và Merkin. Tuy hai người cao hơn bọn họ nhiều, song cả sáu đều không có vẻ gì khiếp sợ, ngược lại, Trác Mộc Cường Ba còn nhận thấy vẻ đói khát và tham lam trong mắt họ. Mấy người ở đáy huyệt động ấy đưa mắt nhìn nhau, chừng như muốn làm rõ chênh lệch về số lượng giữa hai bên, khóe miệng nhếch lên, lộ ra mấy chiếc răng to tướng, vẻ như đang cười. Kế đó, chỉ thấy chân sau họ đạp mạnh, chi trước chồm lên, lần lượt ba nam một nữ bò tới chỗ Trác Mộc Cường Ba và Merkin. Một nam một nữ còn lại thì cảnh giác canh chừng con mồi họ vừa săn được lúc nãy. Tư thế lao tới của mấy người này, khiến Trác Mộc Cường Ba nhớ đến bước chạy kiểu sói của gã.
Danh sách chương