Lúc Trình Phổ, Chu
Du gặp được đám tàn binh bại tướng kia, đã là bốn ngày sau cuộc chiến ở
Hu Dị. Nhìn Hàn Đương đang tự trách mình, Chu Du đầu óc trống rỗng,
Trình Phổ vội vã lắc vai Hàn Đương: “Chủ công đâu rồi? Rốt cuộc sao lại
thế này? Chủ công sống chết chưa biết, ngươi về đây làm gì? Các ngươi vì sao không đi tìm?” Hàn Đương vô cùng xấu hổ: “Tôi đáng chết, Lăng tướng quân đã mang người đi tìm, tôi… Nếu như không phải dẫn binh mã trở về,
tôi nào có mặt mũi về đây nữa?”
Chu Du cố kiềm chế, trừng đôi mắt đỏ ngầu nhìn Hàn Đương chậm rãi hỏi: “Trong quân sĩ có ai biết tình hình của chủ công không? Các ngươi đã hỏi qua chưa?” Hàn Đương khóc rống lên: “Hỏi rồi, đều đã hỏi, toàn bộ binh lính chủ công đem ra ngoài nghênh địch đều bị giết, không ai trở về. Có điều, trên đường đi chúng tôi cũng không nghe được tin tức của chủ công.” Chu Du sắc mặt tái xanh, cúi đầu nghĩ một lát, rồi nhìn Trình Phổ nói: “Đô đốc, ngài giữ ở đây, tôi tự dẫn người đi tìm chủ công, không có tin tức nghĩa là tin tốt, nếu không, Tào quân sớm đã ào tới, không lý nào bỏ qua cơ hội tốt như vậy.” Trình Phổ lắc đầu: “Không, ngươi ở lại, ta dẫn người đi.”
Chu Du lần đầu tiên mất khống chế trước mặt Trình Phổ, lạnh lùng nói: “Lão tướng quân, tung tích Bá Phù không rõ, ngài bây giờ là chủ soái tam quân, lần này là đi vào bên trong lòng địch, không phải đi theo một đội quân lớn, mà là cải trang tìm người, ngài làm sao có thể mạo hiểm. Coi giữ đạo quân này mới là quan trọng!” Hàn Đương lập tức nói: “Tôi đi với ngài.” Chu Du lắc đầu: “Ngươi cùng Lữ tướng quân ở lại đây, các người đều bị thương, nếu ta đoán không lầm, sắp tới còn một hồi đại chiến.” Nhìn thái độ của Chu Du, mọi người không nói gì nữa, Trình Phổ cũng chỉ biết gật đầu.
Trước khi đi, Chu Du nói với Trình Phổ: “Quân ta đại bại, chủ công không có mặt, nhân tâm không ổn định, lỡ như có chuyện gì, lão tướng quân hãy mang binh trở về Khúc A đi! Xem ra Tào Tháo rất coi trọng nơi này, tướng lĩnh đều không tầm thường, tin tình báo của chúng ta không được chính xác. Ta đoán Tào quân còn có động thái khác, ngàn vạn lần phải cẩn thận.” Trình Phổ suy tính: “Vậy ta ở đây đợi ngươi mười ngày, mười ngày sau không có tin tức các người, ta sẽ lui binh.” Chu Du gật đầu, mang theo Chu Trị cùng hơn trăm người rời đi.
Chu Du tính không sai chút nào, Tào quân quả thật không dễ dàng cảm thấy thỏa mãn. Ngày thứ tư sau khi Chu Du đi, Trình Phổ nhận được tin thám báo, Cao Thuận cùng Hàn Hạo tự mình dẫn một vạn năm ngàn binh hướng tới Quảng Lăng. Trình Phổ tuy rằng nắm trong tay bốn vạn đại quân, nhưng lại ứa mồ hôi lạnh. Ông ta từ chỗ Hàn Hạo, Lữ Phạm đã hiểu rõ lợi hại của Hãm Trận Doanh, binh sĩ của mình chỉ sợ không phải đối thủ của một vạn năm ngàn người kia, còn chưa nói trong thành Quảng Lăng, Trần Đăng có tới hai vạn binh, nếu hai mặt giáp công, bản thân mình căn bản không thể chống đỡ được.
Sau khi triệu tập chúng tướng thảo luận một phen, Trình Phổ lệnh cho đại quân từ từ rút khỏi ngoại thành Quảng Lăng, lui về Đan Đồ. Thấy đại quân ngoài thành nhổ trại rút lui, Trần Đăng suy nghĩ cả nửa canh giờ, rồi hỏi ý kiến Tôn Quan: “Tôn tướng quân, xem ra Thọ Xuân đã có chiến báo, Ngô quân muốn rút lui, ông thấy…” Tôn Quan sảng khoái nói: “Ý tứ đại nhân là phái Quan đem quân rời thành công kích Ngô quân? Tôi chính là có ý đó.” Trần Đăng gật đầu. Tôn Quan lập tức hạ lệnh tập kết một vạn hai ngàn người, ra khỏi thành tập kích Ngô quân.
Trình Phổ thấy Tào quân từ trong thành tiến ra, trong lòng cực kỳ tức giận, vây khốn tấn công hai mươi ngày, lúc nào cũng đóng cổng không ra, giờ bỗng nhiên lại tới công kích, quả thật là thừa dịp cháy nhà ra hôi của, để ta xem Trần Đăng ngươi có bản lĩnh này không? Ngươi đã muốn tới, ta sẽ diệt ngươi trước, không bằng Hãm Trận Doanh, lại không hạ được ngươi sao? Cho nên, ông ta dứt khoát hạ lệnh cho đại quân dừng lui binh, bày trận đón địch. Tôn Quan nhận được tin tức Ngô quân lại hạ trại, bày trận nghênh chiến, hắn cười cười, lập tức mệnh lệnh cho quân lui về. Trình Phổ thấy vậy, chúng lui thì ta lại đi. Ngô quân vừa động, Tôn Quan lại cho quân đuổi theo. Lúc Trình Phổ dừng, hắn lại lui về, cứ thế qua lại ba lượt. Trình Phổ thật không còn cách nào. Đi một chút lại ngừng, hai ngày sau, Ngô quân mới lui cách Quảng Lăng hơn ba mươi dặm, Tôn Quan vẫn theo bám như gần như xa, mà đại quân Hàn Hạo, Cao Thuận đã tới nơi. Tào quân hai đội hợp quân, đại quân trực tiếp truy kích Ngô quân, cùng Ngô quân giằng co ở Bát Kiều trấn cách thành Quảng Lăng bốn mươi dặm, ba vạn đấu với bốn vạn, một hồi đại chiến sắp bắt đầu.
Trình Phổ mặc dù không có trí tuệ của Chu Du và năng lực của Tôn Sách, nhưng nhiều năm chinh chiến, khả năng thực chiến của ông ta vẫn rất mạnh, đối mặt với đội quân có khí thế vượt trội, nhân số lại không chênh lệch nhiều, ông ta cắn răng, hạ quyết tâm, mệnh lệnh cho Chu Thái cùng Hoàng Cái suất lĩnh một vạn người bày thế trận phòng thủ ở nơi đóng quân, tạo ra nhiều công sự phòng thủ, dựng hàng rào, đào chiến hào ở vùng đất nằm giữa hai quân tạo ra một phòng tuyến, kéo dài thời gian tấn công của Tào quân; lại lệnh cho Chu Trị, Hàn Đương dẫn năm ngàn người ngựa hành quân gấp đêm ngày, nhanh chóng qua sông chuẩn bị thuyền, đợi tiếp ứng đại quân lui về Đan Đồ; ông ta tự mình mang đội trung quân đêm đó khởi hành, vứt bỏ đồ quân nhu, lui về hướng bờ sông, trước tiên bảo toàn thực lực đã! Hôm ấy vào lúc sáng sớm khi ánh mặt trời bắt đầu chiếu rọi chiến trường giữa hai bên, Cao Thuận nhìn trận địa phòng thủ sẵn sàng nghênh chiến trước mặt, cũng không vội vàng phát động tấn công, săn thú cũng phải chọn thời cơ tốt mới có thể thu được hiệu quả cao nhất. Qua hơn nửa ngày, tới buổi chiều, Cao Thuận suy tính cẩn thận cuối cùng khẳng định đại quân Trình Phổ đã rút lui, hắn thương lượng với Hàn Hạo, Tôn Quan một chút vấn đề đánh hay không đánh: đánh nhất định có thể diệt được binh lực đối phương để lại đây, nhưng mà, ban đầu bên mình phòng thủ, đã giết rất nhiều quân Ngô, cũng là chuyện đã qua, lúc này bên mình chiếm ưu thế, lại giết quân Ngô, sẽ có khả năng hai bên trở mặt, về sau sẽ bất lợi với việc lui tới cùng Giang Đông, Cao Thuận cùng Hàn Hạo hiểu rõ chính sách xa thân gần đánh của Tòa Tháo, lỡ như chọc giận Giang Đông, đối với việc thống nhất phương Bắc của chủ công sẽ tạo ra không ít phiền toái, huống hồ, Tôn Sách sống chết chưa rõ, binh lực của mình cũng không thể qua sông; nếu như không đánh, đợi lúc Giang Đông phục hồi lại tới, đối với Quảng Lăng cũng gây ra phiền toái không nhỏ.
Thương lượng cả nửa ngày, màn đêm buông xuống bọn họ mới thống nhất được, thả cho đại quân Trình Phổ trở về, diệt đám quân tại đây, cũng đủ khiến Ngô quân thương cân động cốt, trong ngắn hạn không thể lại dấy binh, ít ra trước khi đại chiến Viên Tào kết thúc, Ngô quân không thể đem binh tới Quảng Lăng. Cao Thuận hạ lệnh, ngày mai theo kế hoạch phát động tấn công, không cần nương tay với Ngô quân, nhưng tận lực không giết đại tướng địch. Lệnh truy sát khiến ánh trăng trong đêm như nhuộm một màu đỏ, giống như biết trước ngày mai máu sẽ thấm đỏ cả vùng đất mình đang chiếu xuống.
Vào lúc chính ngọ khi mặt trời nóng bỏng thiêu đốt mặt đất, Tào quân phát động tấn công ào ạt vào trận địa Ngô quân. Có điều hoàn toàn không giống tưởng tượng của đám người Hoàng Cái, Tào quân lại dùng bộ binh để tấn công trước, hơn nữa mục đích tấn công lại… Quản Hợi tuy rằng không huấn luyện binh sĩ, nhưng dùng phương pháp tuyển tinh binh của ta nên quân của hắn mạnh hơn Ngô quân, chỉnh tề kéo tới, khí thế có hương vị ép người. Đối mặt với tầng tầng lớp lớp khiên chắn của Tào quân đẩy tới, cung tên của Ngô quân mất đi tác dụng, Hoàng Cái đành trơ mắt nhìn Tào quân vượt qua hai lớp chiến hào bên ngoài quân doanh, sau đó bộ binh theo sát ép tới. Rất nhanh, cung tên của Tào quân từ không trung trút xuống như mưa, một nửa trong số đó là hỏa tiễn, quân doanh Ngô quân bắt lửa cháy rực. Hoàng Cái cùng Chu Thái một mặt lệnh binh sĩ dùng hết sức cứu hỏa, một mặt phân bố đại bộ phận quân sĩ dùng cung tiễn canh giữ ở hàng rào bảo vệ, đề phòng kỵ binh Tào quân ập tới.
Có điều, Tào quân dường như không vội tấn công, chỉ lấp đầy chiến hào, đốt hết một phần doanh trại Ngô quân rồi rút về, chuyển nơi đóng quân tới gần trại Ngô quân thêm ngàn bước. Nhìn Tào quân ở đối diện hạ trại, Hoàng Cái cùng Chu Thái đưa mắt nhìn nhau, không hiểu được Tào quân muốn làm gì. Có điều, nếu Tào quân không vội tấn công, bọn họ cũng muốn kéo dài thời gian, để đại quân rút lui an toàn, Tào quân đã hành động như vậy thì cứ làm theo thôi.
Đêm hôm đó, Cao Thuận lệnh trong quân lại phát động công kích giống như ban ngày, dùng hỏa lực tấn công, quân doanh dịch gần Ngô quân thêm năm trăm bước, khiến Hoàng Cái càng không hiểu gì. Đáng tiếc Trình Phổ, Chu Du đều không ở đây, chiến thuật trấn áp tâm lý này bọn họ liếc mắt là nhận ra. Tới hừng đông, Tào quân lại tiến gần thêm năm trăm bước nữa, hai quân chỉ còn cách nhau năm trăm bước. Tào quân không tấn công, mà xếp hàng chỉnh tề đối diện với Ngô quân, toàn quân không có một chút âm thanh nào, càng thể hiện khí phách uy nghiêm trong quân, một cỗ khí tức cương liệt mạnh mẽ áp tới Ngô quân.
Ngô quân thấy khí thế bức người của Tào quân, không ít người bắp chân bắt đầu run rẩy, tâm lý đã gần như suy sụp. Lại nói, Hàn Hạo vẫn để tâm giải mã ý đồ của Cao Thuận, mà Tôn Quan cũng giống như Hoàng Cái, không hiểu cách làm của Cao Thuận. Lúc hắn hỏi, Cao Thuận cười: “Có người nói cho ta biết, chiến thuật mạnh nhất trên chiến trường là bất chiến tự nhiên thành.” Người hắn nói dĩ nhiên là ta… Ta không thích giết chóc, đương nhiên trong lúc chuyện trò với các huynh đệ, thường xuyên nói câu này. Hôm nay, Cao Thuận lại dùng loại ý tưởng này, có điều, hắn mới nói được một nửa: trải qua một trận ở Quảng Lăng, uy danh của Hãm Trận Doanh từ nay về sau đã trở thành một bóng ma trong lòng quân Ngô, hiệu quả thật tốt.
Lúc này, nhìn Tào quân uy phong lẫm liệt trước mắt, Ngô quân không biết lai lịch Hãm Trận Doanh nên đem đội quân trước mắt toàn bộ trở thành Hãm Trận Doanh, tập kích hai lần, cơn ác mộng lại hiện lên trong đầu Ngô quân. Bởi vậy, lúc Cao Thuận giương cờ lệnh, trống trận rền vang, phòng tuyến tâm lý của đại bộ phận Ngô quân đều sụp đổ. Hoàng Cái và Chu Thái trên mặt xám như tro tàn, cũng hoàn toàn tuyệt vọng. Lúc kỵ binh Tào quân áp tới, trong tiếng la khóc, quân Ngô hoảng loạn thành đoàn, binh lính bắt đầu chạy trốn. Cũng không thể trách bọn họ, một là, bản thân không có thực lực, người đứng đầu sinh tử không rõ, bọn họ vốn đã mất đi khí thế; hai là, đại bộ phận binh lính đã đi trước, bọn họ là người bị hy sinh, đâu có ai muốn vứt bỏ tính mạng.
Nhưng mà bọn họ trốn không thoát cái chết của vận mệnh, muốn trách thì trách ông trời đem bọn họ bỏ vào thời loạn thế. Bọn họ không trốn còn có đường sống, vừa chạy ra khỏi quân doanh đã gặp phải Tào quân đã chờ một đêm, một hồi tàn sát bắt đầu. Lúc bọn họ mở to mắt không cam lòng ngã xuống, vẫn không tin mạng mình không đáng tới một chiêu, phạm vi vài dặm xung quanh chất đống hơn năm ngàn thi thể, khi dọn dẹp xong chỉ còn lại vết máu đỏ sẫm. Người đời sau gọi trận chiến Quảng Lăng năm Kiến An thứ năm là Bát Kiều huyết nhật, nơi mai táng hài cốt năm ngàn Ngô quân gọi là Huyết mộ, Hãm Trận Doanh cũng bị binh lính Giang Đông gọi là Huyết Sát quân.
Lúc kỵ binh Tào quân đứng ngoài cửa doanh Ngô quân, trong đại doanh ngoại trừ thân binh bảo vệ Hoàng Cái, Chu Thái ở trong doanh, bên ngoài chỉ còn không tới hai ngàn binh sĩ xếp thành hàng đợi chết. Cao Thuận cùng Hàn Hạo đứng đối diện với quân Hoàng Cái, Chu Thái. Cao Thuận một thân giáp trụ màu đen, khuôn mặt kiên nghị ngẩng cao, sắc mặt bình tĩnh khiến trong lòng Ngô quân nổi lên lòng kính sợ; Hàn Hạo khuôn mặt mỉm cười, giáp trụ màu xanh trên người hắn lại có sắc lạnh như băng, nhưng vẫn nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Đối mặt với việc quân mình đã đại bại, với tên đầu sỏ khiến chủ công của mình sống chết không biết, Hoàng Cái và Chu Thái trong lòng lại không hề có oán hận, lại sinh thêm phần kính nể.
Một lúc lâu sau, Hàn Hạo mỉm cười: “Xin hỏi đại danh hai vị tướng quân?” Hoàng Cái nhìn Chu Thái, hai người cười khổ, Hoàng Cái cất lời: “Tại hạ Hoàng Cái, người bên cạnh là tướng quân Chu Thái. Thỉnh giáo tên hai vị tướng quân?” Hàn Hạo gật đầu: “Tại hạ Hàn Hạo, vị này là tướng quân Cao Thuận, ở ngoài kia là tướng quân Tôn Quan.” Hoàng Cái thở dài: “Từng nghe danh Hãm Trận Doanh, hôm nay có thể chết trong tay tướng quân, chúng ta coi như không oan.” Cao Thuận chỉ cười cười, không nói lời nào. Hàn Hạo nói: “Hai vị tướng quân bảo vệ đại quân rút lui, cam nguyện đứng nơi hiểm địa, chúng ta với hai vị cũng vạn phần kính nể. Đối với người trung thành như vậy, chúng ta làm sao có thể xuống tay? Nếu như tướng quân có thể ra lệnh thủ hạ bỏ vũ khí, tất cả người trong quân doanh đều có thể đi, thế nào?”
Hoàng Cái và Chu Thái không tin vào lỗ tai mình, ngẩn người nhìn nhau, Chu Thái lớn tiếng hỏi: “Vì sao? Nếu thật sự muốn thả chúng ta đi, cần gì phải bắt bọn ta bỏ binh khí?” Cao Thuận lắc đầu: “Chúng ta nói sẽ giữ lời.” Hàn Hạo vẫn cười: “Chẳng lẽ tướng quân không nghe tiếng hò hét bên ngoài sao? Tôn tướng quân ngoài kia đang chặn đường đuổi giết binh sĩ bỏ chạy, chúng ta đã hạ lệnh trong quân, không giết người không mang vũ khí. Cho nên các người chỉ có bỏ lại binh khí mới có thể an toàn rời đi, nếu không, chỉ có thể ủy khuất hai vị tướng quân làm tù binh, nhưng chúng ta không muốn vũ nhục các vị. Đương nhiên, hai vị tướng quân có thể giữ lại vũ khí của mình, thế nào?”
Hoàng Cái và Chu Thái nghe tiếng kêu thảm thiết bên ngoài, hiểu rõ Hàn Hạo nói thật, nhưng mà, chưa chiến đấu đã buông vũ khí, đây cũng là một loại nhục nhã! Thương lượng với nhau một chút, Hoàng Cái cùng Chu Thái từ trong đám quân bước ra, Hoàng Cái nói: “Muốn chúng ta bỏ binh khí cũng được, có điều chúng ta muốn lĩnh giáo võ nghệ hai vị tướng quân.” Nói xong, Hoàng Cái nhìn Cao Thuận, Chu Thái nhìn Hàn Hạo. Cao Thuận nhìn Hàn Hạo, Hàn Hạo gật đầu, vì thế Cao Thuận nói với Hoàng Cái: “Cao Thuận đồng ý với tướng quân.” Bên kia, Hàn Hạo cũng cười với Chu Thái: “Hạo đồng ý đấu một trận với tướng quân.” Hai người đồng thời phất tay, Tào quân nhất tề lui về phía sau trăm bước, ở giữa hai quân bày ra một khoảng đất trống. Hoàng Cái thở dài: “Trận chiến này bất luận sống hay chết đều kính hai vị tướng quân, còn có một thỉnh cầu, mong tướng quân đáp ứng.” Cao Thuận nói: “Bất luận ngài sống hay chết, đám người đó chúng tôi đều không giết.” Hoàng Cái cười lớn: “Cái tin tưởng tướng quân. Điều ta thỉnh cầu là nếu có chết, mong được toàn thây trở về Giang Đông.” Cao Thuận gật đầu: “Cứ theo lời tướng quân, sẽ phái người đưa tiễn.” “Vậy xin đa tạ.”
Lại nói, Trình Phổ thật sự không nên để lại Hoàng Cái, Chu Thái cản phía sau, công phu của Hoàng Cái dưới nước có thể nói là hạng nhất, nhưng công phu trên ngựa còn kém xa, làm sao trở thành đối thủ của Cao Thuận? Chu Thái cho dù mạnh hơn Hoàng Cái một chút, nhưng cũng không thể chống lại được Hàn Hạo. Biết rõ kết quả như vậy, hai người vẫn bắt buộc phải liều mạng, Cao Thuận và Hàn Hạo cũng bội phục hai người. Hoàng Cái cùng Chu Thái muốn liều mạng, Cao Thuận và Hàn Hạo cũng không cho họ cơ hội, vốn không muốn giết bọn họ. Cao Thuận nhìn Hoàng Cái trên đầu tóc đã có sợ bạc, thực sự có lòng kính trọng người già, cơ bản không dốc toàn lực, mỗi chiêu đều đánh tới là dừng, cùng Hoàng Cái đánh tới hơn sáu mươi hiệp vẫn chưa xong; Hàn Hạo tuy luôn cười, nhưng hạ thủ không nương tay, đánh với Chu Thái ba mươi hiệp, một đao quét hắn rơi xuống ngựa. Trận chiến bên kia đã sớm xong, bên này hãy còn đấu, nhìn Hoàng Cái không biết tiến thoái trước mặt, Cao Thuận nghĩ thầm, ngươi không thể cậy già mà lên mặt như vậy chứ, tuy rằng ta không đành lòng, nhưng ngươi không dừng tay, ta cũng chỉ có thể khiến ngươi trở nên khó coi. Thở dài một tiếng, trường thương trên tay hắn quét ngang, Hoàng Cái không cam lòng ngã khỏi ngựa.
Nhìn Hoàng Cái, Chu Thái đứng trên mặt đất, Cao Thuận lạnh nhạt nói: “Hai vị tướng quân mời trở về đi! Nếu không phục, Thanh An xin chờ ở Thọ Xuân.” Hoàng Cái thở dài: “Cao tướng quân, Cái thua tâm phục khẩu phục, ai nấy đều vì chủ của mình, nếu ngày sau còn có lúc gặp lại, Cái vẫn muốn tiếp tục đấu.” Cao Thuận gật đầu không nói gì, Hàn Hạo cười lớn: “Hai vị tướng quân trở về nói với chủ mình, hai nhà vốn không xâm phạm lẫn nhau, sao cứ phải tới gây tổn thương hòa khí? Chúng ta cũng không muốn coi các người là địch.” Chu Thái gật đầu: “Chúng ta sẽ chuyển lời cho tướng quân, sau này còn gặp lại.” Hoàng Cái trở lại trong doanh, lệnh cho binh sĩ buông vũ khí, chậm rãi mà đi. Tào quân quả nhiên không làm khó bọn họ. Những binh sĩ Ngô quân chạy trốn từ trước, đại bộ phận đều mất mạng, đau lòng bỏ thây nơi đất khách.
Ba ngày sau Hoàng Cái cùng hai ngàn binh sĩ gặp lại đại quân đang chờ vượt sông. Lúc Trình Phổ hạ quyết tâm để Hoàng Cái cùng Chu Thái ở lại phía sau, trong lòng khó hình dung cảm giác khó khăn thế nào, đã là chiến hữu nhiều năm, nếu có thể lựa chọn, ông ta tình nguyện người ở lại là mình, người mặc dù lui về sau, ánh mắt vẫn luôn quay lại nhìn. Lúc ông ta đứng trên bờ Trường Giang nhìn thấy Hoàng Cái và Chu Thái, đã không nhịn được tình cảm trong lòng, chạy tới nghênh đón, ba người nắm chặt tay, trong nhất thời không ai nói nên lời. Đợi lúc lên thuyền, Hoàng Cái đem mọi chuyện kể lại một lần, rồi thở dài nói: “Cao Thanh An này thật lợi hại, chẳng trách có thể trở thành đại tướng của Lữ Bố, lòng dạ cũng khoáng đạt, Cái thật sự phục người này. Mà Hàn Hạo kia cũng có phong độ nho tướng!” Chu Thái ở bên cạnh gật đầu. Trình Phổ lại nghĩ sự việc ở khía cạnh khác: “Không biết bọn Công Cẩn đã tìm được chủ công chưa? Giang Bắc có tướng lĩnh như Cao Thuận trấn giữ, chúng ta muốn bắc thượng thật khó! Một trận chiến này, thua vẫn là thua, Cao Thuận đáng sợ ở chỗ, từ nay về sau, quân ta cho dù có chủ công chống giữ, trước mặt Hãm Trận Doanh của Cao Thuận vẫn sẽ mất đi ý chí chiến đấu, đúng là một kẻ giỏi tâm lý chiến.” Tất cả mọi người đều lâm vào trầm mặc.
Trận chiến Quảng Lăng như vậy là chấm dứt. Công thành hai nơi, ba nơi thành chiến địa, quân Ngô xuất chinh tổn thất một phần ba binh mã, chủ soái mất tích, đành lui về phía nam Trường Giang. Quảng Lăng tiếp tục đứng sừng sững bên bờ bắc Trường Giang như trước, mà thành Thọ Xuân trải qua trận chiến này, lấy tư thế người chiến thắng ngạo nghễ đứng thẳng nơi yết hầu bắc thượng của quân Ngô. Gần mười năm qua, thói quen ăn đắng nuốt cay, quen với thất bại của quân dân Thọ Xuân dưới tay Viên Thuật, qua một trận này, cuối cùng cũng ngẩy cao đầu, có thể tự hào kể chuyện mình trung dũng anh hùng ở Hu Dị bảo vệ thành trì ra sao, dân chúng Dương châu từ nay đã không còn yếu đuối nữa. Thần thoại về Cao Thuận và Hãm Trận Doanh của hắn từ lúc này cũng bắt đầu lưu truyền, cái tên Cao Thuận vĩnh viễn trở thành cơn ác mộng trong lòng quân sĩ Giang Đông.
Tào Tháo ở Quan Độ xa xôi nhận được tin chiến báo, thở dài nhẹ nhõm. Ông ta biết, qua trận chiến ở Quảng Lăng này, con dao nhỏ sau lưng mình mặc dù chưa bị bẻ gãy hoàn toàn, nhưng coi như sứt mẻ loang lổ, muốn lại đưa quân tới, không thể không mất thêm vài năm nữa. Mà phòng tuyến Thọ Xuân – Quảng Lăng coi như hoàn toàn đứng vững, Tôn Sách, con mãnh thú như ngươi sẽ bị rào chắn Quảng Lăng – Thọ Xuân chặn lại ở bờ nam Trường Giang, đợi ta lấy được phương bắc xong, chúng ta sẽ quyết đấu! Anh hùng quyết chiến, khiến bao nhiêu người mong đợi!
Chu Du cố kiềm chế, trừng đôi mắt đỏ ngầu nhìn Hàn Đương chậm rãi hỏi: “Trong quân sĩ có ai biết tình hình của chủ công không? Các ngươi đã hỏi qua chưa?” Hàn Đương khóc rống lên: “Hỏi rồi, đều đã hỏi, toàn bộ binh lính chủ công đem ra ngoài nghênh địch đều bị giết, không ai trở về. Có điều, trên đường đi chúng tôi cũng không nghe được tin tức của chủ công.” Chu Du sắc mặt tái xanh, cúi đầu nghĩ một lát, rồi nhìn Trình Phổ nói: “Đô đốc, ngài giữ ở đây, tôi tự dẫn người đi tìm chủ công, không có tin tức nghĩa là tin tốt, nếu không, Tào quân sớm đã ào tới, không lý nào bỏ qua cơ hội tốt như vậy.” Trình Phổ lắc đầu: “Không, ngươi ở lại, ta dẫn người đi.”
Chu Du lần đầu tiên mất khống chế trước mặt Trình Phổ, lạnh lùng nói: “Lão tướng quân, tung tích Bá Phù không rõ, ngài bây giờ là chủ soái tam quân, lần này là đi vào bên trong lòng địch, không phải đi theo một đội quân lớn, mà là cải trang tìm người, ngài làm sao có thể mạo hiểm. Coi giữ đạo quân này mới là quan trọng!” Hàn Đương lập tức nói: “Tôi đi với ngài.” Chu Du lắc đầu: “Ngươi cùng Lữ tướng quân ở lại đây, các người đều bị thương, nếu ta đoán không lầm, sắp tới còn một hồi đại chiến.” Nhìn thái độ của Chu Du, mọi người không nói gì nữa, Trình Phổ cũng chỉ biết gật đầu.
Trước khi đi, Chu Du nói với Trình Phổ: “Quân ta đại bại, chủ công không có mặt, nhân tâm không ổn định, lỡ như có chuyện gì, lão tướng quân hãy mang binh trở về Khúc A đi! Xem ra Tào Tháo rất coi trọng nơi này, tướng lĩnh đều không tầm thường, tin tình báo của chúng ta không được chính xác. Ta đoán Tào quân còn có động thái khác, ngàn vạn lần phải cẩn thận.” Trình Phổ suy tính: “Vậy ta ở đây đợi ngươi mười ngày, mười ngày sau không có tin tức các người, ta sẽ lui binh.” Chu Du gật đầu, mang theo Chu Trị cùng hơn trăm người rời đi.
Chu Du tính không sai chút nào, Tào quân quả thật không dễ dàng cảm thấy thỏa mãn. Ngày thứ tư sau khi Chu Du đi, Trình Phổ nhận được tin thám báo, Cao Thuận cùng Hàn Hạo tự mình dẫn một vạn năm ngàn binh hướng tới Quảng Lăng. Trình Phổ tuy rằng nắm trong tay bốn vạn đại quân, nhưng lại ứa mồ hôi lạnh. Ông ta từ chỗ Hàn Hạo, Lữ Phạm đã hiểu rõ lợi hại của Hãm Trận Doanh, binh sĩ của mình chỉ sợ không phải đối thủ của một vạn năm ngàn người kia, còn chưa nói trong thành Quảng Lăng, Trần Đăng có tới hai vạn binh, nếu hai mặt giáp công, bản thân mình căn bản không thể chống đỡ được.
Sau khi triệu tập chúng tướng thảo luận một phen, Trình Phổ lệnh cho đại quân từ từ rút khỏi ngoại thành Quảng Lăng, lui về Đan Đồ. Thấy đại quân ngoài thành nhổ trại rút lui, Trần Đăng suy nghĩ cả nửa canh giờ, rồi hỏi ý kiến Tôn Quan: “Tôn tướng quân, xem ra Thọ Xuân đã có chiến báo, Ngô quân muốn rút lui, ông thấy…” Tôn Quan sảng khoái nói: “Ý tứ đại nhân là phái Quan đem quân rời thành công kích Ngô quân? Tôi chính là có ý đó.” Trần Đăng gật đầu. Tôn Quan lập tức hạ lệnh tập kết một vạn hai ngàn người, ra khỏi thành tập kích Ngô quân.
Trình Phổ thấy Tào quân từ trong thành tiến ra, trong lòng cực kỳ tức giận, vây khốn tấn công hai mươi ngày, lúc nào cũng đóng cổng không ra, giờ bỗng nhiên lại tới công kích, quả thật là thừa dịp cháy nhà ra hôi của, để ta xem Trần Đăng ngươi có bản lĩnh này không? Ngươi đã muốn tới, ta sẽ diệt ngươi trước, không bằng Hãm Trận Doanh, lại không hạ được ngươi sao? Cho nên, ông ta dứt khoát hạ lệnh cho đại quân dừng lui binh, bày trận đón địch. Tôn Quan nhận được tin tức Ngô quân lại hạ trại, bày trận nghênh chiến, hắn cười cười, lập tức mệnh lệnh cho quân lui về. Trình Phổ thấy vậy, chúng lui thì ta lại đi. Ngô quân vừa động, Tôn Quan lại cho quân đuổi theo. Lúc Trình Phổ dừng, hắn lại lui về, cứ thế qua lại ba lượt. Trình Phổ thật không còn cách nào. Đi một chút lại ngừng, hai ngày sau, Ngô quân mới lui cách Quảng Lăng hơn ba mươi dặm, Tôn Quan vẫn theo bám như gần như xa, mà đại quân Hàn Hạo, Cao Thuận đã tới nơi. Tào quân hai đội hợp quân, đại quân trực tiếp truy kích Ngô quân, cùng Ngô quân giằng co ở Bát Kiều trấn cách thành Quảng Lăng bốn mươi dặm, ba vạn đấu với bốn vạn, một hồi đại chiến sắp bắt đầu.
Trình Phổ mặc dù không có trí tuệ của Chu Du và năng lực của Tôn Sách, nhưng nhiều năm chinh chiến, khả năng thực chiến của ông ta vẫn rất mạnh, đối mặt với đội quân có khí thế vượt trội, nhân số lại không chênh lệch nhiều, ông ta cắn răng, hạ quyết tâm, mệnh lệnh cho Chu Thái cùng Hoàng Cái suất lĩnh một vạn người bày thế trận phòng thủ ở nơi đóng quân, tạo ra nhiều công sự phòng thủ, dựng hàng rào, đào chiến hào ở vùng đất nằm giữa hai quân tạo ra một phòng tuyến, kéo dài thời gian tấn công của Tào quân; lại lệnh cho Chu Trị, Hàn Đương dẫn năm ngàn người ngựa hành quân gấp đêm ngày, nhanh chóng qua sông chuẩn bị thuyền, đợi tiếp ứng đại quân lui về Đan Đồ; ông ta tự mình mang đội trung quân đêm đó khởi hành, vứt bỏ đồ quân nhu, lui về hướng bờ sông, trước tiên bảo toàn thực lực đã! Hôm ấy vào lúc sáng sớm khi ánh mặt trời bắt đầu chiếu rọi chiến trường giữa hai bên, Cao Thuận nhìn trận địa phòng thủ sẵn sàng nghênh chiến trước mặt, cũng không vội vàng phát động tấn công, săn thú cũng phải chọn thời cơ tốt mới có thể thu được hiệu quả cao nhất. Qua hơn nửa ngày, tới buổi chiều, Cao Thuận suy tính cẩn thận cuối cùng khẳng định đại quân Trình Phổ đã rút lui, hắn thương lượng với Hàn Hạo, Tôn Quan một chút vấn đề đánh hay không đánh: đánh nhất định có thể diệt được binh lực đối phương để lại đây, nhưng mà, ban đầu bên mình phòng thủ, đã giết rất nhiều quân Ngô, cũng là chuyện đã qua, lúc này bên mình chiếm ưu thế, lại giết quân Ngô, sẽ có khả năng hai bên trở mặt, về sau sẽ bất lợi với việc lui tới cùng Giang Đông, Cao Thuận cùng Hàn Hạo hiểu rõ chính sách xa thân gần đánh của Tòa Tháo, lỡ như chọc giận Giang Đông, đối với việc thống nhất phương Bắc của chủ công sẽ tạo ra không ít phiền toái, huống hồ, Tôn Sách sống chết chưa rõ, binh lực của mình cũng không thể qua sông; nếu như không đánh, đợi lúc Giang Đông phục hồi lại tới, đối với Quảng Lăng cũng gây ra phiền toái không nhỏ.
Thương lượng cả nửa ngày, màn đêm buông xuống bọn họ mới thống nhất được, thả cho đại quân Trình Phổ trở về, diệt đám quân tại đây, cũng đủ khiến Ngô quân thương cân động cốt, trong ngắn hạn không thể lại dấy binh, ít ra trước khi đại chiến Viên Tào kết thúc, Ngô quân không thể đem binh tới Quảng Lăng. Cao Thuận hạ lệnh, ngày mai theo kế hoạch phát động tấn công, không cần nương tay với Ngô quân, nhưng tận lực không giết đại tướng địch. Lệnh truy sát khiến ánh trăng trong đêm như nhuộm một màu đỏ, giống như biết trước ngày mai máu sẽ thấm đỏ cả vùng đất mình đang chiếu xuống.
Vào lúc chính ngọ khi mặt trời nóng bỏng thiêu đốt mặt đất, Tào quân phát động tấn công ào ạt vào trận địa Ngô quân. Có điều hoàn toàn không giống tưởng tượng của đám người Hoàng Cái, Tào quân lại dùng bộ binh để tấn công trước, hơn nữa mục đích tấn công lại… Quản Hợi tuy rằng không huấn luyện binh sĩ, nhưng dùng phương pháp tuyển tinh binh của ta nên quân của hắn mạnh hơn Ngô quân, chỉnh tề kéo tới, khí thế có hương vị ép người. Đối mặt với tầng tầng lớp lớp khiên chắn của Tào quân đẩy tới, cung tên của Ngô quân mất đi tác dụng, Hoàng Cái đành trơ mắt nhìn Tào quân vượt qua hai lớp chiến hào bên ngoài quân doanh, sau đó bộ binh theo sát ép tới. Rất nhanh, cung tên của Tào quân từ không trung trút xuống như mưa, một nửa trong số đó là hỏa tiễn, quân doanh Ngô quân bắt lửa cháy rực. Hoàng Cái cùng Chu Thái một mặt lệnh binh sĩ dùng hết sức cứu hỏa, một mặt phân bố đại bộ phận quân sĩ dùng cung tiễn canh giữ ở hàng rào bảo vệ, đề phòng kỵ binh Tào quân ập tới.
Có điều, Tào quân dường như không vội tấn công, chỉ lấp đầy chiến hào, đốt hết một phần doanh trại Ngô quân rồi rút về, chuyển nơi đóng quân tới gần trại Ngô quân thêm ngàn bước. Nhìn Tào quân ở đối diện hạ trại, Hoàng Cái cùng Chu Thái đưa mắt nhìn nhau, không hiểu được Tào quân muốn làm gì. Có điều, nếu Tào quân không vội tấn công, bọn họ cũng muốn kéo dài thời gian, để đại quân rút lui an toàn, Tào quân đã hành động như vậy thì cứ làm theo thôi.
Đêm hôm đó, Cao Thuận lệnh trong quân lại phát động công kích giống như ban ngày, dùng hỏa lực tấn công, quân doanh dịch gần Ngô quân thêm năm trăm bước, khiến Hoàng Cái càng không hiểu gì. Đáng tiếc Trình Phổ, Chu Du đều không ở đây, chiến thuật trấn áp tâm lý này bọn họ liếc mắt là nhận ra. Tới hừng đông, Tào quân lại tiến gần thêm năm trăm bước nữa, hai quân chỉ còn cách nhau năm trăm bước. Tào quân không tấn công, mà xếp hàng chỉnh tề đối diện với Ngô quân, toàn quân không có một chút âm thanh nào, càng thể hiện khí phách uy nghiêm trong quân, một cỗ khí tức cương liệt mạnh mẽ áp tới Ngô quân.
Ngô quân thấy khí thế bức người của Tào quân, không ít người bắp chân bắt đầu run rẩy, tâm lý đã gần như suy sụp. Lại nói, Hàn Hạo vẫn để tâm giải mã ý đồ của Cao Thuận, mà Tôn Quan cũng giống như Hoàng Cái, không hiểu cách làm của Cao Thuận. Lúc hắn hỏi, Cao Thuận cười: “Có người nói cho ta biết, chiến thuật mạnh nhất trên chiến trường là bất chiến tự nhiên thành.” Người hắn nói dĩ nhiên là ta… Ta không thích giết chóc, đương nhiên trong lúc chuyện trò với các huynh đệ, thường xuyên nói câu này. Hôm nay, Cao Thuận lại dùng loại ý tưởng này, có điều, hắn mới nói được một nửa: trải qua một trận ở Quảng Lăng, uy danh của Hãm Trận Doanh từ nay về sau đã trở thành một bóng ma trong lòng quân Ngô, hiệu quả thật tốt.
Lúc này, nhìn Tào quân uy phong lẫm liệt trước mắt, Ngô quân không biết lai lịch Hãm Trận Doanh nên đem đội quân trước mắt toàn bộ trở thành Hãm Trận Doanh, tập kích hai lần, cơn ác mộng lại hiện lên trong đầu Ngô quân. Bởi vậy, lúc Cao Thuận giương cờ lệnh, trống trận rền vang, phòng tuyến tâm lý của đại bộ phận Ngô quân đều sụp đổ. Hoàng Cái và Chu Thái trên mặt xám như tro tàn, cũng hoàn toàn tuyệt vọng. Lúc kỵ binh Tào quân áp tới, trong tiếng la khóc, quân Ngô hoảng loạn thành đoàn, binh lính bắt đầu chạy trốn. Cũng không thể trách bọn họ, một là, bản thân không có thực lực, người đứng đầu sinh tử không rõ, bọn họ vốn đã mất đi khí thế; hai là, đại bộ phận binh lính đã đi trước, bọn họ là người bị hy sinh, đâu có ai muốn vứt bỏ tính mạng.
Nhưng mà bọn họ trốn không thoát cái chết của vận mệnh, muốn trách thì trách ông trời đem bọn họ bỏ vào thời loạn thế. Bọn họ không trốn còn có đường sống, vừa chạy ra khỏi quân doanh đã gặp phải Tào quân đã chờ một đêm, một hồi tàn sát bắt đầu. Lúc bọn họ mở to mắt không cam lòng ngã xuống, vẫn không tin mạng mình không đáng tới một chiêu, phạm vi vài dặm xung quanh chất đống hơn năm ngàn thi thể, khi dọn dẹp xong chỉ còn lại vết máu đỏ sẫm. Người đời sau gọi trận chiến Quảng Lăng năm Kiến An thứ năm là Bát Kiều huyết nhật, nơi mai táng hài cốt năm ngàn Ngô quân gọi là Huyết mộ, Hãm Trận Doanh cũng bị binh lính Giang Đông gọi là Huyết Sát quân.
Lúc kỵ binh Tào quân đứng ngoài cửa doanh Ngô quân, trong đại doanh ngoại trừ thân binh bảo vệ Hoàng Cái, Chu Thái ở trong doanh, bên ngoài chỉ còn không tới hai ngàn binh sĩ xếp thành hàng đợi chết. Cao Thuận cùng Hàn Hạo đứng đối diện với quân Hoàng Cái, Chu Thái. Cao Thuận một thân giáp trụ màu đen, khuôn mặt kiên nghị ngẩng cao, sắc mặt bình tĩnh khiến trong lòng Ngô quân nổi lên lòng kính sợ; Hàn Hạo khuôn mặt mỉm cười, giáp trụ màu xanh trên người hắn lại có sắc lạnh như băng, nhưng vẫn nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Đối mặt với việc quân mình đã đại bại, với tên đầu sỏ khiến chủ công của mình sống chết không biết, Hoàng Cái và Chu Thái trong lòng lại không hề có oán hận, lại sinh thêm phần kính nể.
Một lúc lâu sau, Hàn Hạo mỉm cười: “Xin hỏi đại danh hai vị tướng quân?” Hoàng Cái nhìn Chu Thái, hai người cười khổ, Hoàng Cái cất lời: “Tại hạ Hoàng Cái, người bên cạnh là tướng quân Chu Thái. Thỉnh giáo tên hai vị tướng quân?” Hàn Hạo gật đầu: “Tại hạ Hàn Hạo, vị này là tướng quân Cao Thuận, ở ngoài kia là tướng quân Tôn Quan.” Hoàng Cái thở dài: “Từng nghe danh Hãm Trận Doanh, hôm nay có thể chết trong tay tướng quân, chúng ta coi như không oan.” Cao Thuận chỉ cười cười, không nói lời nào. Hàn Hạo nói: “Hai vị tướng quân bảo vệ đại quân rút lui, cam nguyện đứng nơi hiểm địa, chúng ta với hai vị cũng vạn phần kính nể. Đối với người trung thành như vậy, chúng ta làm sao có thể xuống tay? Nếu như tướng quân có thể ra lệnh thủ hạ bỏ vũ khí, tất cả người trong quân doanh đều có thể đi, thế nào?”
Hoàng Cái và Chu Thái không tin vào lỗ tai mình, ngẩn người nhìn nhau, Chu Thái lớn tiếng hỏi: “Vì sao? Nếu thật sự muốn thả chúng ta đi, cần gì phải bắt bọn ta bỏ binh khí?” Cao Thuận lắc đầu: “Chúng ta nói sẽ giữ lời.” Hàn Hạo vẫn cười: “Chẳng lẽ tướng quân không nghe tiếng hò hét bên ngoài sao? Tôn tướng quân ngoài kia đang chặn đường đuổi giết binh sĩ bỏ chạy, chúng ta đã hạ lệnh trong quân, không giết người không mang vũ khí. Cho nên các người chỉ có bỏ lại binh khí mới có thể an toàn rời đi, nếu không, chỉ có thể ủy khuất hai vị tướng quân làm tù binh, nhưng chúng ta không muốn vũ nhục các vị. Đương nhiên, hai vị tướng quân có thể giữ lại vũ khí của mình, thế nào?”
Hoàng Cái và Chu Thái nghe tiếng kêu thảm thiết bên ngoài, hiểu rõ Hàn Hạo nói thật, nhưng mà, chưa chiến đấu đã buông vũ khí, đây cũng là một loại nhục nhã! Thương lượng với nhau một chút, Hoàng Cái cùng Chu Thái từ trong đám quân bước ra, Hoàng Cái nói: “Muốn chúng ta bỏ binh khí cũng được, có điều chúng ta muốn lĩnh giáo võ nghệ hai vị tướng quân.” Nói xong, Hoàng Cái nhìn Cao Thuận, Chu Thái nhìn Hàn Hạo. Cao Thuận nhìn Hàn Hạo, Hàn Hạo gật đầu, vì thế Cao Thuận nói với Hoàng Cái: “Cao Thuận đồng ý với tướng quân.” Bên kia, Hàn Hạo cũng cười với Chu Thái: “Hạo đồng ý đấu một trận với tướng quân.” Hai người đồng thời phất tay, Tào quân nhất tề lui về phía sau trăm bước, ở giữa hai quân bày ra một khoảng đất trống. Hoàng Cái thở dài: “Trận chiến này bất luận sống hay chết đều kính hai vị tướng quân, còn có một thỉnh cầu, mong tướng quân đáp ứng.” Cao Thuận nói: “Bất luận ngài sống hay chết, đám người đó chúng tôi đều không giết.” Hoàng Cái cười lớn: “Cái tin tưởng tướng quân. Điều ta thỉnh cầu là nếu có chết, mong được toàn thây trở về Giang Đông.” Cao Thuận gật đầu: “Cứ theo lời tướng quân, sẽ phái người đưa tiễn.” “Vậy xin đa tạ.”
Lại nói, Trình Phổ thật sự không nên để lại Hoàng Cái, Chu Thái cản phía sau, công phu của Hoàng Cái dưới nước có thể nói là hạng nhất, nhưng công phu trên ngựa còn kém xa, làm sao trở thành đối thủ của Cao Thuận? Chu Thái cho dù mạnh hơn Hoàng Cái một chút, nhưng cũng không thể chống lại được Hàn Hạo. Biết rõ kết quả như vậy, hai người vẫn bắt buộc phải liều mạng, Cao Thuận và Hàn Hạo cũng bội phục hai người. Hoàng Cái cùng Chu Thái muốn liều mạng, Cao Thuận và Hàn Hạo cũng không cho họ cơ hội, vốn không muốn giết bọn họ. Cao Thuận nhìn Hoàng Cái trên đầu tóc đã có sợ bạc, thực sự có lòng kính trọng người già, cơ bản không dốc toàn lực, mỗi chiêu đều đánh tới là dừng, cùng Hoàng Cái đánh tới hơn sáu mươi hiệp vẫn chưa xong; Hàn Hạo tuy luôn cười, nhưng hạ thủ không nương tay, đánh với Chu Thái ba mươi hiệp, một đao quét hắn rơi xuống ngựa. Trận chiến bên kia đã sớm xong, bên này hãy còn đấu, nhìn Hoàng Cái không biết tiến thoái trước mặt, Cao Thuận nghĩ thầm, ngươi không thể cậy già mà lên mặt như vậy chứ, tuy rằng ta không đành lòng, nhưng ngươi không dừng tay, ta cũng chỉ có thể khiến ngươi trở nên khó coi. Thở dài một tiếng, trường thương trên tay hắn quét ngang, Hoàng Cái không cam lòng ngã khỏi ngựa.
Nhìn Hoàng Cái, Chu Thái đứng trên mặt đất, Cao Thuận lạnh nhạt nói: “Hai vị tướng quân mời trở về đi! Nếu không phục, Thanh An xin chờ ở Thọ Xuân.” Hoàng Cái thở dài: “Cao tướng quân, Cái thua tâm phục khẩu phục, ai nấy đều vì chủ của mình, nếu ngày sau còn có lúc gặp lại, Cái vẫn muốn tiếp tục đấu.” Cao Thuận gật đầu không nói gì, Hàn Hạo cười lớn: “Hai vị tướng quân trở về nói với chủ mình, hai nhà vốn không xâm phạm lẫn nhau, sao cứ phải tới gây tổn thương hòa khí? Chúng ta cũng không muốn coi các người là địch.” Chu Thái gật đầu: “Chúng ta sẽ chuyển lời cho tướng quân, sau này còn gặp lại.” Hoàng Cái trở lại trong doanh, lệnh cho binh sĩ buông vũ khí, chậm rãi mà đi. Tào quân quả nhiên không làm khó bọn họ. Những binh sĩ Ngô quân chạy trốn từ trước, đại bộ phận đều mất mạng, đau lòng bỏ thây nơi đất khách.
Ba ngày sau Hoàng Cái cùng hai ngàn binh sĩ gặp lại đại quân đang chờ vượt sông. Lúc Trình Phổ hạ quyết tâm để Hoàng Cái cùng Chu Thái ở lại phía sau, trong lòng khó hình dung cảm giác khó khăn thế nào, đã là chiến hữu nhiều năm, nếu có thể lựa chọn, ông ta tình nguyện người ở lại là mình, người mặc dù lui về sau, ánh mắt vẫn luôn quay lại nhìn. Lúc ông ta đứng trên bờ Trường Giang nhìn thấy Hoàng Cái và Chu Thái, đã không nhịn được tình cảm trong lòng, chạy tới nghênh đón, ba người nắm chặt tay, trong nhất thời không ai nói nên lời. Đợi lúc lên thuyền, Hoàng Cái đem mọi chuyện kể lại một lần, rồi thở dài nói: “Cao Thanh An này thật lợi hại, chẳng trách có thể trở thành đại tướng của Lữ Bố, lòng dạ cũng khoáng đạt, Cái thật sự phục người này. Mà Hàn Hạo kia cũng có phong độ nho tướng!” Chu Thái ở bên cạnh gật đầu. Trình Phổ lại nghĩ sự việc ở khía cạnh khác: “Không biết bọn Công Cẩn đã tìm được chủ công chưa? Giang Bắc có tướng lĩnh như Cao Thuận trấn giữ, chúng ta muốn bắc thượng thật khó! Một trận chiến này, thua vẫn là thua, Cao Thuận đáng sợ ở chỗ, từ nay về sau, quân ta cho dù có chủ công chống giữ, trước mặt Hãm Trận Doanh của Cao Thuận vẫn sẽ mất đi ý chí chiến đấu, đúng là một kẻ giỏi tâm lý chiến.” Tất cả mọi người đều lâm vào trầm mặc.
Trận chiến Quảng Lăng như vậy là chấm dứt. Công thành hai nơi, ba nơi thành chiến địa, quân Ngô xuất chinh tổn thất một phần ba binh mã, chủ soái mất tích, đành lui về phía nam Trường Giang. Quảng Lăng tiếp tục đứng sừng sững bên bờ bắc Trường Giang như trước, mà thành Thọ Xuân trải qua trận chiến này, lấy tư thế người chiến thắng ngạo nghễ đứng thẳng nơi yết hầu bắc thượng của quân Ngô. Gần mười năm qua, thói quen ăn đắng nuốt cay, quen với thất bại của quân dân Thọ Xuân dưới tay Viên Thuật, qua một trận này, cuối cùng cũng ngẩy cao đầu, có thể tự hào kể chuyện mình trung dũng anh hùng ở Hu Dị bảo vệ thành trì ra sao, dân chúng Dương châu từ nay đã không còn yếu đuối nữa. Thần thoại về Cao Thuận và Hãm Trận Doanh của hắn từ lúc này cũng bắt đầu lưu truyền, cái tên Cao Thuận vĩnh viễn trở thành cơn ác mộng trong lòng quân sĩ Giang Đông.
Tào Tháo ở Quan Độ xa xôi nhận được tin chiến báo, thở dài nhẹ nhõm. Ông ta biết, qua trận chiến ở Quảng Lăng này, con dao nhỏ sau lưng mình mặc dù chưa bị bẻ gãy hoàn toàn, nhưng coi như sứt mẻ loang lổ, muốn lại đưa quân tới, không thể không mất thêm vài năm nữa. Mà phòng tuyến Thọ Xuân – Quảng Lăng coi như hoàn toàn đứng vững, Tôn Sách, con mãnh thú như ngươi sẽ bị rào chắn Quảng Lăng – Thọ Xuân chặn lại ở bờ nam Trường Giang, đợi ta lấy được phương bắc xong, chúng ta sẽ quyết đấu! Anh hùng quyết chiến, khiến bao nhiêu người mong đợi!
Danh sách chương