Tào Tháo không do dự quá lâu, ông ta
cũng là người rất quyết đoán. Không đầy một tháng sau khi chúng ta
thương nghị làm thế nào để ứng phó với Lưu Bị, Tào Tháo phát ý chỉ,
phong Tào Hưu làm Hán Trung thái thú, Giả Tiết lĩnh binh mã Hán Trung;
phong Ngụy Diên làm thứ sử Ung châu, quan nha đặt tại Trần Thương; điều
động Diêm Nhu về chiếm giữ Trường An, hữu quân giáo úy tham tướng Vương
Bình thăng làm thủ bị Hán Trung, mang nhân mã Ung châu tới nghe lệnh
Ngụy Diên ở Hán Trung; đồng thời, Trương
Cáp, Lữ Càn, Hạ Hầu Thượng, Hạ Hầu Huyền đám người bị điều tới đóng tại
các thành trì quan trọng ở Hán Trung; lấy danh nghĩa ban thưởng cho Mã
Siêu, đem ba trăm mẫu ruộng tốt ở Lũng Hữu ban thưởng cho Chung Vu
Khương tộc, cho Chung Thù lúc này đã trở về tộc dẫn thuộc hạ tiến vào
khu vực Tam Tần. Điền Trù dốc hết tài lực xây nhà cửa ở Phùng Dực, Kinh
Triệu hai quận, chuẩn bị tiếp nhận gần hai mươi vạn người. Các tộc người ở phía nam Hán Trung tuy luyến tiếc gia hương, nhưng bị ảnh hưởng bởi
tin đồn Hán Trung sắp phát sinh đại chiến, chỉ có thể nghe lời mà di
chuyển. Mà Chung Vu Khương tộc được đãi ngộ tốt, trước mặt có ruộng đất
tốt, có nhà cửa để an cư, di chuyển lần này không tính là thiệt thòi,
bởi vậy, Tào quân cũng không tốn nhiều sức lực đã phá hủy được toàn bộ
thành quách ruộng đất ở phía nam Hán Trung, đến tháng mười một năm 212,
cụm phòng thủ chiến lược tại Hán Trung đã hoàn thành xong.
Trong lúc chúng ta tích cực chuẩn bị chiến tranh, đại chiến Giang Đông vào mùa đông năm 212 đột nhiên bùng nổ. Từ đầu đông, Ngô lão phu nhân bệnh cũ tái phát, mọi cách điều trị đều không hiệu quả, tháng 11 đã qua đời. Sau khi bà ra đi mười ngày, một trong những trụ cột ở Giang Đông, Lỗ Túc cũng bệnh chết ở Sài Tang. Ngô lão phu nhân qua đời khiến người ta bi thương, Lỗ Túc chết khiến người ta đau lòng, hơn nữa mưa gió sắp tới, có lẽ muốn thoát khỏi không khí bi thương, cũng có lẽ cảm nhận được Tào quân sắp ra đòn sấm sét, quân Giang Đông đóng tại Đan Đồ đột nhiên can đảm thực hiện kế sách tập kích bất ngờ, chiếm Quảng Lăng, dọn dẹp cây gai độc nhiều năm cắm trong cổ họng.
Người nghĩ ra mưu kế này cũng là người thực hiện hành động, chính là thái thú Đan Đồ Lục Tốn. Lục Tốn tuổi còn trẻ, nhưng đảm lược xuất sắc, nếu Giang Đông lấy được Quảng Lăng, có thể dọc theo duyên hải đánh vào Dương châu, áp tới Từ châu, điều động Tào quân di động sang hướng đông, giảm bớt áp lực cho Sài Tang, tranh thủ thời gian liên minh với Ích châu. Nếu hắn thành công, dù là một nửa, trận chiến nam bắc này nhất định sẽ phải kéo dài, sau khi Ích châu thở thêm được một hơi, nhất định có thể xuất binh Kinh châu, diệu kế của chúng ta sẽ khó thành công.
Khiến Lục Tốn nghĩ ra mưu kế này chính là cái chết của Ngô lão phu nhân, sau khi tin tức Ngô lão phu nhân bệnh tình ngày càng nặng truyền tới Đan Đồ, Lục Tốn phi ngựa về Kiến Nghiệp, hắn không phải đi thăm bệnh, mà hướng Tôn Sách dâng kế tập kích Quảng Lăng. Trong cuộc chiến tranh đoạt Dương châu, Tôn Sách chỉ lấy được những thành trì phía nam Trường Giang, thành Quảng Lăng trở thành một cây đinh chặn đứng con đường bắc thượng và là con mắt chăm chú nhìn vào Giang Đông, khiến hắn rất khó chịu. Sớm đã muốn chiếm Quảng Lăng, nhưng thất bại trước đây lại thêm Bàng Thống sau khi tới phòng thủ càng nghiêm mật, khiến hắn không thể tìm được cơ hội. Lần này Lục Tốn đề nghị đánh đòn phủ đầu, tập kích Quảng Lăng, là muốn Tôn Sách gọi Tôn Thượng Hương về thăm thân mẫu, đồng thời đem con trai Bàng Thống cũng mang về Giang Đông, như vậy sẽ tránh khiến Tôn Thượng Hương và hài tử gặp nguy hiểm, cũng có thể dùng thê tử kiềm chế Bàng Thống, cho dù Bàng Thống không vì mẫu tử Tôn Thượng Hương mà hàng, ít nhất có thể đảo loạn tinh thần hắn, có lợi cho việc xuất binh đánh Quảng Lăng lần này của Giang Đông.
Tôn Thượng Hương mặc dù là phu nhân của Bàng Thống, nhưng nàng cũng là đứa con gái được Ngô lão phu nhân yêu thương tha thiết, sau khi lập gia đình, ngoại trừ viết thư qua lại, mẹ con không thể gặp nhau. Đầu mùa đông, Tôn Thượng Hương biết Ngô lão phu nhân bệnh ngày càng nặng, sợ không sống được lâu nữa, liền đứng ngồi không yên, lúc này lại nhận được một bức thư nhà, trong thư nói Ngô lão phu nhân trước khi chết mong được gặp nữ nhi và ngoại tôn, Tôn Thượng Hương không nhịn được nữa, muốn về thăm thân mẫu. Bàng Thống cũng không thể ngăn cản phu nhân trở về tận hiếu, trong lòng không muốn Tôn Thượng Hương mang hài tử theo, nhưng không lay chuyển được Tôn Thượng Hương đang quắc mắt nhìn trừng trừng, đường cùng đành phải sắp xếp thuyền đưa mẫu tử nàng về Kiến Nghiệp. Tôn Thượng Hương trở lại Kiến Nghiệp không lâu sau, Ngô lão phu nhân qua đời.
Sau khi Tôn Thượng Hương rời đi, Bàng Thống hạ lệnh phong tỏa mặt sông, điều động quân phòng vệ tích cực chuẩn bị chiến tranh, đồng thời truyền tin tới Lạc Dương. Sau khi chúng ta nhận được tin, đều oán trách Bàng Thống quá nghe lời, Tôn Thượng Hương một mình trở về không sao, để cả hài tử về theo, chẳng phải sẽ trở thành con tin cho người ta. Oán trách thì oán trách, vẫn phải có hành động, Tào Tháo vội vã lệnh cho Trương Liêu ở Thọ Xuân lãnh binh hỏa tốc tiếp viện Quảng Lăng, đồng thời lệnh cho Mã Siêu ở Hợp Phì và Từ Thịnh, Phan Chương ở Nhu Tu Ổ chuẩn bị vượt sông. Ta trước tiôn xuôi nam tới Tương Dương, chuẩn bị cho đại chiến, về phần đại quân, đợi tới đầu xuân mới hành động là tốt nhất.
Chúng ta ở Lạc Dương liên tiếp điều động khắp nơi, nhưng không ai đề xuất tới Quảng Lăng giúp Bàng Thống. Không phải chúng ta không nghĩa khí, mà là biết rõ bản lĩnh của hắn, nếu đã gửi thư về Lạc Dương, nhất định đã có biện pháp ứng phó với Giang Đông, việc chúng ta phải làm là phối hợp bên cạnh, không phải là tới làm phiền thêm. Lúc ta tới Tương Dương, lập tức liên hệ với lực lượng bí mật ở Giang Đông, bảo bọn họ mau chóng tìm được Tôn Thượng Hương và hài tử, không tiếc trả giá bảo vệ bọn họ thật tốt, tìm cơ hội cứu người ra. Không lâu sau, tin tức truyền về, Tôn Thượng Hương và hài tử đều bị giam lỏng ở Ngô hầu phủ tại Kiến Nghiệp.
Thì ra, Tôn Thượng Hương sau khi tang lễ mẫu thân cử hành xong đã muốn về Quảng Lăng, nhưng Tôn Sách nói với nàng, Khúc A đã chuẩn bị tấn công Quảng Lăng, hắn quyết không để muội muội mình lâm vào hiểm cảnh. Tôn Sách không hy vọng Tôn Thượng Hương sẽ phối hợp với đại quân bắt sống Bàng Thống chiếm Quảng Lăng, tính tình Tôn Thượng Hương là như vậy, sẽ không giúp trượng phu hại huynh trưởng, cũng sẽ không để huynh trưởng làm tổn thương tới trượng phu của mình, cho nên hắn không thả Tôn Thượng Hương về. Tôn Thượng Hương vừa nghe Giang Đông sẽ xuất binh đánh Quảng Lăng, lập tức hiểu ra nàng và hài tử đã trở thành con tin, nàng thì không sao, huynh trưởng sẽ không hại nàng, nhưng hài tử thì khó nói. Bởi vậy vừa khóc vừa náo, vừa uy hiếp, thậm chí muốn cầm kiếm xông ra khỏi phủ. Tôn Sách cùng đường, đành cầm tù nàng trong phủ, rồi đem hài tử cho người đưa tới Đan Đồ. Nhưng mà, hài tử vừa đưa đi ba ngày, Tôn Thượng Hương đã tự vẫn mấy lần, Tôn Sách bất đắc dĩ, đành sai người đưa hài tử trở về, đưa tới Đan Đồ một Bàng công tử giả. Nhưng mà, Tôn Thượng Hương tuy rằng ngăn được hài tử bị giày vò, nhưng mẫu tử nàng không thể rời phủ.
Không thể không nói Tả Từ thật lợi hại, truyền tin cho điểu nhi còn nhanh hơn người chạy, Quảng Lăng cách Tương Dương xa như vậy, ta đã trong thời gian ngắn có được tin tức bên kia. Trong tin nói, Bàng Thống chuẩn bị rất đầy đủ, Tôn Thượng Hương sau khi rời đi, hắn đã chuyển toàn bộ quân đồn trú quanh Quảng Lăng rời vào trong thành, cũng vét bùn đào sông quanh thành, đổ đầy nước. Đồng thời, thủy quân cũng đã bày xong thế trận phòng thủ sẵn sàng đón địch. Tuy biết Bàng Thống đã sớm phòng bị Lục Tốn, nhưng trong lòng ta vẫn vì hắn toát một trận mồ hôi, tên gia hỏa này mặc dù không xúc động như ta, nhưng đối diện với kẻ địch lấy vợ con để uy hiếp, vẫn khó bảo đảm không nóng đầu. Nghĩ đến đây, ta vội vàng truyền tin tới Quảng Lăng, cho người của ta cấp tốc yết kiến Bàng Thống, bất kể thế nào cũng phải nhắc nhở hắn.
Tin tức ta gửi đi rất nhanh chóng có hồi âm, người của ta không gặp Bàng Thống, Bàng Thống tự mình lĩnh ba vạn quân đóng ở một địa phương nhỏ cách Quảng Lăng gần bốn mươi dặm gọi là Diêm Đồn, dựng căn cứ tạm thời đợi quân Giang Đông của Lục Tốn, bảo là muốn ở đó đợi mẫu tử Tôn Thượng Hương, hắn nhận được thư Giang Đông gửi, nói mẫu tử Tôn Thượng Hương sẽ bị áp giải tới đó, muốn Bàng Thống tự mình hồi quân, nếu không tính mạng khó bảo toàn. Nhận được tin, ta giật cả mình, Bàng Thống không cần ưu thế thành cao hào sâu, tự mình dẫn quân rời thành nghênh chiến, đây là trò gì? Chẳng lẽ là kế dụ địch? Hay là hắn không chịu nổi Giang Đông kích thích? Theo lý thuyết, tên gia hỏa này không tới mức không đầu óc như vậy chứ? Tuy nóng lòng, ta vẫn cố nhịn chờ tin tức, phải ở lại Tương Dương đảm bảo việc chuẩn bị, tới lúc cần sẽ phát binh Giang Hạ trước, cho dù là đang mùa đông rét mướt đi nữa.
Nửa tháng sau, tin tức lần nữa truyền đến, Lục Tốn tụ tập năm vạn lục quân, ba vạn thuỷ quân, thuỷ bộ song song tấn công Bàng Thống. Bàng Thống đợi được đại quân Giang Đông, lại không đợi được Tôn Thượng Hương, Giang Đông không đưa Tôn Thượng Hương trở về, ngược lại bảo Bàng Thống bỏ vũ khí đầu hàng đi Kiến Nghiệp, Bàng Thống lúc này mới tỉnh táo lại, mắng to đối phương một ngày. Nghe nói bài mắng chửi của Bàng Thống hôm đó đã trở thành một áng kỳ văn, khiến Lục Tốn chấn kinh đến một câu cũng không nói nổi, theo lời Bàng Đức Công nói, chính là nhân vật ôn tồn lễ độ nhất trong sĩ lâm Kinh châu đột nhiên biến thành kẻ vô lại lưu manh, làm mặt mũi ông ta mất hết. Đáng tiếc, chuyện hay như vậy ta lại không được chứng kiến.
Hai bên giằng co trên cạn hai ngày, cuối cùng cũng nổ ra kịch chiến, tuy đều có thắng bại, Bàng Thống vẫn thua nhiều hơn một chút. Tin tức nói, sau một trận chiến, Bàng Thống liền dẫn quân rút vào trong doanh trại tiến hành phòng thủ, còn quân Giang Đông không chút khách khí bao vây chặt Bàng Thống, xem ra muốn ăn sạch tên ngốc này. Có điều, đại khái vì Bàng Thống là trượng phu của Tôn Thượng Hương, hoặc Tôn Sách lên tiếng, vì Tôn Thượng Hương không nên tổn hại tới Bàng Thống, đại quân của Lục Tốn sau khi vây kín Bàng Thống lại, cũng không tấn công mạnh. Mà Bàng Thống ít người, sau khi phá vây hai lần cũng không ra được, Bàng Thống không lấy tính mạng binh sĩ ra thử nữa, song phương nhất thời lại rơi vào thế giằng co.
Lúc nhận được tin, Quách Gia bọn họ cũng tới Tương Dương, chúng ta mấy người nhận được tin đều nhíu mày, không nghĩ ra Bàng Thống tại sao phải gióng trống khua chiêng ra giữa đường đứng chặn quân Giang Đông. Nếu nói tên gia hỏa này phát điên, chẳng ai tin được, nhưng việc hắn làm, thật sự chúng ta không hiểu. Càng làm chúng ta thấy kỳ lạ chính là, thủy quân hai bên sau khi gặp nhau, không hề có chút động tĩnh, thủy quân bên ta bày trận phòng thủ tuyệt đối, thủy quân Giang Đông thực lực kém hơn một chút, không dám chủ động công kích, bởi vậy, tình huống kỳ quái liền xuất hiện, binh sĩ hai bên lúc không có việc gì lại thi mắng nhau, nhưng cũng chỉ nói chuyện không động thủ, đến Bàng Thống bị vây, cũng không thấy thủy quân tới giúp, khoảng cách hai bên không xa. Những chuyện đó khiến chúng ta như rơi vào sương mù, hoàn toàn mơ hồ. Suy nghĩ hai ngày không nắm được mấu chốt, ta nói với Quách Gia, dứt khoát đi Giang Hạ thôi, lỡ Bàng Thống bên kia chịu không nổi nữa, chúng ta có thể lập tức phát binh đánh Sài Tang. Quách Gia đồng ý, chúng ta vừa cho người báo tin với Tào Tháo, vừa khởi hành tới Giang Hạ.
Trong lúc chúng ta còn đang ngờ vực với hành động của Bàng Thống, bên ngoài thành Quảng Lăng cũng đánh rối tinh rối mù. Lục Tốn chỉ mang theo năm vạn nhân mã, trong lúc hắn giằng co với Bàng Thống, ba vạn Ngô quân dưới sự dẫn dắt của Trần Vũ vòng qua quân doanh Bàng Thống đánh thẳng tới thành Quảng Lăng. Đồng thời xuất hiện thêm ba vạn Ngô quân do Chu Nhiên xuất lĩnh ngay ở Quảng Lăng. Giang Đông lần này bỏ vốn cũng thật lớn, huy động toàn bộ nhân mã Khúc A, Ngô quận, còn cả một phần quân Sơn Việt.
Trong thành Quảng Lăng vốn có ba vạn quân đang đóng trú, hơn nữa Bàng Thống khẩn cấp truyền gọi nhân mã quanh thành trở về, tổng số cũng được bốn vạn. Nhưng bởi vì Bàng Thống đã mang ba vạn quân ra ngoài, lúc này trong thành Quảng Lăng chỉ còn một vạn. Mắt thấy ngoài thành lúc nhúc quân địch, dân chúng trong thành tự phát tổ chức tham gia thủ thành. May mà mấy năm nay Bàng Thống vẫn phòng bị Giang Đông xâm phạm, phòng cụ đã chuẩn bị chỉnh tề, lương thảo cũng sung túc, thủ một hai tháng không thành vấn đề.
Nhưng mà, Giang Đông lần này tình thế bắt buộc, giới cụ công thành cũng vô cùng sung túc, dùng tới mấy ngàn thang dài đưa cả xe bắn đá qua sông. Nhiều đá như vậy, cũng khó cho họ có thể đưa tới đây. Qua được sông đào bảo vệ thành, thang dài biến thành thang mây công thành, Ngô quân rõ ràng được huấn luyện nghiêm chỉnh, tư thái không sợ chết, vì công thành, Giang Đông đã đặc biệt huấn luyện một đội quân riêng, không biết có phải tiếp thu bài học tấn công Ngạc thành năm xưa, hay là Tôn Bá Phù bất mãn việc ta nói tướng sĩ Đông Ngô không bằng Tào quân. Dù sao mọi người cảm nhận được áp lực thủ thành rất lớn, cũng chỉ có thể cố gắng phản kích đợi viện binh, ít ra trong mắt Trần Vũ và Chu Nhiên, biểu hiện của quân Quảng Lăng chính là như vậy.
Công phòng kịch liệt trong năm ngày, vô số binh sĩ Giang Đông ngã dưới chân thành, sông đào, mà quân dân thủ thành thương vong cũng thảm trọng, cung tên làm không kịp, không ai ngờ được trận chiến công phòng này lại thê thảm như vậy. Năm ngày sau, trong thành Quảng Lăng tiếng oán than dậy đất, đường đường là Dương châu mục lại vì vợ con mà bỏ thành ra ngoài, để Quảng Lăng rơi vào nguy hiểm. Ngô quân vây thành ngăn được người trong thành chạy ra ngoài cầu cứu, nhưng ngăn không được người của ta đưa tin ra ngoài. Chúng ta ở Tương Dương sau khi nhận được tin cũng chấn động, tính thời gian dã ba ngày nữa trôi qua, không biết Quảng Lăng giờ thế nào, không tránh được đều mắng Bàng Thống hồ đồ. Bất đắc dĩ đã ngoài tầm tay, chúng ta chỉ có thể đem nguy cơ của Quảng Lăng báo cho Trương Liêu đang xuôi nam, bảo hắn không cần lo Ngô quân vây khốn Bàng Thống, cấp tốc tiếp viện Quảng Lăng. Nhưng mà, truyền tin qua lại cũng mất thời gian, không biết Trương Liêu có kịp giải cứu Quảng Lăng hay không, cũng không biết được Bàng Thống sinh tử thế nào, ta đã gấp muốn bốc hỏa.
Ngay vào lúc chúng ta lòng như lửa đốt ở Giang Hạ chờ đợi, cuối cùng tin chiến sự cũng truyền đến, người mang tin tới là Liêu Lập. Lúc hắn đến nhà ta ở Ngạc thành, Quách Gia đúng lúc đang ở chỗ ta hỏi tin tức Quảng Lăng, nhìn thấy Liêu Lập, hai chúng ta đều bối rối. Liêu Lập xông đến trước mặt chúng ta, quỳ bùm xuống, mũ giáp lệch lạc, áo giáp cũng rách, còn có vết máu, thần tình như tro bụi, há mồm thở dốc, nhìn thế nào cũng giống như bại trận tới cầu viện. Nếu sự tình thuận lợi, Liêu Lập không thể nào rời khỏi Bàng Thống, hắn suất lĩnh thủy quân, cũng không nên rời trận địa tới tìm ta.
Ta vội vàng cho Tần Dũng mang nước tới, đích thân nâng người tới chỗ ngồi. Đợi hắn uống nước xong, ta vội vàng hỏi thăm: “Sao lại thế này? Điểu nhi có khỏe không? Quảng Lăng thế nào?”
Liêu Lập không nói gì, che mặt khóc lớn: “Công tử, chúng ta bại rồi, 5555* (tiếng khóc), Thất gia, hắn, hắn, hắn……”
Quách Gia sắc mặt trắng nhợt bước tới sau ta. Ta nóng ruột, tim đã nhảy ngược lên cổ họng: “Hắn rốt cuộc sao rồi, ngươi nói mau lên.”
Liêu Lập ôm mặt lại quỳ xuống: “Lục Tốn mang tiểu công tử đến, cột người trước cửa doanh, nói nếu Thất gia trong ba ngày không thúc thủ chịu trói, sẽ giết hài tử. Thất gia, thất gia hắn thật sự không chịu nổi, vào sớm ngày thứ ba, tự vẫn.”
Hắn vừa nói xong, ta nghe bên cạnh rầm một tiếng, quay lại nhìn, Quách Gia đã ngã xuống đất, lúc này ta mới kịp phản ứng, trước mắt tối sầm không biết gì nữa.
Lúc ta bị lay mạnh tỉnh lại, mở mắt nhìn thấy Liêu Lập mặt bị dọa tới ngu người, ta lảo đảo nắm lấy vạt áo hắn, còn chưa nói ra lời, đã nghe tiếng Tần Dũng cúi đầu thở ra: “May quá, Tam gia cuối cùng tỉnh lại rồi. Lần này Thất gia thảm.”
Mắt thấy Quách Gia ôm ngực cựa quậy muốn đứng lên, Tần Dũng vội tới đỡ: “Tam gia, ngài ngồi yên một lát, đừng nóng, ngàn vạn đừng nóng.”
Ta cố nén từng trận đau đớn trog ngực, vô lực khoát tay: “Tần Dũng, lấy hộ tâm hoàn cho Tam gia ăn, đưa hắn về nghỉ ngơi, ở đây có ta.”
Quách Gia lắc đầu, tựa vào người Tần Dũng, chỉ Liêu Lập hỏi: “Hắn đang ở đâu? Giang Đông? Hay là đưa về rồi?”
Liêu Lập vẫn ngây người ở đó, sắc mặt tái nhợt, miệng khẽ run. Ta đột nhiên cảm thấy có điểm không đúng, nhưng lại không biết là điểm nào, cau mày ôm ngực nảy sinh ác độc: “Bất kể đang ở đâu, thù này ta nhất định phải báo.”
Tần Dũng quát Liêu Lập: “Ngươi còn ngây ở đó? Mau nói thật đi.”
Liêu Lập bị hắn quát giống như tỉnh táo lại, quỳ xuống nói: “Tam gia, công tử, hai người đừng nóng giận, là tôi không tốt, không nên nghe lời Thất gia đánh lừa các ngài.”
Cái gì? Ta lắc đầu, lỗ tai ong ong: “Đợi một chút, ngươi nói cái gì?”
Liêu Lập rầu rĩ nói: “Mấy lời vừa rồi là Thất gia bảo tôi nói với công tử, hắn còn nói, sau khi trở về tôi phải kể lại biểu hiện của ngài cho hắn nghe. Tôi làm sao biết các ngài lại phản ứng mạnh như vậy.”
Ta và Quách Gia còn đang choáng váng, Tần Dũng nở nụ cười: “Tam gia, công tử, những lời tiểu tử này vừa nói đều là lừa mọi người thôi, chính là Thất gia bảo hắn lừa mọi người. Nhưng mà Thất gia không biết Tam gia cũng ở đây, lần này ngài ấy gây rắc rối rồi.”
Gạt chúng ta? Cuối cùng cũng hiểu rõ ý của câu này, cơn giận trong lồng ngực xông lên, lại nghe thấy Tần Dũng thất kinh kêu một tiếng, thân thể Quách Gia lại trượt xuống đất. Đợi Liêu Lập và Tần Dũng đỡ Quách Gia ngồi xuống đệm rồi, ta giậm chân mắng lớn: “Hay cho Bàng Sĩ Nguyên ngươi, đồ khốn kiếp, lại dám gạt ta. Quỷ hẹp hòi, đại hỗn đản, ta sẽ lột da kéo gân ngươi, uống máu ngươi, không ném ngươi xuống Trường Giang cho cá ăn, ta không gọi là Triệu Như.”
Quách Gia đã bình tĩnh hơn, chỉ vào Liêu Lập đang đứng thẳng đơ: “Ngươi nghe lời hắn như vậy sao? Hắn bảo ngươi lừa, ngươi liền làm?”
Liêu Lập cứng miệng, khóc nức nở nói: “Tôi không dám không nghe. Thất gia nói, nếu tôi không làm theo lời hắn, sau khi trở về hắn sẽ đánh tôi năm mươi quân côn.”
Quách Gia khoát tay thở nặng nề: “Xem như ta xui xẻo, gặp phải hai người các ngươi, bình thường khiến người ta lo lắng còn chưa tính, hai người các ngươi hồ nháo cũng phải khiến ta liên lụy, chắc hù chết ta rồi, các ngươi mới cam tâm.”
Ta giận đến mức muốn lập tức lôi Bàng Thống đến trước mặt, hung hăng đánh cho hắn một trận. Nhìn Liêu Lập khóc nức nở, ta cuối cùng hiểu ra điểm không đúng ở chỗ nào, Lưu Lập ôm mặt khóc cả ngày, trên mặt không có một giọt nước mắt nào. Ta quan tâm nên bị loạn, tự nhiên bị hắn lừa gạt, hắn trở về nói lại, Bàng Thống còn không cười chết sao. Càng nghĩ càng hận: “Tốt, ngươi sợ quân côn của ai đó, ta không cần đánh quân côn, Tần Dũng, ngươi đem tiểu tử này ném ra ngoài, đánh hắn năm mươi gậy. Ta dẫn các ngươi ra, giờ có tiền đồ rồi, cứng cáp rồi, lại nghe lời hắn lừa gạt ta.”
Tần Dũng bật cười: “Công tử, coi như xong đi, Thất gia chẳng qua giận ngài chạy tới Giang Đông, hại hắn suốt ngày gấp tới bốc hỏa. Nói thật, vẫn là công tử không đúng nhiều hơn. Về phần Tam gia chỉnh Thất gia thế nào, ngài đừng nhúng tay. Liêu Lập, còn không nói chuyện đứng đắn ra, đợi bị đánh sao. Công tử bớt giận, Tam gia cũng vững vàng tinh thần lại, chính sự gấp hơn.”
Được Tần Dũng khuyên giải, ta tạm thời áp chế ngọn lửa vô danh trong lòng, uống một chén nước mới tính là bình tĩnh lại. Nhìn sắc mặt Quách Gia không tốt, vội lấy một viên hộ tâm hoàn cho hắn dùng, sau đó mới nói với Liêu Lập: “Nói đi, con chim chết đó phái ngươi đến làm gì? Hừ, không phải tìm ta vui vẻ chứ?”
Liêu Lập vội nói: “Ngoại trừ Thất gia không chết, những lời kia đều là thật. Trong mắt người Giang Đông, Thất gia cũng chết rồi, Thất gia nói, đây là kế giả chết.”
“Đợi một chút, ta lại hồ đồ rồi.” Ta đè đầu nghĩ một hồi: “Ý ngươi nói, trước mặt Lục Tốn, con chim chết đó chết thật rồi? Hắn lại dùng thủ đoạn giả chết? Lục Tốn là đồ ngốc à, đến người sống hay chết cũng không kiểm tra ra?”
Quách Gia ở bên cạnh túm tay ta: “Ngươi đừng ngắt lời, để hắn nói. Ta đoán tiểu tử này mang binh rời thành nghênh địch nhất định có quỷ kế.”
Liêu Lập liên tục gật đầu: “Tam gia nói rất đúng, Thất gia mang binh ra khỏi thành chính là mưu kế. Thất gia dẫn hai vạn lục quân, một vạn thủy quân, thực tế là bốn vạn lục quân, mà cuối cùng còn lại trong quân doanh không tới ba ngàn, đại bộ phận đã sớm trốn mất.”
Thì ra, sau khi Tôn Thượng Hương nhận được tin Ngô lão phu nhân muốn gặp nữ nhi và ngoại tôn, đã biết nhất định bên trong có trò, gặp nữ nhi cũng bình thường, nhưng nhất định muốn gặp ngoại tôn là có vấn đề. Bàng Thống biết tính tình Tôn Thượng Hương, nhất định không ngăn được, không bằng tương kế tựu kế, dù sao Tôn Sách cũng không làm hại Tôn Thượng Hương, mà Tôn Thượng Hương sẽ không cho phép Giang Đông động tới hài tử. Bởi vậy, hắn giả bộ ngăn cản Tôn Thượng Hương mang hài tử về nhà mẹ đẻ, Tôn Thượng Hương nổi cáu, hắn lập tức đầu hàng. Sắp xếp đưa mẫu tử họ đi rồi, Bàng Thống mật lệnh cho Liêu Lập mang hai ngàn người tới Diêm Đồn, nơi này tuy cách Quảng Lăng bốn mươi dặm, nhưng cách sông chỉ hơn mười dặm. Liêu Lập sau khi tới Diêm Đồn liền cưỡng chế dân chúng di dời, tìm một gian nhà lớn, bí mật đào thông đạo tới bờ sông.
Đợi sau khi tin tức Ngô lão phu nhân an táng xong truyền tới Quảng Lăng, Bàng Thống liền mang đại quân xuất phát tới Diêm Đồn xây căn cứ tạm thời đợi đại quân Giang Đông tới. Chúng ta phán đoán đủ kiểu dụng ý Bàng Thống khi rời thành, Giang Đông thì tự cho Bàng Thống đã trúng kế, kết quả, không ai ngờ Bàng Thống ngồi xổm ở đó cả ngày đào bùn chơi, đợi binh mã Giang Đông kéo đến, đường nối giữa quân doanh tới bờ sông đã đào xong.
Sau khi binh mã Lục Tốn tới nơi, Bàng Thống làm đủ hình thức bề ngoài, khiến Giang Đông nghĩ hắn thẹn quá hóa giận, cũng đại chiến với Lục Tốn một hồi, cho quân phá vây xong ra, Bàng Thống lại mang theo mấy ngàn tướng sĩ rút vào binh doanh Diêm Đồn, bày ra tư thế phòng thủ, hắn đoán chắc Tôn Sách sẽ không dễ dàng để Lục Tốn giết hắn, với lại, phòng thủ vững chắc cũng có thể chống đỡ một thời gian. Lục Tốn quả nhiên mắc mưu hắn, lúc cái tên Bàng Thống kia đang giả chết bị đưa về doanh, không tấn công mạnh mẽ vào quân doanh của Bàng Thống, hắn cho rằng đã vây Bàng Thống ở đây, cứ thoải mái để Chu Nhiên và Trần Vũ dẫn quân đi tấn công Quảng Lăng giờ lực lượng phòng thủ đã mỏng đi rất nhiều. Theo Lục Tốn thấy, chỉ cần vây chặt Bàng Thống ở đây, đợi Chu Nhiên hạ được Quảng Lăng, sẽ đưa hài tử tới trước tiền doanh của Bàng Thống, Bàng Thống không có đường lui, lại bị nhi tử phân tán tinh thần, chỉ có thể thúc thủ chịu trói.
Lục Tốn không ngờ, chúng ta cũng không ngờ, Bàng Thống lúc này đã mang đại bộ phận binh mã dời tới thủy trại trên sông, cũng trong đêm tối dùng thuyền nhỏ chuyển quân sang bờ nam Trường Giang. Thủy quân Giang Đông đang giằng co trên sông cũng không nghĩ ra thủy quân Bàng Thống bày trận ở đó, không phải vì ngăn cản bọn họ tham gia vây công Quảng Lăng, mà để che dấu việc chuyển quân tới bờ nam. Sau khi đại quân lặng lẽ qua sông, phân tán rồi tổ chức lại, mặc trang phục dạ hành chạy vào trong núi Bắc Cố chờ Bàng Thống.
Giang Đông đem Bàng công tử giả đưa tới quân doanh xong, Lục Tốn cũng không khách sáo, dù sao cũng là giả, sống chết không quan trọng, liền cho người trói hài tử lên cột cờ trước cửa, phái người gọi Bàng Thống, bảo Bàng Thống sớm đầu hàng, cho hắn ba ngày, nếu không đầu hàng, tính mạng hài tử khó bảo toàn. Bàng Thống híp mắt suy nghĩ nhìn phía đối diện cả nửa ngày, hài tử kia đầu tóc rối bù, thân hình rất giống con hắn, nhưng nhìn không rõ mặt, muốn tới gần xem, lại không muốn bị bắt, không biết hài tử là thật hay giả, Bàng Thống đứng ở cửa doanh do dự ước chừng một ngày, có thể mắng cũng đã mắng xong, nhưng vẫn không nghĩ ra. Đây chính là quan tâm sẽ loạn, ngươi chỉ cần bảo đối phương chứng minh đó là người thật là xong mà. May mắn tên gia hỏa này phản ứng không chậm lắm, ngày hôm sau bảo Liêu Lập chạy tới quân doanh đối phương chứng minh, Lục Tốn mang y phục mặc ở nhà của tiểu công tử ra. Lúc Liêu Lập cầm y phục ra về, linh cơ chợt động chạy tới trước nha môn nhìn công tử giả mà khóc rống lên, hàng giả nhìn thấy hắn lại chẳng có phản ứng gì, chỉ bật khóc, Liêu Lập lập tức đoán ra hài tử là giả, trở về nói lại, Bàng Thống vui vẻ. Đêm đó, Bàng Thống dặn binh sĩ còn ở lại chuẩn bị tốt vật dẫn lửa.
Ngày thứ ba chính là hạn định cuối cùng của Giang Đông, Bàng Thống dậy sớm, đội nghiêng khăn trùm đầu, y phục toán loạn, trên mặt trát tro nồi, làm ra bộ dạng người không ra người, quỷ không ra quỷ chạy ra cửa doanh tản bộ, bỏ qua chế giễu của quân Giang Đông. Tản bộ tới giữa trưa mới về doanh ăn cơm, ngủ ngon một giấc, đến hoàng hôn mới dậy giao phó lại mọi chuyện, chỉnh đốn lại bản thân, thay một thân quan phục mới toanh, tề tề chỉnh chỉnh rồi cầm kiếm đi ra cửa doanh. Tới một mảnh đất nằm giữa hai bên, Bàng Thống bảo Lục Tốn ra nói chuyện. Lục Tốn rời doanh nhìn thấy Bàng Thống trang phục chỉnh tề rất sửng sốt, sao chẳng giống buổi sáng chút nào, đợi hắn phát hiện không đúng, Bàng Thống đã lên tiếng.
Kể tới đây, Liêu Lập hoa chân múa tay phấn khích tả lại Bàng Thống ngày hôm đó: “Thất gia cứ như vậy, lưng thẳng tắp, một tay cầm kiếm, thật oai vệ phất tay về hướng Lục tiểu nhi, dùng khẩu khí bình thản nói với hắn: “Xin Lục đại nhân bẩm báo với Ngô hầu, Bàng Thống thân là Dương châu mục, trên không bảo vệ được đất đai, dưới không bảo vệ được gia đình, xấu hổ vạn phần, sau có thể chịu bức hiếp mà ra đầu hàng, làm việc phản chủ. Nhưng phu thê tình thâm, phụ tử tình nặng, Thống sao có thể nhẫn tâm thấy phu nhân ái tử chịu đày đọa không để ý. Nghĩ trước nghĩ sau, chỉ xin Ngô hầu giúp Thống chăm sóc thê tử, đường đường phủ Ngô hầu chắc không thể không nuôi nổi cô nhi quả phụ.”. Lục tiểu nhi ngơ ngẩn nghe xong đoạn này, còn chưa hồi phục lại tinh thần, Thất gia lại bi thương nhìn thanh kiếm trong tay, thở dài thật lớn, lại lắc đầu, mang một tấm khăn thêu ra nhìn, rồi bỏ lại vào ngực, dặn dò Lục tiểu nhi: “Cũng xin Lục đại nhân tiện thể nhắn với phu nhân, nói kiếp này Bàng mỗ xin lỗi nàng, bảo nàng hãy gả cho một vị anh hùng, chỉ cần có thể đối xử tử tế với hài tử là được rồi, Bàng mỗ dưới suối vàng sẽ cảm kích vạn phần.” Thất gia nói những lời này tình ý dạt dào, chúng tôi ở bên cạnh hắn đúng là chịu đau khổ chịu dày vò.”
Nhìn bộ dáng nín cười của Liêu Lập, ta nghĩ tới khuôn mặt trợn mắt há mồm của Lục Tốn lúc đó thì cười: “Trời ạ, Lục Tốn tuổi cũng không nhỏ, các ngươi lại bày kế sỉ nhục hắn như thế! Lại còn lấy ra khăn thêu của Tôn Thượng Hương ra nhìn à? Má ơi, cười chết ta, điểu nhi quá khôi hài.”
Quách Gia hai mắt sáng lên, thúc giục Liêu Lập: “Sau đó thế nào? Ngươi nói mau.”
Liêu Lập cố nén cười kể tiếp: “Trong lúc Lục Tốn còn đang chớp chớp trong mắt nắm lấy ý tứ mà Thất gia nói, Thất gia rút kiếm, lập tức cắm vào ngực, máu trào ra, Thất gia lảo đảo ngã vào ngực tôi, tay chân run rẩy vài cái, sau đó không cam lòng quát to một tiếng mới nhắm mắt.”
Quách Gia kinh hãi: “A? Ngươi không phải nói hắn giả chết sao? Thế nào mà, thế nào lại…”
Liêu Lập vội vàng nói tiếp: “Tam gia đừng nóng, đó là máu giả, Thất gia đặt một túi máu heo trong ngực, bên trong đệm một miếng sắt nhỏ, kiếm vừa đâm vào, máu heo liền vỡ ra, thoạt nhìn như thật vậy. Hì, vết máu trên người chính là máu heo thôi.”
Quách Gia thở phào nhẹ nhõm một hơi: “Máu heo à, vậy còn được. Ý, không đúng, kiếm đâm nông như vậy, liếc mắt một cái có thể nhìn ra, hắn làm sao mà lừa được?”
Ta ở bên cạnh đã cười gập cả người: “Tam ca, thanh kiếm đó có trò. Đó là món đồ chơi chúng ta nghĩ ra ở Nghiệp thành, không ngờ hắn lại dùng trên chiến trường.”
Năm đó ở Nghiệp thành, ta và Bàng Thống dạo chơi ngoài phố, nhìn thấy gánh tạp kỹ biểu diễn trò tự hại mình, người kia cầm một thanh kiếm cắm vào cơ thể mình, mũi kiếm lại lộ ra ở phía sau, nhưng không thấy máu chảy ra, đợi hắn nhổ kiếm trên người ra, vạch quần áo, trên người không thấy có thương tích. Ta và Bàng Thống thấy tò mò, cẩn thận quan sát thật lâu, mới phát hiện trong thanh kiếm kia có trò. Lại gần xem kỹ,thì ra kiếm là do trúc làm ra, bên ngoài mạ đồng, không nhìn kỹ không khác gì cây kiếm bình thường. Trúc kiếm chia làm hai tầng, tầng trên nhỏ hơn, tầng dưới bên trong có hai cái rãnh nhỏ, lúc mũi kiếm đâm vào vật cứng, tầng dưới không động, chỉ cần dùng tay vận sức, tầng trên sẽ nhanh chóng trượt xuống tầng dưới, tạo thành cảnh giả kiếm đâm vào cơ thể. Mũi kiếm sau lưng cũng là giả, là một thanh trúng giấu ở sau lưng, dùng cơ quan điều khiển, lúc vận sức ở phía trước, cơ quan giấu trước ngực sẽ bắn mũi kiếm trên lưng lộ ra, thành trò chúng ta thấy. Lúc ấy hai chúng ta thấy trò này chơi rất hay, Bàng Thống liền mua một cây kiếm trúc này về, nói là để sau này dọa bọn trẻ con. Ai ngờ, hắn không dùng dọa trẻ con, lại đem ra dọa Lục Tốn.
Nghe ta giải thích xong, Quách Gia cũng cười lớn. Liêu Lập ở bên cạnh tiếp tục nói: “Đúng là như vậy, Lục Tốn thật sự bị Thất gia hù dọa, binh mã Giang Đông cứ vậy ngây ngốc nhìn chúng ta “cướp” Thất gia về đại doanh. Sau khi trở về, Thất gia để chúng ta vừa gào khóc, vừa chui vào thông đạo, người cuối cùng châm lửa, đem toàn bộ quân doanh và thôn Diêm Đồn thiêu sạch. Tôi ra rồi không cùng Thất gia qua sông, mà tranh thủ trời tối chạy đến đây. Hắc hắc.”
Ta và Quách Gia đều đã hiểu. Bàng Thống ở cửa doanh diễn kịch một hồi, thừa dịp Lục Tốn còn đang thê thảm trong lòng, trở về doanh phóng lửa, khiến quân Giang Đông dù muốn chứng thực hắn chết hay chưa cũng khó khăn. Đợi lửa tắt mới đi tìm thi thể, làm sao có thể phân biệt được, bọn họ cho dù nghi ngờ, cũng không có cách nào. Trận lửa này ít nhất cháy tới sáng, đủ thời gian để Bàng Thống chạy tới quân doanh thủy quân.
Có điều, ta vẫn còn nghi ngờ: “Sau khi lửa tắt. Lục Tốn vào trong nhất định phát hiện không đúng, không hề có thi thể mà.”
Liêu Lập cười nói: “Tại sao không có? Trước đó không phải chúng ta đánh nhau một hồi với Giang Đông sao? Hơn nữa hai lần giả vờ phá vây kia, binh sĩ vong trận hai bên không ít, chúng ta thừ dịp trời tối kiếm gần hai ngàn thi thể, ném vào đám cháy cho qua chuyện. Cho dù Lục Tốn thông minh, trong nhất thời cũng không nhìn ra thật giả. Dù sao lúc tôi tới đây, tin Thất gia chết cũng đã truyền khắp nơi.”
Ta hung hãn nói: “Các ngươi thật ghê tởm, giữ nhiều thi thể trong quân doanh như vậy cũng không sợ thối. Ôi, đáng thương những binh sĩ đó, đã chết tha hương, lại còn… Ôi.”
Quách Gia trắng mắt lườm ta: “Ngươi lại bắt đầu phát từ bi rồi. Xin đi, đó là chiến trường, không phải chỗ chơi, sao quản được nhiều vậy. Liêu Lập, Điểu nhi mang binh qua sông muốn tập kích nơi nào? Hắn phái người tới có phải bảo chúng ta phối hợp hành động không?”
Liêu Lập liên tục gật đầu: “Đúng vậy. Mục đích Thất gia cử tôi tới là muốn báo cho mọi người, lúc này chắc hắn đã tới Đan Đồ. Công tử bên này tốt nhất đừng có hành động, đợi Thất gia lấy được Đan Đồ, xin Ngụy vương lập tức cho đại quân xuôi nam.”
“Quảng Lăng bên kia có thể kiên trì không?” Bàng Thống mang binh chạy tới tập kích Đan Đồ, Lục Tốn không biết tình hình, nhất định sẽ dẫn quân tới Quảng Lăng. Quảng Lăng nhận được tin Bàng Thống chết, lại thấy Giang Đông tăng binh, áp lực trong lòng rất lớn, không biết còn có thể chống đỡ không. Không đợi Điểu nhi hạ được Đan Đồ, Quảng Lăng bên kia đã bị Lục Tốn chiếm mất rồi.
“Hắc hắc, không thành vấn đề. Thất gia trước khi đi đã sắp xếp xong xuôi, tin tức bên ngoài đều là giả, Thất gia để lại trong thành Quảng Lăng hai vạn nhân mã, Giang Đông lần này ở Quảng Lăng nhất định sẽ hao binh tổn tướng, không hưởng được chút lợi nào đâu.” Liêu Lập vô cùng tự tin trả lời.
Ta thấy cũng đúng, không mười phần nắm chắc, Bàng Thống cũng sẽ không yên tâm mang quân đi Giang Đông. Quách Gia nghĩ một hồi nói với ta: “Nếu như vậy, chúng ta cũng không cần chờ tin Quảng Lăng và Sĩ Nguyên nữa, lập tức bẩm báo chủ công, phát binh Sài Tang, khiến Giang Đông đầu đuôi không thể cứu được nhau.”
Ta yên lặng tính toán một chút, lắc đầu cự tuyệt đề nghị của Quách Gia: “Tam ca, ta vẫn chưa chuẩn bị xong, đánh Sài Tang sẽ trả giá rất lớn. Có điều, chúng ta có thể nhân cơ hội thực hiện một phương án khác đã tính toán từ trước.”
“Phương án nào?”
“Bắt giặc bắt vua trước, trực tiếp tấn công Kiến Nghiệp.”
Quách Gia nhảy dựng lên: “Ngươi có nắm chắc không?”
Ta tự tin gật đầu: “Đương nhiên.”
Quách Gia nhảy đến bên cạnh ta, bộp, gõ đầu ta một cái: “Ngươi sớm đã dự mưu, vì sao không nói? Có biết người cao tuổi không thể lao tâm khổ trí không?”
“Ôi.” Ta ôm đầu trốn: “Tam ca, gạt người là Điểu nhi, huynh sao lại phát tác lên ta chứ.”
Quách Gia mặc kệ ta kêu oan, bắt lấy tay áo ta: “Nói mau.”
“Ta nói, ta nói.”
Dưới ánh mắt sắc bén của Quách Gia, ta nhanh chóng bại trận, thành thật nói ra tất cả. Nửa ngày sau, Liêu Lập vỗ vỗ cái bụng đã căng tròn, ánh mắt đồng tình nhìn người nào đó bị Quách Gia chỉnh đốn một trận, đánh ngựa đi về hướng đông.
Trong lúc ta và Quách Gia thiếu chút bị Bàng Thống chỉnh chết, chiến trường Quảng Lăng cũng đã phân thắng bại. Trải qua mười ngày tranh đoạt thê thảm, cửa thành tây dưới sự tấn công mãnh liệt của Ngô quân đã thất thủ, Trần Vũ dẫn quân đoạt quyền khống chế cổng thành, buông cầu treo xuống, Chu Nhiên dẫn đầu, suất lĩnh Ngô quân xông vào, rất nhanh đã đi vào trong phố, lúc này, quân coi giữ thành Quảng Lăng đã lui vào bên trong, dọc đường lui quân phóng lửa đốt nhà cửa hai bên đường, khói dày đặc bao phủ không trung lúc Chu Nhiên xông vào. Phương pháp đốt thành này được áp dụng phổ biến khi không thủ thành được nữa, Chu Nhiên không để ý, một lòng chỉ huy quân sĩ truy kích tàn quân, đợi bọn họ vượt qua đống khói lửa mới kinh ngạc phát hiện trước mặt họ lại là một bức tường kiên cố.
“Thành trong thành?” Chu Nhiên nhìn bức tường thành trước mắt, bên trên binh lính đã bày trận địa sẵn sàng đón địch, con mắt chốc lát mở to.
“Sao lại thế này?” Trần Vũ cũng vừa dẫn binh chạy tới, vừa rồi trên tường thành đánh nhau kịch liệt, lại thêm đối phương đốt lửa dữ dội khiến hắn không chú ý kịp tới tình hình bên trong.
Đúng lúc này, tiếng kêu sợ hãi từ phía sau Ngô quân truyền tới, Chu Nhiên và Trần Vũ còn chưa kịp phản ứng với tình huống trước mặt, đã nghe Ngô quân kêu to phía sau cổng thành bị đóng lại, Ngô quân đã vào thành và Ngô quân bên ngoài bị chia cắt. Mắc mưu rồi, Chu Nhiên và Trần Vũ gần như cùng nói ra ba chữ kia, cũng gần như cùng hành động, Trần Vũ đánh tới tường thành trước mặt, Chu Nhiên đánh trở lại phía sau.
Nhưng mà bọn họ hành động đã muộn, ngàn vạn mũi tên từ bức tường thành bên trong trút xuống, hàng ngũ dày đặc trên con phố đã trở thành bia tên của đối phương, một lượt tên bắn xong, Ngô quân đã ngã xuống một mảnh. Chu Nhiên nhìn thấy mưa tên trong phút chốc lập tức hô lớn thuẫn bài bảo hộ, tản ra xung quanh, Ngô quân nhanh chóng chạy sang những chỗ trống hai bên đường ẩn núp. Nhưng mà, Chu Nhiên còn chưa tỉnh táo lại từ loạt tên đầu tiên, binh sĩ trước sau trái phải lại phát ra tiếng kêu thê lương thảm thiết, mặt đất vừa rồi còn đang bằng phẳng nháy mắt mở ra cái miệng khổng lồ, cắn nuốt vô số sinh mệnh. Thì ra ở chỗ đất trống hai bên đều cất giấu vô số cạm bẫy, bên trong bẫy là lưỡi đao và mũi thương dựng san sát. Ngô binh vừa thoát được một kiếp này vừa ôm đầu tránh loạt tên tiếp theo vừa cẩn thận chú ý dưới chân, không thể tụ tập trên đường, ven đường lại là cạm bẫy, chỉ còn khoảng đất phía trước những căn nhà bị thiêu cháy có thể giúp bọn họ nghỉ chân, đại đa số Ngô quân kinh sợ còn chưa bình tĩnh lại đều chen tới những vị trí này.
Chu Nhiên bất chấp tất cả, mang theo đại bộ phận binh lính xông ngược lại đường vào, chỉ cần có thể mở cửa sắt, rời khỏi thành là tìm được đường sống. Đúng lúc hắn xông tới gần cửa sắt, binh, ầm một tiếng chấn động từ phía sau truyền đến, Chu Nhiên và người bên cạnh ngạc nhiên quay đầu nhìn lại, một mảnh sóng nhiệt trôi qua, lửa cháy càng lớn, đại hỏa đã bao trùm toàn bộ con phố, binh lính muốn chạy trốn và những người đang dùng thuẫn bài hộ thân trên phố đều không thấy đâu nữa, bao gồm cả đám binh sĩ đứng cách Chu Nhiên mấy chục mét đều đã ngã, xung quanh ngổn ngang những phần thân thể bị văng ra, không khí tràn ngập mùi thịt khét. Quân Quảng Lăng đã đặt rất nhiều thùng sắt chứa gỗ cây du đồng* trong các căn nhà, tất cả trở thành vật dẫn nổ, những kẻ đang chạy toán loạn hoặc đứng trên phố đều hoặc bị dòng khí thổi tung lên hoặc bị binh khí, gạch đá bị thổi bay trúng phải, trong nháy mắt đã mất mạng. Chu Nhiên và Ngô quân còn lại bị cảnh tượng trước mắt dọa ngây người, sững sờ đứng tại chỗ, đến cung tên của Tào quân đột nhiên xuất hiện hai bên tường thành cũng không để ý, mãi tới lúc mưa tên bắn lên mình mới đau đớn tỉnh táo lại. Nhưng tỉnh lại chẳng qua cũng chỉ một lúc, Chu Nhiên cùng hai trăm binh sĩ nhanh chóng táng thân dưới đợt tên thứ ba. Những tên lính còn lại may mắn xông kịp tới dưới chân tường thành thoát khỏi đợt tên này, lại nhanh chóng bị Tào quân dưới tường thành tiêu diệt nốt.
Cùng lúc Chu Nhiên chết ở cổng thành, Trần Vũ cũng chết ở cửa thành trong. Hắn mang hai ngàn binh lính công thành đánh vào tường thành phía trong, hắn đã nhận ra bức tường thành này và cửa thành không vững chắc lắm, cũng không cao bằng lớp tường ngoài, cửa thành không dày, chỉ cần liều mạng đoạt được cánh cửa này, sẽ có thể tiến vào Quảng Lăng, cũng có thể đoạt được cơ hội sống sót. Quân sĩ thủ thành lúc này bắn tên không thương tiếc, dưới mưa tên và gỗ cây tiếp đón, tiếp cận với cửa thành chỉ còn không tới một ngàn Ngô quân. Chính vào lúc đó, bọn họ cũng nghe thấy tiếng nổ mạnh ở phía sau, cũng nhìn thấy một màn khiếp sợ như đồng bọn ở bên ngoài. Không kịp bi thương, Trần Vũ nghe trên đỉnh đầu có người ra lệnh dừng công kích, trường tiễn và gỗ cây đều dừng lại.
Trần Vũ vừa thở hổn hển một hơi, đang định lệnh cho thủ hạ xô cửa, trên đỉnh đầu vang lên một giọng nói: “Trần tướng quân, các người đã không còn đường sống, sao không đầu hàng.”
Trần Vũ chậm rãi lui về phía sau vài bước, ngẩng đầu nhìn lên tường thành, một vị tiểu tướng quân toàn thân khôi giáp đang từ đó nhìn xuống, gương mặt vẫn trẻ con lại chứa một tia tàn nhẫn và trầm ổn, ánh mắt lóe lên vẻ thông tuệ, lại thoáng hiện lên một tia quang mang. Trần Vũ công thành mấy ngày vẫn chưa thấy qua người này, trong lòng hắn đoán được, chỉ sợ mình sẽ chết trong tay vị thiếu niên tướng quân này. Hít một hơi thật sâu, Trần Vũ một lần nữa ngẩng đầu đối mặt: “Ngươi là ai?”
“Khương Duy, Khương Bá Ước, phụng mạng sư phụ cung kính bồi tiếp tướng quân.” Khương Duy dùng khẩu khí tự hào giới thiệu bản thân.
Trần Vũ lắc đầu, hắn chưa từng nghe qua cái tên này, ở trong lòng vì bản thân mà bi ai một chút, hắn nhìn binh sĩ chung quanh, phất phất tay, không nói một lời đánh tới cửa thành. Khương Duy thấy hắn như vậy, cũng học hắn thở dài, trên gương mặt non nớt lại không chút vẻ không đành lòng nào, đoản kích trong tay phải phất phất, binh sĩ bên cạnh lập tức đem gỗ đồng du bao kín bằng rơm rạ ném ra, một mũi tên lửa nhanh chóng bắn xuống đám cỏ khô đã chồng chất bên dưới, nháy mắt đốt đám cỏ cây cháy bừng bừng thiêu cháy toàn bộ đám người dưới chân thành. Lúc đại hỏa bùng lên, từng thùng dầu nóng bỏng cũng được dội xuống, hoàn toàn cắt đứt đường chạy trốn của Trần Vũ, mà những binh sĩ hành động mau lẹ vừa thoát khỏi biển lửa cũng không may mắn thoát được lần nữa, dầu nóng vừa rơi vào người lập tức bốc cháy, bọn họ phát ra tiếng khóc thê lương, mang theo đại hỏa lăn lộn dưới tường thành, không bao lâu tiếng gào thét bên dưới đã biến thành rên rỉ, rồi cả tiếng rên rỉ cũng không còn.
Một ngày sau, lúc Lục Tốn đuổi tới thành Quảng Lăng, nhìn thấy chính là Ngô quân đang hoảng sợ cùng trận địa Tào quân sẵn sàng đón địch, hắn đồng thời thu được tin thám báo, Trương Liêu suất lĩnh ba vạn thiết kỵ sắp tới thành Quảng Lăng. Đến lúc này, Lục Tốn không thể không thừa nhận thất bại của chiến dịch lần này, cảm giác tự hào khi bức tử được Bàng Thống cũng không còn lại gì. Vội vàng hạ lệnh cho thủ lĩnh Sơn Việt quân Mộc Thanh mang người đi chặn đánh Trương Liêu xong, Lục Tốn mang đại quân nhanh chóng lui về, đối mặt với Hổ báo kỵ do Trương Liêu suất lĩnh, hắn chỉ có thể lựa chọn con đường này. Lục Tốn rút lui về phía nam rất nhanh nhận được tin, quân Sơn Việt chặn đánh Trương Liêu thất bại thảm hại, một vạn sĩ binh Sơn Việt chết trận, thủ lĩnh Mộc Thanh bị Tào quân vây khốn tự sát thân vong. Lúc Lục Tốn nhận được tin tức này thở dài thật sâu, từ khi biết thân phận của Triệu Như, trên dưới Giang Đông tuy không phát hiện dấu hiệu Sơn Việt cấu kết với Lạc Dương, nhưng vẫn hoài nghi Mộc Thanh cùng người Sơn Việt, Mộc Thanh tự sát thân vong, đã tiêu trừ toàn bộ nghi ngờ của bọn họ. Lục Tốn thậm chí rất hối hận quyết định của bản thân đẩy Mộc Thanh vào tử lộ.
Chuyện khiến Lục Tốn chấn động và hối hận thật sự vẫn còn ở phía trước. Sau khi hắn tự cho đã bức tử được Bàng Thống, dẫn đại quân tiếp viện Chu Nhiên, đồng thời lệnh cho thủy quân tấn công Tào quân. Nhưng mà, Tưởng Khâm suất lĩnh thủy quân Ngô tấn công Phan Chương suất lĩnh thủy quân Tào phòng thủ, căn bản không có chút năng lực nào, hai ngày tấn công đều không công mà lui. Lục Tốn sau khi rút khỏi Quảng Lăng, Ngô quân một đường rút lui, Trương Liêu dẫn quân truy kích không ngừng, đồng thời, thủy quân Tào trên sông vẫn không động, đúng lúc Lục Tốn chạy về tới chiến trường cũ đã bị thiêu cháy rụi ở Diêm Đồn, đột nhiên lại mạnh mẽ tấn công thủy quân Ngô. Phan Chương nhẫn nhịn nhiều ngày cuối cùng cũng được tham chiến. Vốn tin tức đại quân công thành thất bại thua tan tác đã khiến thủy quân Ngô khủng hoảng không thôi, đối mặt với khí thế bài sơn đảo hải của Tào quân, Ngô quân thực lực không đủ đại bại mà chạy, so với lục quân còn nhanh hơn, sớm đã về tới Khúc A. Tưởng Khâm coi như còn lý trí, đích thân dẫn ba trăm chiến thuyền tiếp ứng Lục Tốn.
Lục Tốn và Tưởng Khâm sau khi hợp quân, định lui về Đan Đồ, liền nhận được tin Đan Đồ bị Bàng Thống dẫn quân giả bộ thua trận lừa mở cửa thành công chiếm. Nhận được tin này, Lục Tốn quả thật không thể tin nổi, đợi hắn hiểu ra, liền phun một ngụm máu té xỉu. Hắn tỉnh lại liền muốn tự sát, may mà được Tưởng Khâm ngăn lại. Phía sau có truy binh, thuỷ quân đại bại, Đan Đồ bị tập kích, đối mặt với đội quân thê thảm bất lực, Lục Tốn chỉ có thể giữ vững tinh thần, đem đội quân còn lại về Khúc A.
Chiến dịch Quảng Lăng lần này, Ngô quân tổn thất ba vạn, lúc công thành mất một vạn quân và ba viên đại tướng, trong đó bảy nghìn Ngô quân tiến vào thành Quảng Lăng không ai sống sót, đại tướng Chu Nhiên bị loạn tiễn bắn chết, Trần Vũ chết cháy, mùi khét rải giữa không trung khiến dân chúng thành Quảng Lăng bị ác mộng tới mấy ngày. Trải qua trận chiến này, đệ tử mới mười hai tuổi của Bàng Thống tên Khương Duy vang danh thiên hạ. Mà Lục Tốn sau khi về tới Khúc A, bệnh không dậy nổi, ba năm sau mới lại xuất hiện trong tầm mắt mọi người, lúc ấy, trận chiến máu lửa này đã trở thành một hình mẫu kinh điển cho bài học “Thủ thành công lược”** trong các trường học.
Chú thích:
* Cây du đồng: còn gọi là cây trẩu trơn, được dùng để thắp đèn tại Trung Quốc.
** Thủ thành công lược: chiến lược tấn công khi thủ thành.
Trong lúc chúng ta tích cực chuẩn bị chiến tranh, đại chiến Giang Đông vào mùa đông năm 212 đột nhiên bùng nổ. Từ đầu đông, Ngô lão phu nhân bệnh cũ tái phát, mọi cách điều trị đều không hiệu quả, tháng 11 đã qua đời. Sau khi bà ra đi mười ngày, một trong những trụ cột ở Giang Đông, Lỗ Túc cũng bệnh chết ở Sài Tang. Ngô lão phu nhân qua đời khiến người ta bi thương, Lỗ Túc chết khiến người ta đau lòng, hơn nữa mưa gió sắp tới, có lẽ muốn thoát khỏi không khí bi thương, cũng có lẽ cảm nhận được Tào quân sắp ra đòn sấm sét, quân Giang Đông đóng tại Đan Đồ đột nhiên can đảm thực hiện kế sách tập kích bất ngờ, chiếm Quảng Lăng, dọn dẹp cây gai độc nhiều năm cắm trong cổ họng.
Người nghĩ ra mưu kế này cũng là người thực hiện hành động, chính là thái thú Đan Đồ Lục Tốn. Lục Tốn tuổi còn trẻ, nhưng đảm lược xuất sắc, nếu Giang Đông lấy được Quảng Lăng, có thể dọc theo duyên hải đánh vào Dương châu, áp tới Từ châu, điều động Tào quân di động sang hướng đông, giảm bớt áp lực cho Sài Tang, tranh thủ thời gian liên minh với Ích châu. Nếu hắn thành công, dù là một nửa, trận chiến nam bắc này nhất định sẽ phải kéo dài, sau khi Ích châu thở thêm được một hơi, nhất định có thể xuất binh Kinh châu, diệu kế của chúng ta sẽ khó thành công.
Khiến Lục Tốn nghĩ ra mưu kế này chính là cái chết của Ngô lão phu nhân, sau khi tin tức Ngô lão phu nhân bệnh tình ngày càng nặng truyền tới Đan Đồ, Lục Tốn phi ngựa về Kiến Nghiệp, hắn không phải đi thăm bệnh, mà hướng Tôn Sách dâng kế tập kích Quảng Lăng. Trong cuộc chiến tranh đoạt Dương châu, Tôn Sách chỉ lấy được những thành trì phía nam Trường Giang, thành Quảng Lăng trở thành một cây đinh chặn đứng con đường bắc thượng và là con mắt chăm chú nhìn vào Giang Đông, khiến hắn rất khó chịu. Sớm đã muốn chiếm Quảng Lăng, nhưng thất bại trước đây lại thêm Bàng Thống sau khi tới phòng thủ càng nghiêm mật, khiến hắn không thể tìm được cơ hội. Lần này Lục Tốn đề nghị đánh đòn phủ đầu, tập kích Quảng Lăng, là muốn Tôn Sách gọi Tôn Thượng Hương về thăm thân mẫu, đồng thời đem con trai Bàng Thống cũng mang về Giang Đông, như vậy sẽ tránh khiến Tôn Thượng Hương và hài tử gặp nguy hiểm, cũng có thể dùng thê tử kiềm chế Bàng Thống, cho dù Bàng Thống không vì mẫu tử Tôn Thượng Hương mà hàng, ít nhất có thể đảo loạn tinh thần hắn, có lợi cho việc xuất binh đánh Quảng Lăng lần này của Giang Đông.
Tôn Thượng Hương mặc dù là phu nhân của Bàng Thống, nhưng nàng cũng là đứa con gái được Ngô lão phu nhân yêu thương tha thiết, sau khi lập gia đình, ngoại trừ viết thư qua lại, mẹ con không thể gặp nhau. Đầu mùa đông, Tôn Thượng Hương biết Ngô lão phu nhân bệnh ngày càng nặng, sợ không sống được lâu nữa, liền đứng ngồi không yên, lúc này lại nhận được một bức thư nhà, trong thư nói Ngô lão phu nhân trước khi chết mong được gặp nữ nhi và ngoại tôn, Tôn Thượng Hương không nhịn được nữa, muốn về thăm thân mẫu. Bàng Thống cũng không thể ngăn cản phu nhân trở về tận hiếu, trong lòng không muốn Tôn Thượng Hương mang hài tử theo, nhưng không lay chuyển được Tôn Thượng Hương đang quắc mắt nhìn trừng trừng, đường cùng đành phải sắp xếp thuyền đưa mẫu tử nàng về Kiến Nghiệp. Tôn Thượng Hương trở lại Kiến Nghiệp không lâu sau, Ngô lão phu nhân qua đời.
Sau khi Tôn Thượng Hương rời đi, Bàng Thống hạ lệnh phong tỏa mặt sông, điều động quân phòng vệ tích cực chuẩn bị chiến tranh, đồng thời truyền tin tới Lạc Dương. Sau khi chúng ta nhận được tin, đều oán trách Bàng Thống quá nghe lời, Tôn Thượng Hương một mình trở về không sao, để cả hài tử về theo, chẳng phải sẽ trở thành con tin cho người ta. Oán trách thì oán trách, vẫn phải có hành động, Tào Tháo vội vã lệnh cho Trương Liêu ở Thọ Xuân lãnh binh hỏa tốc tiếp viện Quảng Lăng, đồng thời lệnh cho Mã Siêu ở Hợp Phì và Từ Thịnh, Phan Chương ở Nhu Tu Ổ chuẩn bị vượt sông. Ta trước tiôn xuôi nam tới Tương Dương, chuẩn bị cho đại chiến, về phần đại quân, đợi tới đầu xuân mới hành động là tốt nhất.
Chúng ta ở Lạc Dương liên tiếp điều động khắp nơi, nhưng không ai đề xuất tới Quảng Lăng giúp Bàng Thống. Không phải chúng ta không nghĩa khí, mà là biết rõ bản lĩnh của hắn, nếu đã gửi thư về Lạc Dương, nhất định đã có biện pháp ứng phó với Giang Đông, việc chúng ta phải làm là phối hợp bên cạnh, không phải là tới làm phiền thêm. Lúc ta tới Tương Dương, lập tức liên hệ với lực lượng bí mật ở Giang Đông, bảo bọn họ mau chóng tìm được Tôn Thượng Hương và hài tử, không tiếc trả giá bảo vệ bọn họ thật tốt, tìm cơ hội cứu người ra. Không lâu sau, tin tức truyền về, Tôn Thượng Hương và hài tử đều bị giam lỏng ở Ngô hầu phủ tại Kiến Nghiệp.
Thì ra, Tôn Thượng Hương sau khi tang lễ mẫu thân cử hành xong đã muốn về Quảng Lăng, nhưng Tôn Sách nói với nàng, Khúc A đã chuẩn bị tấn công Quảng Lăng, hắn quyết không để muội muội mình lâm vào hiểm cảnh. Tôn Sách không hy vọng Tôn Thượng Hương sẽ phối hợp với đại quân bắt sống Bàng Thống chiếm Quảng Lăng, tính tình Tôn Thượng Hương là như vậy, sẽ không giúp trượng phu hại huynh trưởng, cũng sẽ không để huynh trưởng làm tổn thương tới trượng phu của mình, cho nên hắn không thả Tôn Thượng Hương về. Tôn Thượng Hương vừa nghe Giang Đông sẽ xuất binh đánh Quảng Lăng, lập tức hiểu ra nàng và hài tử đã trở thành con tin, nàng thì không sao, huynh trưởng sẽ không hại nàng, nhưng hài tử thì khó nói. Bởi vậy vừa khóc vừa náo, vừa uy hiếp, thậm chí muốn cầm kiếm xông ra khỏi phủ. Tôn Sách cùng đường, đành cầm tù nàng trong phủ, rồi đem hài tử cho người đưa tới Đan Đồ. Nhưng mà, hài tử vừa đưa đi ba ngày, Tôn Thượng Hương đã tự vẫn mấy lần, Tôn Sách bất đắc dĩ, đành sai người đưa hài tử trở về, đưa tới Đan Đồ một Bàng công tử giả. Nhưng mà, Tôn Thượng Hương tuy rằng ngăn được hài tử bị giày vò, nhưng mẫu tử nàng không thể rời phủ.
Không thể không nói Tả Từ thật lợi hại, truyền tin cho điểu nhi còn nhanh hơn người chạy, Quảng Lăng cách Tương Dương xa như vậy, ta đã trong thời gian ngắn có được tin tức bên kia. Trong tin nói, Bàng Thống chuẩn bị rất đầy đủ, Tôn Thượng Hương sau khi rời đi, hắn đã chuyển toàn bộ quân đồn trú quanh Quảng Lăng rời vào trong thành, cũng vét bùn đào sông quanh thành, đổ đầy nước. Đồng thời, thủy quân cũng đã bày xong thế trận phòng thủ sẵn sàng đón địch. Tuy biết Bàng Thống đã sớm phòng bị Lục Tốn, nhưng trong lòng ta vẫn vì hắn toát một trận mồ hôi, tên gia hỏa này mặc dù không xúc động như ta, nhưng đối diện với kẻ địch lấy vợ con để uy hiếp, vẫn khó bảo đảm không nóng đầu. Nghĩ đến đây, ta vội vàng truyền tin tới Quảng Lăng, cho người của ta cấp tốc yết kiến Bàng Thống, bất kể thế nào cũng phải nhắc nhở hắn.
Tin tức ta gửi đi rất nhanh chóng có hồi âm, người của ta không gặp Bàng Thống, Bàng Thống tự mình lĩnh ba vạn quân đóng ở một địa phương nhỏ cách Quảng Lăng gần bốn mươi dặm gọi là Diêm Đồn, dựng căn cứ tạm thời đợi quân Giang Đông của Lục Tốn, bảo là muốn ở đó đợi mẫu tử Tôn Thượng Hương, hắn nhận được thư Giang Đông gửi, nói mẫu tử Tôn Thượng Hương sẽ bị áp giải tới đó, muốn Bàng Thống tự mình hồi quân, nếu không tính mạng khó bảo toàn. Nhận được tin, ta giật cả mình, Bàng Thống không cần ưu thế thành cao hào sâu, tự mình dẫn quân rời thành nghênh chiến, đây là trò gì? Chẳng lẽ là kế dụ địch? Hay là hắn không chịu nổi Giang Đông kích thích? Theo lý thuyết, tên gia hỏa này không tới mức không đầu óc như vậy chứ? Tuy nóng lòng, ta vẫn cố nhịn chờ tin tức, phải ở lại Tương Dương đảm bảo việc chuẩn bị, tới lúc cần sẽ phát binh Giang Hạ trước, cho dù là đang mùa đông rét mướt đi nữa.
Nửa tháng sau, tin tức lần nữa truyền đến, Lục Tốn tụ tập năm vạn lục quân, ba vạn thuỷ quân, thuỷ bộ song song tấn công Bàng Thống. Bàng Thống đợi được đại quân Giang Đông, lại không đợi được Tôn Thượng Hương, Giang Đông không đưa Tôn Thượng Hương trở về, ngược lại bảo Bàng Thống bỏ vũ khí đầu hàng đi Kiến Nghiệp, Bàng Thống lúc này mới tỉnh táo lại, mắng to đối phương một ngày. Nghe nói bài mắng chửi của Bàng Thống hôm đó đã trở thành một áng kỳ văn, khiến Lục Tốn chấn kinh đến một câu cũng không nói nổi, theo lời Bàng Đức Công nói, chính là nhân vật ôn tồn lễ độ nhất trong sĩ lâm Kinh châu đột nhiên biến thành kẻ vô lại lưu manh, làm mặt mũi ông ta mất hết. Đáng tiếc, chuyện hay như vậy ta lại không được chứng kiến.
Hai bên giằng co trên cạn hai ngày, cuối cùng cũng nổ ra kịch chiến, tuy đều có thắng bại, Bàng Thống vẫn thua nhiều hơn một chút. Tin tức nói, sau một trận chiến, Bàng Thống liền dẫn quân rút vào trong doanh trại tiến hành phòng thủ, còn quân Giang Đông không chút khách khí bao vây chặt Bàng Thống, xem ra muốn ăn sạch tên ngốc này. Có điều, đại khái vì Bàng Thống là trượng phu của Tôn Thượng Hương, hoặc Tôn Sách lên tiếng, vì Tôn Thượng Hương không nên tổn hại tới Bàng Thống, đại quân của Lục Tốn sau khi vây kín Bàng Thống lại, cũng không tấn công mạnh. Mà Bàng Thống ít người, sau khi phá vây hai lần cũng không ra được, Bàng Thống không lấy tính mạng binh sĩ ra thử nữa, song phương nhất thời lại rơi vào thế giằng co.
Lúc nhận được tin, Quách Gia bọn họ cũng tới Tương Dương, chúng ta mấy người nhận được tin đều nhíu mày, không nghĩ ra Bàng Thống tại sao phải gióng trống khua chiêng ra giữa đường đứng chặn quân Giang Đông. Nếu nói tên gia hỏa này phát điên, chẳng ai tin được, nhưng việc hắn làm, thật sự chúng ta không hiểu. Càng làm chúng ta thấy kỳ lạ chính là, thủy quân hai bên sau khi gặp nhau, không hề có chút động tĩnh, thủy quân bên ta bày trận phòng thủ tuyệt đối, thủy quân Giang Đông thực lực kém hơn một chút, không dám chủ động công kích, bởi vậy, tình huống kỳ quái liền xuất hiện, binh sĩ hai bên lúc không có việc gì lại thi mắng nhau, nhưng cũng chỉ nói chuyện không động thủ, đến Bàng Thống bị vây, cũng không thấy thủy quân tới giúp, khoảng cách hai bên không xa. Những chuyện đó khiến chúng ta như rơi vào sương mù, hoàn toàn mơ hồ. Suy nghĩ hai ngày không nắm được mấu chốt, ta nói với Quách Gia, dứt khoát đi Giang Hạ thôi, lỡ Bàng Thống bên kia chịu không nổi nữa, chúng ta có thể lập tức phát binh đánh Sài Tang. Quách Gia đồng ý, chúng ta vừa cho người báo tin với Tào Tháo, vừa khởi hành tới Giang Hạ.
Trong lúc chúng ta còn đang ngờ vực với hành động của Bàng Thống, bên ngoài thành Quảng Lăng cũng đánh rối tinh rối mù. Lục Tốn chỉ mang theo năm vạn nhân mã, trong lúc hắn giằng co với Bàng Thống, ba vạn Ngô quân dưới sự dẫn dắt của Trần Vũ vòng qua quân doanh Bàng Thống đánh thẳng tới thành Quảng Lăng. Đồng thời xuất hiện thêm ba vạn Ngô quân do Chu Nhiên xuất lĩnh ngay ở Quảng Lăng. Giang Đông lần này bỏ vốn cũng thật lớn, huy động toàn bộ nhân mã Khúc A, Ngô quận, còn cả một phần quân Sơn Việt.
Trong thành Quảng Lăng vốn có ba vạn quân đang đóng trú, hơn nữa Bàng Thống khẩn cấp truyền gọi nhân mã quanh thành trở về, tổng số cũng được bốn vạn. Nhưng bởi vì Bàng Thống đã mang ba vạn quân ra ngoài, lúc này trong thành Quảng Lăng chỉ còn một vạn. Mắt thấy ngoài thành lúc nhúc quân địch, dân chúng trong thành tự phát tổ chức tham gia thủ thành. May mà mấy năm nay Bàng Thống vẫn phòng bị Giang Đông xâm phạm, phòng cụ đã chuẩn bị chỉnh tề, lương thảo cũng sung túc, thủ một hai tháng không thành vấn đề.
Nhưng mà, Giang Đông lần này tình thế bắt buộc, giới cụ công thành cũng vô cùng sung túc, dùng tới mấy ngàn thang dài đưa cả xe bắn đá qua sông. Nhiều đá như vậy, cũng khó cho họ có thể đưa tới đây. Qua được sông đào bảo vệ thành, thang dài biến thành thang mây công thành, Ngô quân rõ ràng được huấn luyện nghiêm chỉnh, tư thái không sợ chết, vì công thành, Giang Đông đã đặc biệt huấn luyện một đội quân riêng, không biết có phải tiếp thu bài học tấn công Ngạc thành năm xưa, hay là Tôn Bá Phù bất mãn việc ta nói tướng sĩ Đông Ngô không bằng Tào quân. Dù sao mọi người cảm nhận được áp lực thủ thành rất lớn, cũng chỉ có thể cố gắng phản kích đợi viện binh, ít ra trong mắt Trần Vũ và Chu Nhiên, biểu hiện của quân Quảng Lăng chính là như vậy.
Công phòng kịch liệt trong năm ngày, vô số binh sĩ Giang Đông ngã dưới chân thành, sông đào, mà quân dân thủ thành thương vong cũng thảm trọng, cung tên làm không kịp, không ai ngờ được trận chiến công phòng này lại thê thảm như vậy. Năm ngày sau, trong thành Quảng Lăng tiếng oán than dậy đất, đường đường là Dương châu mục lại vì vợ con mà bỏ thành ra ngoài, để Quảng Lăng rơi vào nguy hiểm. Ngô quân vây thành ngăn được người trong thành chạy ra ngoài cầu cứu, nhưng ngăn không được người của ta đưa tin ra ngoài. Chúng ta ở Tương Dương sau khi nhận được tin cũng chấn động, tính thời gian dã ba ngày nữa trôi qua, không biết Quảng Lăng giờ thế nào, không tránh được đều mắng Bàng Thống hồ đồ. Bất đắc dĩ đã ngoài tầm tay, chúng ta chỉ có thể đem nguy cơ của Quảng Lăng báo cho Trương Liêu đang xuôi nam, bảo hắn không cần lo Ngô quân vây khốn Bàng Thống, cấp tốc tiếp viện Quảng Lăng. Nhưng mà, truyền tin qua lại cũng mất thời gian, không biết Trương Liêu có kịp giải cứu Quảng Lăng hay không, cũng không biết được Bàng Thống sinh tử thế nào, ta đã gấp muốn bốc hỏa.
Ngay vào lúc chúng ta lòng như lửa đốt ở Giang Hạ chờ đợi, cuối cùng tin chiến sự cũng truyền đến, người mang tin tới là Liêu Lập. Lúc hắn đến nhà ta ở Ngạc thành, Quách Gia đúng lúc đang ở chỗ ta hỏi tin tức Quảng Lăng, nhìn thấy Liêu Lập, hai chúng ta đều bối rối. Liêu Lập xông đến trước mặt chúng ta, quỳ bùm xuống, mũ giáp lệch lạc, áo giáp cũng rách, còn có vết máu, thần tình như tro bụi, há mồm thở dốc, nhìn thế nào cũng giống như bại trận tới cầu viện. Nếu sự tình thuận lợi, Liêu Lập không thể nào rời khỏi Bàng Thống, hắn suất lĩnh thủy quân, cũng không nên rời trận địa tới tìm ta.
Ta vội vàng cho Tần Dũng mang nước tới, đích thân nâng người tới chỗ ngồi. Đợi hắn uống nước xong, ta vội vàng hỏi thăm: “Sao lại thế này? Điểu nhi có khỏe không? Quảng Lăng thế nào?”
Liêu Lập không nói gì, che mặt khóc lớn: “Công tử, chúng ta bại rồi, 5555* (tiếng khóc), Thất gia, hắn, hắn, hắn……”
Quách Gia sắc mặt trắng nhợt bước tới sau ta. Ta nóng ruột, tim đã nhảy ngược lên cổ họng: “Hắn rốt cuộc sao rồi, ngươi nói mau lên.”
Liêu Lập ôm mặt lại quỳ xuống: “Lục Tốn mang tiểu công tử đến, cột người trước cửa doanh, nói nếu Thất gia trong ba ngày không thúc thủ chịu trói, sẽ giết hài tử. Thất gia, thất gia hắn thật sự không chịu nổi, vào sớm ngày thứ ba, tự vẫn.”
Hắn vừa nói xong, ta nghe bên cạnh rầm một tiếng, quay lại nhìn, Quách Gia đã ngã xuống đất, lúc này ta mới kịp phản ứng, trước mắt tối sầm không biết gì nữa.
Lúc ta bị lay mạnh tỉnh lại, mở mắt nhìn thấy Liêu Lập mặt bị dọa tới ngu người, ta lảo đảo nắm lấy vạt áo hắn, còn chưa nói ra lời, đã nghe tiếng Tần Dũng cúi đầu thở ra: “May quá, Tam gia cuối cùng tỉnh lại rồi. Lần này Thất gia thảm.”
Mắt thấy Quách Gia ôm ngực cựa quậy muốn đứng lên, Tần Dũng vội tới đỡ: “Tam gia, ngài ngồi yên một lát, đừng nóng, ngàn vạn đừng nóng.”
Ta cố nén từng trận đau đớn trog ngực, vô lực khoát tay: “Tần Dũng, lấy hộ tâm hoàn cho Tam gia ăn, đưa hắn về nghỉ ngơi, ở đây có ta.”
Quách Gia lắc đầu, tựa vào người Tần Dũng, chỉ Liêu Lập hỏi: “Hắn đang ở đâu? Giang Đông? Hay là đưa về rồi?”
Liêu Lập vẫn ngây người ở đó, sắc mặt tái nhợt, miệng khẽ run. Ta đột nhiên cảm thấy có điểm không đúng, nhưng lại không biết là điểm nào, cau mày ôm ngực nảy sinh ác độc: “Bất kể đang ở đâu, thù này ta nhất định phải báo.”
Tần Dũng quát Liêu Lập: “Ngươi còn ngây ở đó? Mau nói thật đi.”
Liêu Lập bị hắn quát giống như tỉnh táo lại, quỳ xuống nói: “Tam gia, công tử, hai người đừng nóng giận, là tôi không tốt, không nên nghe lời Thất gia đánh lừa các ngài.”
Cái gì? Ta lắc đầu, lỗ tai ong ong: “Đợi một chút, ngươi nói cái gì?”
Liêu Lập rầu rĩ nói: “Mấy lời vừa rồi là Thất gia bảo tôi nói với công tử, hắn còn nói, sau khi trở về tôi phải kể lại biểu hiện của ngài cho hắn nghe. Tôi làm sao biết các ngài lại phản ứng mạnh như vậy.”
Ta và Quách Gia còn đang choáng váng, Tần Dũng nở nụ cười: “Tam gia, công tử, những lời tiểu tử này vừa nói đều là lừa mọi người thôi, chính là Thất gia bảo hắn lừa mọi người. Nhưng mà Thất gia không biết Tam gia cũng ở đây, lần này ngài ấy gây rắc rối rồi.”
Gạt chúng ta? Cuối cùng cũng hiểu rõ ý của câu này, cơn giận trong lồng ngực xông lên, lại nghe thấy Tần Dũng thất kinh kêu một tiếng, thân thể Quách Gia lại trượt xuống đất. Đợi Liêu Lập và Tần Dũng đỡ Quách Gia ngồi xuống đệm rồi, ta giậm chân mắng lớn: “Hay cho Bàng Sĩ Nguyên ngươi, đồ khốn kiếp, lại dám gạt ta. Quỷ hẹp hòi, đại hỗn đản, ta sẽ lột da kéo gân ngươi, uống máu ngươi, không ném ngươi xuống Trường Giang cho cá ăn, ta không gọi là Triệu Như.”
Quách Gia đã bình tĩnh hơn, chỉ vào Liêu Lập đang đứng thẳng đơ: “Ngươi nghe lời hắn như vậy sao? Hắn bảo ngươi lừa, ngươi liền làm?”
Liêu Lập cứng miệng, khóc nức nở nói: “Tôi không dám không nghe. Thất gia nói, nếu tôi không làm theo lời hắn, sau khi trở về hắn sẽ đánh tôi năm mươi quân côn.”
Quách Gia khoát tay thở nặng nề: “Xem như ta xui xẻo, gặp phải hai người các ngươi, bình thường khiến người ta lo lắng còn chưa tính, hai người các ngươi hồ nháo cũng phải khiến ta liên lụy, chắc hù chết ta rồi, các ngươi mới cam tâm.”
Ta giận đến mức muốn lập tức lôi Bàng Thống đến trước mặt, hung hăng đánh cho hắn một trận. Nhìn Liêu Lập khóc nức nở, ta cuối cùng hiểu ra điểm không đúng ở chỗ nào, Lưu Lập ôm mặt khóc cả ngày, trên mặt không có một giọt nước mắt nào. Ta quan tâm nên bị loạn, tự nhiên bị hắn lừa gạt, hắn trở về nói lại, Bàng Thống còn không cười chết sao. Càng nghĩ càng hận: “Tốt, ngươi sợ quân côn của ai đó, ta không cần đánh quân côn, Tần Dũng, ngươi đem tiểu tử này ném ra ngoài, đánh hắn năm mươi gậy. Ta dẫn các ngươi ra, giờ có tiền đồ rồi, cứng cáp rồi, lại nghe lời hắn lừa gạt ta.”
Tần Dũng bật cười: “Công tử, coi như xong đi, Thất gia chẳng qua giận ngài chạy tới Giang Đông, hại hắn suốt ngày gấp tới bốc hỏa. Nói thật, vẫn là công tử không đúng nhiều hơn. Về phần Tam gia chỉnh Thất gia thế nào, ngài đừng nhúng tay. Liêu Lập, còn không nói chuyện đứng đắn ra, đợi bị đánh sao. Công tử bớt giận, Tam gia cũng vững vàng tinh thần lại, chính sự gấp hơn.”
Được Tần Dũng khuyên giải, ta tạm thời áp chế ngọn lửa vô danh trong lòng, uống một chén nước mới tính là bình tĩnh lại. Nhìn sắc mặt Quách Gia không tốt, vội lấy một viên hộ tâm hoàn cho hắn dùng, sau đó mới nói với Liêu Lập: “Nói đi, con chim chết đó phái ngươi đến làm gì? Hừ, không phải tìm ta vui vẻ chứ?”
Liêu Lập vội nói: “Ngoại trừ Thất gia không chết, những lời kia đều là thật. Trong mắt người Giang Đông, Thất gia cũng chết rồi, Thất gia nói, đây là kế giả chết.”
“Đợi một chút, ta lại hồ đồ rồi.” Ta đè đầu nghĩ một hồi: “Ý ngươi nói, trước mặt Lục Tốn, con chim chết đó chết thật rồi? Hắn lại dùng thủ đoạn giả chết? Lục Tốn là đồ ngốc à, đến người sống hay chết cũng không kiểm tra ra?”
Quách Gia ở bên cạnh túm tay ta: “Ngươi đừng ngắt lời, để hắn nói. Ta đoán tiểu tử này mang binh rời thành nghênh địch nhất định có quỷ kế.”
Liêu Lập liên tục gật đầu: “Tam gia nói rất đúng, Thất gia mang binh ra khỏi thành chính là mưu kế. Thất gia dẫn hai vạn lục quân, một vạn thủy quân, thực tế là bốn vạn lục quân, mà cuối cùng còn lại trong quân doanh không tới ba ngàn, đại bộ phận đã sớm trốn mất.”
Thì ra, sau khi Tôn Thượng Hương nhận được tin Ngô lão phu nhân muốn gặp nữ nhi và ngoại tôn, đã biết nhất định bên trong có trò, gặp nữ nhi cũng bình thường, nhưng nhất định muốn gặp ngoại tôn là có vấn đề. Bàng Thống biết tính tình Tôn Thượng Hương, nhất định không ngăn được, không bằng tương kế tựu kế, dù sao Tôn Sách cũng không làm hại Tôn Thượng Hương, mà Tôn Thượng Hương sẽ không cho phép Giang Đông động tới hài tử. Bởi vậy, hắn giả bộ ngăn cản Tôn Thượng Hương mang hài tử về nhà mẹ đẻ, Tôn Thượng Hương nổi cáu, hắn lập tức đầu hàng. Sắp xếp đưa mẫu tử họ đi rồi, Bàng Thống mật lệnh cho Liêu Lập mang hai ngàn người tới Diêm Đồn, nơi này tuy cách Quảng Lăng bốn mươi dặm, nhưng cách sông chỉ hơn mười dặm. Liêu Lập sau khi tới Diêm Đồn liền cưỡng chế dân chúng di dời, tìm một gian nhà lớn, bí mật đào thông đạo tới bờ sông.
Đợi sau khi tin tức Ngô lão phu nhân an táng xong truyền tới Quảng Lăng, Bàng Thống liền mang đại quân xuất phát tới Diêm Đồn xây căn cứ tạm thời đợi đại quân Giang Đông tới. Chúng ta phán đoán đủ kiểu dụng ý Bàng Thống khi rời thành, Giang Đông thì tự cho Bàng Thống đã trúng kế, kết quả, không ai ngờ Bàng Thống ngồi xổm ở đó cả ngày đào bùn chơi, đợi binh mã Giang Đông kéo đến, đường nối giữa quân doanh tới bờ sông đã đào xong.
Sau khi binh mã Lục Tốn tới nơi, Bàng Thống làm đủ hình thức bề ngoài, khiến Giang Đông nghĩ hắn thẹn quá hóa giận, cũng đại chiến với Lục Tốn một hồi, cho quân phá vây xong ra, Bàng Thống lại mang theo mấy ngàn tướng sĩ rút vào binh doanh Diêm Đồn, bày ra tư thế phòng thủ, hắn đoán chắc Tôn Sách sẽ không dễ dàng để Lục Tốn giết hắn, với lại, phòng thủ vững chắc cũng có thể chống đỡ một thời gian. Lục Tốn quả nhiên mắc mưu hắn, lúc cái tên Bàng Thống kia đang giả chết bị đưa về doanh, không tấn công mạnh mẽ vào quân doanh của Bàng Thống, hắn cho rằng đã vây Bàng Thống ở đây, cứ thoải mái để Chu Nhiên và Trần Vũ dẫn quân đi tấn công Quảng Lăng giờ lực lượng phòng thủ đã mỏng đi rất nhiều. Theo Lục Tốn thấy, chỉ cần vây chặt Bàng Thống ở đây, đợi Chu Nhiên hạ được Quảng Lăng, sẽ đưa hài tử tới trước tiền doanh của Bàng Thống, Bàng Thống không có đường lui, lại bị nhi tử phân tán tinh thần, chỉ có thể thúc thủ chịu trói.
Lục Tốn không ngờ, chúng ta cũng không ngờ, Bàng Thống lúc này đã mang đại bộ phận binh mã dời tới thủy trại trên sông, cũng trong đêm tối dùng thuyền nhỏ chuyển quân sang bờ nam Trường Giang. Thủy quân Giang Đông đang giằng co trên sông cũng không nghĩ ra thủy quân Bàng Thống bày trận ở đó, không phải vì ngăn cản bọn họ tham gia vây công Quảng Lăng, mà để che dấu việc chuyển quân tới bờ nam. Sau khi đại quân lặng lẽ qua sông, phân tán rồi tổ chức lại, mặc trang phục dạ hành chạy vào trong núi Bắc Cố chờ Bàng Thống.
Giang Đông đem Bàng công tử giả đưa tới quân doanh xong, Lục Tốn cũng không khách sáo, dù sao cũng là giả, sống chết không quan trọng, liền cho người trói hài tử lên cột cờ trước cửa, phái người gọi Bàng Thống, bảo Bàng Thống sớm đầu hàng, cho hắn ba ngày, nếu không đầu hàng, tính mạng hài tử khó bảo toàn. Bàng Thống híp mắt suy nghĩ nhìn phía đối diện cả nửa ngày, hài tử kia đầu tóc rối bù, thân hình rất giống con hắn, nhưng nhìn không rõ mặt, muốn tới gần xem, lại không muốn bị bắt, không biết hài tử là thật hay giả, Bàng Thống đứng ở cửa doanh do dự ước chừng một ngày, có thể mắng cũng đã mắng xong, nhưng vẫn không nghĩ ra. Đây chính là quan tâm sẽ loạn, ngươi chỉ cần bảo đối phương chứng minh đó là người thật là xong mà. May mắn tên gia hỏa này phản ứng không chậm lắm, ngày hôm sau bảo Liêu Lập chạy tới quân doanh đối phương chứng minh, Lục Tốn mang y phục mặc ở nhà của tiểu công tử ra. Lúc Liêu Lập cầm y phục ra về, linh cơ chợt động chạy tới trước nha môn nhìn công tử giả mà khóc rống lên, hàng giả nhìn thấy hắn lại chẳng có phản ứng gì, chỉ bật khóc, Liêu Lập lập tức đoán ra hài tử là giả, trở về nói lại, Bàng Thống vui vẻ. Đêm đó, Bàng Thống dặn binh sĩ còn ở lại chuẩn bị tốt vật dẫn lửa.
Ngày thứ ba chính là hạn định cuối cùng của Giang Đông, Bàng Thống dậy sớm, đội nghiêng khăn trùm đầu, y phục toán loạn, trên mặt trát tro nồi, làm ra bộ dạng người không ra người, quỷ không ra quỷ chạy ra cửa doanh tản bộ, bỏ qua chế giễu của quân Giang Đông. Tản bộ tới giữa trưa mới về doanh ăn cơm, ngủ ngon một giấc, đến hoàng hôn mới dậy giao phó lại mọi chuyện, chỉnh đốn lại bản thân, thay một thân quan phục mới toanh, tề tề chỉnh chỉnh rồi cầm kiếm đi ra cửa doanh. Tới một mảnh đất nằm giữa hai bên, Bàng Thống bảo Lục Tốn ra nói chuyện. Lục Tốn rời doanh nhìn thấy Bàng Thống trang phục chỉnh tề rất sửng sốt, sao chẳng giống buổi sáng chút nào, đợi hắn phát hiện không đúng, Bàng Thống đã lên tiếng.
Kể tới đây, Liêu Lập hoa chân múa tay phấn khích tả lại Bàng Thống ngày hôm đó: “Thất gia cứ như vậy, lưng thẳng tắp, một tay cầm kiếm, thật oai vệ phất tay về hướng Lục tiểu nhi, dùng khẩu khí bình thản nói với hắn: “Xin Lục đại nhân bẩm báo với Ngô hầu, Bàng Thống thân là Dương châu mục, trên không bảo vệ được đất đai, dưới không bảo vệ được gia đình, xấu hổ vạn phần, sau có thể chịu bức hiếp mà ra đầu hàng, làm việc phản chủ. Nhưng phu thê tình thâm, phụ tử tình nặng, Thống sao có thể nhẫn tâm thấy phu nhân ái tử chịu đày đọa không để ý. Nghĩ trước nghĩ sau, chỉ xin Ngô hầu giúp Thống chăm sóc thê tử, đường đường phủ Ngô hầu chắc không thể không nuôi nổi cô nhi quả phụ.”. Lục tiểu nhi ngơ ngẩn nghe xong đoạn này, còn chưa hồi phục lại tinh thần, Thất gia lại bi thương nhìn thanh kiếm trong tay, thở dài thật lớn, lại lắc đầu, mang một tấm khăn thêu ra nhìn, rồi bỏ lại vào ngực, dặn dò Lục tiểu nhi: “Cũng xin Lục đại nhân tiện thể nhắn với phu nhân, nói kiếp này Bàng mỗ xin lỗi nàng, bảo nàng hãy gả cho một vị anh hùng, chỉ cần có thể đối xử tử tế với hài tử là được rồi, Bàng mỗ dưới suối vàng sẽ cảm kích vạn phần.” Thất gia nói những lời này tình ý dạt dào, chúng tôi ở bên cạnh hắn đúng là chịu đau khổ chịu dày vò.”
Nhìn bộ dáng nín cười của Liêu Lập, ta nghĩ tới khuôn mặt trợn mắt há mồm của Lục Tốn lúc đó thì cười: “Trời ạ, Lục Tốn tuổi cũng không nhỏ, các ngươi lại bày kế sỉ nhục hắn như thế! Lại còn lấy ra khăn thêu của Tôn Thượng Hương ra nhìn à? Má ơi, cười chết ta, điểu nhi quá khôi hài.”
Quách Gia hai mắt sáng lên, thúc giục Liêu Lập: “Sau đó thế nào? Ngươi nói mau.”
Liêu Lập cố nén cười kể tiếp: “Trong lúc Lục Tốn còn đang chớp chớp trong mắt nắm lấy ý tứ mà Thất gia nói, Thất gia rút kiếm, lập tức cắm vào ngực, máu trào ra, Thất gia lảo đảo ngã vào ngực tôi, tay chân run rẩy vài cái, sau đó không cam lòng quát to một tiếng mới nhắm mắt.”
Quách Gia kinh hãi: “A? Ngươi không phải nói hắn giả chết sao? Thế nào mà, thế nào lại…”
Liêu Lập vội vàng nói tiếp: “Tam gia đừng nóng, đó là máu giả, Thất gia đặt một túi máu heo trong ngực, bên trong đệm một miếng sắt nhỏ, kiếm vừa đâm vào, máu heo liền vỡ ra, thoạt nhìn như thật vậy. Hì, vết máu trên người chính là máu heo thôi.”
Quách Gia thở phào nhẹ nhõm một hơi: “Máu heo à, vậy còn được. Ý, không đúng, kiếm đâm nông như vậy, liếc mắt một cái có thể nhìn ra, hắn làm sao mà lừa được?”
Ta ở bên cạnh đã cười gập cả người: “Tam ca, thanh kiếm đó có trò. Đó là món đồ chơi chúng ta nghĩ ra ở Nghiệp thành, không ngờ hắn lại dùng trên chiến trường.”
Năm đó ở Nghiệp thành, ta và Bàng Thống dạo chơi ngoài phố, nhìn thấy gánh tạp kỹ biểu diễn trò tự hại mình, người kia cầm một thanh kiếm cắm vào cơ thể mình, mũi kiếm lại lộ ra ở phía sau, nhưng không thấy máu chảy ra, đợi hắn nhổ kiếm trên người ra, vạch quần áo, trên người không thấy có thương tích. Ta và Bàng Thống thấy tò mò, cẩn thận quan sát thật lâu, mới phát hiện trong thanh kiếm kia có trò. Lại gần xem kỹ,thì ra kiếm là do trúc làm ra, bên ngoài mạ đồng, không nhìn kỹ không khác gì cây kiếm bình thường. Trúc kiếm chia làm hai tầng, tầng trên nhỏ hơn, tầng dưới bên trong có hai cái rãnh nhỏ, lúc mũi kiếm đâm vào vật cứng, tầng dưới không động, chỉ cần dùng tay vận sức, tầng trên sẽ nhanh chóng trượt xuống tầng dưới, tạo thành cảnh giả kiếm đâm vào cơ thể. Mũi kiếm sau lưng cũng là giả, là một thanh trúng giấu ở sau lưng, dùng cơ quan điều khiển, lúc vận sức ở phía trước, cơ quan giấu trước ngực sẽ bắn mũi kiếm trên lưng lộ ra, thành trò chúng ta thấy. Lúc ấy hai chúng ta thấy trò này chơi rất hay, Bàng Thống liền mua một cây kiếm trúc này về, nói là để sau này dọa bọn trẻ con. Ai ngờ, hắn không dùng dọa trẻ con, lại đem ra dọa Lục Tốn.
Nghe ta giải thích xong, Quách Gia cũng cười lớn. Liêu Lập ở bên cạnh tiếp tục nói: “Đúng là như vậy, Lục Tốn thật sự bị Thất gia hù dọa, binh mã Giang Đông cứ vậy ngây ngốc nhìn chúng ta “cướp” Thất gia về đại doanh. Sau khi trở về, Thất gia để chúng ta vừa gào khóc, vừa chui vào thông đạo, người cuối cùng châm lửa, đem toàn bộ quân doanh và thôn Diêm Đồn thiêu sạch. Tôi ra rồi không cùng Thất gia qua sông, mà tranh thủ trời tối chạy đến đây. Hắc hắc.”
Ta và Quách Gia đều đã hiểu. Bàng Thống ở cửa doanh diễn kịch một hồi, thừa dịp Lục Tốn còn đang thê thảm trong lòng, trở về doanh phóng lửa, khiến quân Giang Đông dù muốn chứng thực hắn chết hay chưa cũng khó khăn. Đợi lửa tắt mới đi tìm thi thể, làm sao có thể phân biệt được, bọn họ cho dù nghi ngờ, cũng không có cách nào. Trận lửa này ít nhất cháy tới sáng, đủ thời gian để Bàng Thống chạy tới quân doanh thủy quân.
Có điều, ta vẫn còn nghi ngờ: “Sau khi lửa tắt. Lục Tốn vào trong nhất định phát hiện không đúng, không hề có thi thể mà.”
Liêu Lập cười nói: “Tại sao không có? Trước đó không phải chúng ta đánh nhau một hồi với Giang Đông sao? Hơn nữa hai lần giả vờ phá vây kia, binh sĩ vong trận hai bên không ít, chúng ta thừ dịp trời tối kiếm gần hai ngàn thi thể, ném vào đám cháy cho qua chuyện. Cho dù Lục Tốn thông minh, trong nhất thời cũng không nhìn ra thật giả. Dù sao lúc tôi tới đây, tin Thất gia chết cũng đã truyền khắp nơi.”
Ta hung hãn nói: “Các ngươi thật ghê tởm, giữ nhiều thi thể trong quân doanh như vậy cũng không sợ thối. Ôi, đáng thương những binh sĩ đó, đã chết tha hương, lại còn… Ôi.”
Quách Gia trắng mắt lườm ta: “Ngươi lại bắt đầu phát từ bi rồi. Xin đi, đó là chiến trường, không phải chỗ chơi, sao quản được nhiều vậy. Liêu Lập, Điểu nhi mang binh qua sông muốn tập kích nơi nào? Hắn phái người tới có phải bảo chúng ta phối hợp hành động không?”
Liêu Lập liên tục gật đầu: “Đúng vậy. Mục đích Thất gia cử tôi tới là muốn báo cho mọi người, lúc này chắc hắn đã tới Đan Đồ. Công tử bên này tốt nhất đừng có hành động, đợi Thất gia lấy được Đan Đồ, xin Ngụy vương lập tức cho đại quân xuôi nam.”
“Quảng Lăng bên kia có thể kiên trì không?” Bàng Thống mang binh chạy tới tập kích Đan Đồ, Lục Tốn không biết tình hình, nhất định sẽ dẫn quân tới Quảng Lăng. Quảng Lăng nhận được tin Bàng Thống chết, lại thấy Giang Đông tăng binh, áp lực trong lòng rất lớn, không biết còn có thể chống đỡ không. Không đợi Điểu nhi hạ được Đan Đồ, Quảng Lăng bên kia đã bị Lục Tốn chiếm mất rồi.
“Hắc hắc, không thành vấn đề. Thất gia trước khi đi đã sắp xếp xong xuôi, tin tức bên ngoài đều là giả, Thất gia để lại trong thành Quảng Lăng hai vạn nhân mã, Giang Đông lần này ở Quảng Lăng nhất định sẽ hao binh tổn tướng, không hưởng được chút lợi nào đâu.” Liêu Lập vô cùng tự tin trả lời.
Ta thấy cũng đúng, không mười phần nắm chắc, Bàng Thống cũng sẽ không yên tâm mang quân đi Giang Đông. Quách Gia nghĩ một hồi nói với ta: “Nếu như vậy, chúng ta cũng không cần chờ tin Quảng Lăng và Sĩ Nguyên nữa, lập tức bẩm báo chủ công, phát binh Sài Tang, khiến Giang Đông đầu đuôi không thể cứu được nhau.”
Ta yên lặng tính toán một chút, lắc đầu cự tuyệt đề nghị của Quách Gia: “Tam ca, ta vẫn chưa chuẩn bị xong, đánh Sài Tang sẽ trả giá rất lớn. Có điều, chúng ta có thể nhân cơ hội thực hiện một phương án khác đã tính toán từ trước.”
“Phương án nào?”
“Bắt giặc bắt vua trước, trực tiếp tấn công Kiến Nghiệp.”
Quách Gia nhảy dựng lên: “Ngươi có nắm chắc không?”
Ta tự tin gật đầu: “Đương nhiên.”
Quách Gia nhảy đến bên cạnh ta, bộp, gõ đầu ta một cái: “Ngươi sớm đã dự mưu, vì sao không nói? Có biết người cao tuổi không thể lao tâm khổ trí không?”
“Ôi.” Ta ôm đầu trốn: “Tam ca, gạt người là Điểu nhi, huynh sao lại phát tác lên ta chứ.”
Quách Gia mặc kệ ta kêu oan, bắt lấy tay áo ta: “Nói mau.”
“Ta nói, ta nói.”
Dưới ánh mắt sắc bén của Quách Gia, ta nhanh chóng bại trận, thành thật nói ra tất cả. Nửa ngày sau, Liêu Lập vỗ vỗ cái bụng đã căng tròn, ánh mắt đồng tình nhìn người nào đó bị Quách Gia chỉnh đốn một trận, đánh ngựa đi về hướng đông.
Trong lúc ta và Quách Gia thiếu chút bị Bàng Thống chỉnh chết, chiến trường Quảng Lăng cũng đã phân thắng bại. Trải qua mười ngày tranh đoạt thê thảm, cửa thành tây dưới sự tấn công mãnh liệt của Ngô quân đã thất thủ, Trần Vũ dẫn quân đoạt quyền khống chế cổng thành, buông cầu treo xuống, Chu Nhiên dẫn đầu, suất lĩnh Ngô quân xông vào, rất nhanh đã đi vào trong phố, lúc này, quân coi giữ thành Quảng Lăng đã lui vào bên trong, dọc đường lui quân phóng lửa đốt nhà cửa hai bên đường, khói dày đặc bao phủ không trung lúc Chu Nhiên xông vào. Phương pháp đốt thành này được áp dụng phổ biến khi không thủ thành được nữa, Chu Nhiên không để ý, một lòng chỉ huy quân sĩ truy kích tàn quân, đợi bọn họ vượt qua đống khói lửa mới kinh ngạc phát hiện trước mặt họ lại là một bức tường kiên cố.
“Thành trong thành?” Chu Nhiên nhìn bức tường thành trước mắt, bên trên binh lính đã bày trận địa sẵn sàng đón địch, con mắt chốc lát mở to.
“Sao lại thế này?” Trần Vũ cũng vừa dẫn binh chạy tới, vừa rồi trên tường thành đánh nhau kịch liệt, lại thêm đối phương đốt lửa dữ dội khiến hắn không chú ý kịp tới tình hình bên trong.
Đúng lúc này, tiếng kêu sợ hãi từ phía sau Ngô quân truyền tới, Chu Nhiên và Trần Vũ còn chưa kịp phản ứng với tình huống trước mặt, đã nghe Ngô quân kêu to phía sau cổng thành bị đóng lại, Ngô quân đã vào thành và Ngô quân bên ngoài bị chia cắt. Mắc mưu rồi, Chu Nhiên và Trần Vũ gần như cùng nói ra ba chữ kia, cũng gần như cùng hành động, Trần Vũ đánh tới tường thành trước mặt, Chu Nhiên đánh trở lại phía sau.
Nhưng mà bọn họ hành động đã muộn, ngàn vạn mũi tên từ bức tường thành bên trong trút xuống, hàng ngũ dày đặc trên con phố đã trở thành bia tên của đối phương, một lượt tên bắn xong, Ngô quân đã ngã xuống một mảnh. Chu Nhiên nhìn thấy mưa tên trong phút chốc lập tức hô lớn thuẫn bài bảo hộ, tản ra xung quanh, Ngô quân nhanh chóng chạy sang những chỗ trống hai bên đường ẩn núp. Nhưng mà, Chu Nhiên còn chưa tỉnh táo lại từ loạt tên đầu tiên, binh sĩ trước sau trái phải lại phát ra tiếng kêu thê lương thảm thiết, mặt đất vừa rồi còn đang bằng phẳng nháy mắt mở ra cái miệng khổng lồ, cắn nuốt vô số sinh mệnh. Thì ra ở chỗ đất trống hai bên đều cất giấu vô số cạm bẫy, bên trong bẫy là lưỡi đao và mũi thương dựng san sát. Ngô binh vừa thoát được một kiếp này vừa ôm đầu tránh loạt tên tiếp theo vừa cẩn thận chú ý dưới chân, không thể tụ tập trên đường, ven đường lại là cạm bẫy, chỉ còn khoảng đất phía trước những căn nhà bị thiêu cháy có thể giúp bọn họ nghỉ chân, đại đa số Ngô quân kinh sợ còn chưa bình tĩnh lại đều chen tới những vị trí này.
Chu Nhiên bất chấp tất cả, mang theo đại bộ phận binh lính xông ngược lại đường vào, chỉ cần có thể mở cửa sắt, rời khỏi thành là tìm được đường sống. Đúng lúc hắn xông tới gần cửa sắt, binh, ầm một tiếng chấn động từ phía sau truyền đến, Chu Nhiên và người bên cạnh ngạc nhiên quay đầu nhìn lại, một mảnh sóng nhiệt trôi qua, lửa cháy càng lớn, đại hỏa đã bao trùm toàn bộ con phố, binh lính muốn chạy trốn và những người đang dùng thuẫn bài hộ thân trên phố đều không thấy đâu nữa, bao gồm cả đám binh sĩ đứng cách Chu Nhiên mấy chục mét đều đã ngã, xung quanh ngổn ngang những phần thân thể bị văng ra, không khí tràn ngập mùi thịt khét. Quân Quảng Lăng đã đặt rất nhiều thùng sắt chứa gỗ cây du đồng* trong các căn nhà, tất cả trở thành vật dẫn nổ, những kẻ đang chạy toán loạn hoặc đứng trên phố đều hoặc bị dòng khí thổi tung lên hoặc bị binh khí, gạch đá bị thổi bay trúng phải, trong nháy mắt đã mất mạng. Chu Nhiên và Ngô quân còn lại bị cảnh tượng trước mắt dọa ngây người, sững sờ đứng tại chỗ, đến cung tên của Tào quân đột nhiên xuất hiện hai bên tường thành cũng không để ý, mãi tới lúc mưa tên bắn lên mình mới đau đớn tỉnh táo lại. Nhưng tỉnh lại chẳng qua cũng chỉ một lúc, Chu Nhiên cùng hai trăm binh sĩ nhanh chóng táng thân dưới đợt tên thứ ba. Những tên lính còn lại may mắn xông kịp tới dưới chân tường thành thoát khỏi đợt tên này, lại nhanh chóng bị Tào quân dưới tường thành tiêu diệt nốt.
Cùng lúc Chu Nhiên chết ở cổng thành, Trần Vũ cũng chết ở cửa thành trong. Hắn mang hai ngàn binh lính công thành đánh vào tường thành phía trong, hắn đã nhận ra bức tường thành này và cửa thành không vững chắc lắm, cũng không cao bằng lớp tường ngoài, cửa thành không dày, chỉ cần liều mạng đoạt được cánh cửa này, sẽ có thể tiến vào Quảng Lăng, cũng có thể đoạt được cơ hội sống sót. Quân sĩ thủ thành lúc này bắn tên không thương tiếc, dưới mưa tên và gỗ cây tiếp đón, tiếp cận với cửa thành chỉ còn không tới một ngàn Ngô quân. Chính vào lúc đó, bọn họ cũng nghe thấy tiếng nổ mạnh ở phía sau, cũng nhìn thấy một màn khiếp sợ như đồng bọn ở bên ngoài. Không kịp bi thương, Trần Vũ nghe trên đỉnh đầu có người ra lệnh dừng công kích, trường tiễn và gỗ cây đều dừng lại.
Trần Vũ vừa thở hổn hển một hơi, đang định lệnh cho thủ hạ xô cửa, trên đỉnh đầu vang lên một giọng nói: “Trần tướng quân, các người đã không còn đường sống, sao không đầu hàng.”
Trần Vũ chậm rãi lui về phía sau vài bước, ngẩng đầu nhìn lên tường thành, một vị tiểu tướng quân toàn thân khôi giáp đang từ đó nhìn xuống, gương mặt vẫn trẻ con lại chứa một tia tàn nhẫn và trầm ổn, ánh mắt lóe lên vẻ thông tuệ, lại thoáng hiện lên một tia quang mang. Trần Vũ công thành mấy ngày vẫn chưa thấy qua người này, trong lòng hắn đoán được, chỉ sợ mình sẽ chết trong tay vị thiếu niên tướng quân này. Hít một hơi thật sâu, Trần Vũ một lần nữa ngẩng đầu đối mặt: “Ngươi là ai?”
“Khương Duy, Khương Bá Ước, phụng mạng sư phụ cung kính bồi tiếp tướng quân.” Khương Duy dùng khẩu khí tự hào giới thiệu bản thân.
Trần Vũ lắc đầu, hắn chưa từng nghe qua cái tên này, ở trong lòng vì bản thân mà bi ai một chút, hắn nhìn binh sĩ chung quanh, phất phất tay, không nói một lời đánh tới cửa thành. Khương Duy thấy hắn như vậy, cũng học hắn thở dài, trên gương mặt non nớt lại không chút vẻ không đành lòng nào, đoản kích trong tay phải phất phất, binh sĩ bên cạnh lập tức đem gỗ đồng du bao kín bằng rơm rạ ném ra, một mũi tên lửa nhanh chóng bắn xuống đám cỏ khô đã chồng chất bên dưới, nháy mắt đốt đám cỏ cây cháy bừng bừng thiêu cháy toàn bộ đám người dưới chân thành. Lúc đại hỏa bùng lên, từng thùng dầu nóng bỏng cũng được dội xuống, hoàn toàn cắt đứt đường chạy trốn của Trần Vũ, mà những binh sĩ hành động mau lẹ vừa thoát khỏi biển lửa cũng không may mắn thoát được lần nữa, dầu nóng vừa rơi vào người lập tức bốc cháy, bọn họ phát ra tiếng khóc thê lương, mang theo đại hỏa lăn lộn dưới tường thành, không bao lâu tiếng gào thét bên dưới đã biến thành rên rỉ, rồi cả tiếng rên rỉ cũng không còn.
Một ngày sau, lúc Lục Tốn đuổi tới thành Quảng Lăng, nhìn thấy chính là Ngô quân đang hoảng sợ cùng trận địa Tào quân sẵn sàng đón địch, hắn đồng thời thu được tin thám báo, Trương Liêu suất lĩnh ba vạn thiết kỵ sắp tới thành Quảng Lăng. Đến lúc này, Lục Tốn không thể không thừa nhận thất bại của chiến dịch lần này, cảm giác tự hào khi bức tử được Bàng Thống cũng không còn lại gì. Vội vàng hạ lệnh cho thủ lĩnh Sơn Việt quân Mộc Thanh mang người đi chặn đánh Trương Liêu xong, Lục Tốn mang đại quân nhanh chóng lui về, đối mặt với Hổ báo kỵ do Trương Liêu suất lĩnh, hắn chỉ có thể lựa chọn con đường này. Lục Tốn rút lui về phía nam rất nhanh nhận được tin, quân Sơn Việt chặn đánh Trương Liêu thất bại thảm hại, một vạn sĩ binh Sơn Việt chết trận, thủ lĩnh Mộc Thanh bị Tào quân vây khốn tự sát thân vong. Lúc Lục Tốn nhận được tin tức này thở dài thật sâu, từ khi biết thân phận của Triệu Như, trên dưới Giang Đông tuy không phát hiện dấu hiệu Sơn Việt cấu kết với Lạc Dương, nhưng vẫn hoài nghi Mộc Thanh cùng người Sơn Việt, Mộc Thanh tự sát thân vong, đã tiêu trừ toàn bộ nghi ngờ của bọn họ. Lục Tốn thậm chí rất hối hận quyết định của bản thân đẩy Mộc Thanh vào tử lộ.
Chuyện khiến Lục Tốn chấn động và hối hận thật sự vẫn còn ở phía trước. Sau khi hắn tự cho đã bức tử được Bàng Thống, dẫn đại quân tiếp viện Chu Nhiên, đồng thời lệnh cho thủy quân tấn công Tào quân. Nhưng mà, Tưởng Khâm suất lĩnh thủy quân Ngô tấn công Phan Chương suất lĩnh thủy quân Tào phòng thủ, căn bản không có chút năng lực nào, hai ngày tấn công đều không công mà lui. Lục Tốn sau khi rút khỏi Quảng Lăng, Ngô quân một đường rút lui, Trương Liêu dẫn quân truy kích không ngừng, đồng thời, thủy quân Tào trên sông vẫn không động, đúng lúc Lục Tốn chạy về tới chiến trường cũ đã bị thiêu cháy rụi ở Diêm Đồn, đột nhiên lại mạnh mẽ tấn công thủy quân Ngô. Phan Chương nhẫn nhịn nhiều ngày cuối cùng cũng được tham chiến. Vốn tin tức đại quân công thành thất bại thua tan tác đã khiến thủy quân Ngô khủng hoảng không thôi, đối mặt với khí thế bài sơn đảo hải của Tào quân, Ngô quân thực lực không đủ đại bại mà chạy, so với lục quân còn nhanh hơn, sớm đã về tới Khúc A. Tưởng Khâm coi như còn lý trí, đích thân dẫn ba trăm chiến thuyền tiếp ứng Lục Tốn.
Lục Tốn và Tưởng Khâm sau khi hợp quân, định lui về Đan Đồ, liền nhận được tin Đan Đồ bị Bàng Thống dẫn quân giả bộ thua trận lừa mở cửa thành công chiếm. Nhận được tin này, Lục Tốn quả thật không thể tin nổi, đợi hắn hiểu ra, liền phun một ngụm máu té xỉu. Hắn tỉnh lại liền muốn tự sát, may mà được Tưởng Khâm ngăn lại. Phía sau có truy binh, thuỷ quân đại bại, Đan Đồ bị tập kích, đối mặt với đội quân thê thảm bất lực, Lục Tốn chỉ có thể giữ vững tinh thần, đem đội quân còn lại về Khúc A.
Chiến dịch Quảng Lăng lần này, Ngô quân tổn thất ba vạn, lúc công thành mất một vạn quân và ba viên đại tướng, trong đó bảy nghìn Ngô quân tiến vào thành Quảng Lăng không ai sống sót, đại tướng Chu Nhiên bị loạn tiễn bắn chết, Trần Vũ chết cháy, mùi khét rải giữa không trung khiến dân chúng thành Quảng Lăng bị ác mộng tới mấy ngày. Trải qua trận chiến này, đệ tử mới mười hai tuổi của Bàng Thống tên Khương Duy vang danh thiên hạ. Mà Lục Tốn sau khi về tới Khúc A, bệnh không dậy nổi, ba năm sau mới lại xuất hiện trong tầm mắt mọi người, lúc ấy, trận chiến máu lửa này đã trở thành một hình mẫu kinh điển cho bài học “Thủ thành công lược”** trong các trường học.
Chú thích:
* Cây du đồng: còn gọi là cây trẩu trơn, được dùng để thắp đèn tại Trung Quốc.
** Thủ thành công lược: chiến lược tấn công khi thủ thành.
Danh sách chương