Ta cảm thấy từ lúc gặp Tần Liễm, sinh hoạt của ta giống như là miếng sườn dê trong chén cháo trắng thơm ngào ngạt, người khác sẽ cho rằng đó là đại phúc khí, giá trị chén cháo trắng chẳng những bỗng dưng tăng lên mà còn trở nên dinh dưỡng lại đầy mỹ vị. Nhưng mà bọn họ không biết, ta thích cháo trắng nhất, hơn nữa ta trời sinh là người lười biếng, mười mấy năm như mọi ngày, đều chỉ yêu cháo trắng, không thích thay đổi khẩu vị, mà quan trọng nhất là, ta mẫn cảm với thịt dê.
Nghe nói khi còn nhỏ lần đầu tiên ta ăn thịt dê, ban đêm liền sốt cao không giảm, gần như mất nửa cái mạng nhỏ. Lúc ấy Phụ hoàng giận dữ, thái y trong cung bởi vì cái cô công chúa tuổi nhỏ nhất lại cũng ốm yếu nhiều bệnh nhất này mà trong ngày đông lạnh lẽo bị bắt quỳ một đêm trên mặt đất lạnh như băng.
A Tịch nói, chờ sau khi ta lớn lên một chút, vào một buổi sáng biết được việc này, trong nháy mắt ta lại có hơi áy náy. Nhưng đến giữa trưa sau khi ăn no xong, sự áy náy của ta liền theo thức ăn tiêu hóa hết sạch, từ đó về sau ta liền kiên nhẫn mà kéo dài thái độ đối địch với nhóm thái y trong Thái y viện mười mấy năm như mọi ngày.
Bởi vì thuốc bọn họ sắc thật sự là quá khó uống, hơn nữa còn cấm ta ăn đường.
A Tịch nói, chứng bệnh của ta đã có từ trong bụng mẹ, nhưng đến lúc mười mấy tuổi lại từ từ chuyển biến tốt. Nhưng không thể không nói, thời gian từ khi sinh ra đến lúc gọi là mười mấy tuổi này, ta thật sự là chết đi sống lại. Mùa đông hàng năm nhóm thái y đều hận không thể khiến ta ngủ đông theo ếch nhái gấu chó gì đó, bởi vì chỉ cần ta tỉnh, ta liền ho khan kịch liệt. Chỉ cần ta ho khan, bọn họ nhất định cần phải sắc thuốc cho ta. Chỉ cần sắc thuốc, ta liền quay đầu mè nheo hao tổn tâm cơ muốn đổ bỏ. Chỉ cần ta đổ bỏ, nhóm tì nữ sẽ lén báo cho Phụ hoàng, nhất định là muốn lại đây hỏi thăm. Mà chỉ cần Phụ hoàng vừa đến đây, nhóm thái y chắc chắn sẽ bị quở trách.
Vì thế ta coi thái y là kẻ thù, thái y coi ta là kẻ thù, nhưng ta lại nhất định phải ỷ lại thái y, thái y cũng nhất định phải trị liệu cho ta, quanh năm suốt tháng, chúng ta dần dần dưỡng thành triết học phổ biến khắp thiên nhiên, quan hệ biện chứng về sự thống nhất của các mặt đối lập.
Đợi đến năm kia, cũng chính là mùa đông năm ta mười lăm tuổi, rốt cuộc ta không còn ho khan nữa. Ta nhớ rõ Tết âm lịch năm trước, trong cung bắn pháo hoa rất nhiều, đèn đuốc rực rỡ sáng cả trời, sáng loá cả mắt, muôn màu muôn vẻ, “oành” một tiếng nổ trên trời, giống như là khổng tước kiêu ngạo xòe đuôi trong đêm tối.
Nhiều pháo hoa như vậy, ta luôn nghi ngờ Thái y viện kia là nơi sáng nhất trong cung. Nhưng sự thật là, mùng ba tháng giêng năm trước, tỷ tỷ duy nhất Tô Tư của ta phải xuất giá. Phụ hoàng vô cùng luyến tiếc cô con gái mỗi nét mặt mỗi tiếng nói cử động đều hoàn mỹ, thể hiện phong nhã và sự thận trọng nữ nhi hoàng tộc nên có, liền vung tay xa xỉ trên dưới vào mùng ba Tết âm lịch trước ngày đại hôn. Hình như yến hội càng long trọng lại càng thể hiện tình thương yêu của Phụ hoàng đối với tỷ tỷ.
Tỷ tỷ gả cho con trai Tể tướng đương triều. Đại hôn hôm đó, lần đầu tiên tỷ tỷ vén tóc lên, lộ ra chiếc cổ xinh đẹp, đầu ngẩng cao, giày thêu màu đỏ tươi giấu trong giá y đỏ tươi thật dài, mỗi một bước chân của tỷ tỷ đều đầy kiêu hãnh. Tỷ tỷ không cười, nói thật thì, từ nhỏ đến lớn ta cũng không thấy tỷ tỷ thật sự cười được mấy lần. Nụ cười của tỷ tỷ lúc nào cũng nhếch lên mím môi, sau đó rũ mắt xuống, liền trở về bộ dáng hiền thục dịu dàng.
Mà chờ đến hôm đại hôn của ta và Tần Liễm, rốt cuộc ta cũng rõ nguyên do tỷ tỷ Tô Tư không cười. Không nói mấy cái khác, chỉ cần đội cái mũ nặng mười cân lên đầu, cùng bộ váy dài bảy thước, đã đủ ép ba hồn bảy vía của người khác mất hết một nửa. Dựng vợ gả chồng chỉ cần một ngày, nhưng mà ghi nhớ từng trình tự chi tiết đại hôn, cùng với việc toàn thân từ đầu đến chân tắm rửa huân hương trang điểm đều phải chuẩn bị từ bảy ngày trước, đối với ta mười bảy tuổi mà nói, đừng nói là cười, có thể không khóc đã là không tệ.
Dưới sự trợ giúp của nhóm tì nữ, ta và Tần Liễm ba quỳ chín lạy, mệt đến chân rút gân chân chết lặng. Ta cũng học bộ dáng cao cao ngẩng đầu của Tô Tư, nhưng mà ta phát hiện, khi ta ngẩng mặt lên, ta nhìn thấy gương mặt Tần Liễm như cười như không với ta, mà nếu ta nhìn thẳng, ta lại nhìn thấy hoa văn rồng tượng trưng cho thân phận thêu trên áo hắn đang giương nanh múa vuốt.
Ánh mắt con rồng kia cũng thật sống động, bất luận là nhìn từ góc độ nào thì đều giống như là nó đang nhìn chăm chú vào ngươi. Nhưng mà nói một cách thẳng thừng thì, hoa văn rồng dù có trông sống động thì suy cho cùng cũng chỉ là vật chết, đem so sánh hai cái, ta vẫn lựa chọn mắt nhìn mũi, mũi nhìn tim.
Mãi đến khi động phòng thì tầm mắt ta chếch bốn mươi lăm độ về phía trước. Đây không phải là ta tự nguyện, tất cả đều là bởi vì Tần Liễm giống như đang đùa giỡn con gái nhà lành, dùng ngón tay nâng cằm ta lên.
Rồi sau đó câu đầu tiên hắn nói ra khiến ta ấn tượng hết sức sâu sắc. Chỉ có ba chữ vô cùng đơn giản: “Thật thú vị.”
Sau đó câu đầu tiên ta nói ra cũng khiến ta ấn tượng hết sức sâu sắc. Ta rất bình tĩnh nhìn hắn, nói: “Chắc chàng từng đùa giỡn rất nhiều cô gái? Động tác này thật thuần thục.”
Tần Liễm: “…”
Nhưng mà Tần Liễm cũng không thường xuyên không nói gì như vậy. Hoặc có thể nói, ngoại trừ hôm đại hôn hắn đại khái là bởi vì không ngờ ta đội cái mũ ngàn cân kia mà còn có thể suy nghĩ phản bác hắn, do đó ngoài việc nhất thời bởi vì thoáng kinh ngạc mà thất thần ra, cuộc đối thoại giữa ta hắn và hắn đều là hắn chiếm thượng phong mà chấm dứt, khiến mấy lời ngoài khen trong chê của ta á khẩu không trả lời được mới bỏ qua.
Nếu là người khác, kết quả nhiều lần lặp lại như thế, đại khái sẽ có hai loại phản ứng. Một là nhượng bộ lui binh với Tần Liễm, nếu ba xá không đủ còn có thể lui thêm năm xá (a), bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non (b), liễu khói cầu sơn (c) khóa mùa thu (d), thiên hạ to lớn, nơi này không thể ở lại, tự có chỗ khác ở được; hai là càng gặp trở ngại thì càng mạnh mẽ, buộc tóc lên xà nhà (e), đâm vào bắp vế (f), khoét vách trộm sáng (g), thâu túi đom đóm, nhờ tuyết phản chiếu (h), dùng bất cứ thủ đoạn nào, dùng kiến thức mình trang bị được, sau đó mấy năm sau vì rửa sạch mối nhục trước đó mà ngóc đầu trở lại, dùng lời nói sắc bén, dùng bản lĩnh lưỡi sáng hoa sen (i) khiến Tần Liễm nhục nhã đến cùng, nhục nhã đến mức hai tay tự vỗ lên mặt, phế bỏ hết học vấn cả đời mình. (1)
(1) Nguyên đoạn này ngắn gọn thì ý nói có 2 cách để đối phó với Tần Liễm: Một là rút lui, sống ở đây không được thì còn có chỗ khác. Hai là dày công học tập, luyện miệng lưỡi cho khéo rồi quay lại báo thù. Chú thích cụ thể từng điển cố – thành ngữ được dùng có thể tham khảo ở cuối chương.
Nhưng mà ta vừa không có cách nào nhượng bộ lui binh với Tần Liễm, cũng không có cách nào xuất cung chỉ để đi bế quan báo thù, ta và Tần Liễm sớm chiều ở chung, ngoại trừ cố gắng khiến bản thân mình rộng lượng, sau khi tức giận thì tìm đường ngang ngõ tắt để tự an ủi một chút ra thì cũng không có phương pháp khác.
Hai tháng trước, ta theo Phụ hoàng tới Nam triều, được Nam triều chiêu đãi nồng hậu.
Về nhận định có nồng hậu hay không thì phải xem mức độ tươi cười trên mặt chủ tiệc lớn nhỏ. Mà nhìn từ hiện trường, các vị hoàng tử cung phi Nam triều đều dự thính, nhân vật đầy đủ, tì nữ rất đẹp, thức ăn thật ngon miệng, vũ nữ thật chuyên nghiệp, phô trương và sĩ diện rõ ràng đều đạt mười phần; mà nụ cười trên mặt Hoàng đế cũng hết sức ấm áp, có thể nói là gió mát trong thời tiết tháng bảy, hoặc là nắng ấm trong thời tiết tháng chạp.
Quốc gia và quốc gia lui tới, luôn phải mang một ít giao dịch. Phụ hoàng ta và Phụ hoàng Tần Liễm trong lúc nói cười hình như đã ăn ý đạt được hiệp nghị, theo như nhu cầu, trò chuyện trong tiệc rượu phải thật thoải mái.
Tới lúc gần xong, Hoàng đế Nam triều đột nhiên đảo mắt về phía ta, khóe miệng mang theo ý cười mà nói: “Nghe đồn hai cô công chúa của Tô quốc tài mạo song toàn, một người im lặng một người hoạt bát, một người có thể ca một người giỏi múa. Cầm kỳ thi họa kiếm, thơ ca trà rượu hoa, nam tử hoàng thất còn phải học hỏi hai vị công chúa, nghiên cứu tinh thâm. Hôm nay cô (2) nhìn thấy vị Nhị Công chúa này, mỹ mạo thật khó mà chê một phần, không biết nhảy múa có khiến người ta ngưỡng mộ như dung mạo hay không?”
(2) cô: tiếng tự xưng của vương hầu thời phong kiến
Kỳ thật ta rất muốn nói thật, lời đồn cơ bản trăm phần đều cần phải rót nước đổ vào (3). Đương nhiên, lời đồn này truyền đến não Hoàng đế Nam triều rồi ra khỏi miệng thì lại càng thêm mấy phần rót nước cố ý ca ngợi.
(3) rót nước đổ vào: nhân tố ảnh hưởng lớn nhất đến chất lượng khi pha trà, trong quá trình pha trà cần có người kiểm soát các phân đoạn
Cầm kỳ thi họa kiếm, thơ ca trà rượu hoa, ta phải học chu toàn mọi mặt, nhưng không cách nào nghiên cứu tinh thâm. Kiếm thuật của ta cơ bản không thể gọi là kiếm thuật, chỉ có thể khoa chân múa tay đùa giỡn mấy đường quen thuộc nhất, hoặc là mấy chiêu sở trường nhất, ngoại trừ mấy cái đó ra, đối với việc vận động này ta còn học bằng cách nhớ mấy bộ kiếm thuật trong lịch sử, cùng với mấy chiêu bát quái của nhân vật cao thủ truyền lại. Mà sở dĩ là mấy vị cao thủ quen thuộc này mà không phải cao tăng Thiếu Lâm giáo chủ Võ Đang vân vân là do ở mấy người bọn họ có một điểm giống nhau —— dung mạo tương đối dễ nhìn.
Nhưng lời bệ hạ Nam triều vừa ra khỏi miệng, ta liền không thể không đến chính giữa yến tiệc, vì tin đồn về sự am hiểu của ta đã truyền tới đây, ta đành phải biểu diễn một phen dưới con mắt nhìn trừng trừng của mọi người, dùng cái này chứng minh bệ hạ Nam triều miệng vàng lời ngọc, tuyệt không nói dối, cũng như chứng minh ta cũng không phải gối thêu hoa (4), chính là Nhị Công chúa Tô quốc hàng thật giá thật.
(4) gối thêu hoa: ví với những người chỉ có hình dáng bên ngoài không có học thức tài năng
Ta suy nghĩ một chút. Cảm thấy ta có thể thực hiện được, đại khái đối với những nữ nhân Nam triều đang ngồi ở đây mà nói, tất cả các nàng có thể thực hiện được. Duy chỉ có Phượng Khuyết Vũ của Tô quốc là điệu múa của riêng hoàng thất, mặc dù bọn họ kiến thức rộng, cũng chưa chắc được xem qua. Do đó cho dù ta nhảy sai, bọn họ cũng không cách nào nhìn ra.
Lúc nhịp trống tấu lên, ta len lén liếc nhìn Tần Liễm.
Thật ra thì trước đó ở chỗ ngồi ta đã nhìn lén hắn rất nhiều lần. Hắn ngồi cách ta không xa không gần, buộc quan, mặt mày hoà nhã, ý cười bên môi như có như không, cùng với ngón tay thon dài duyên dáng dưới tay áo bào rộng, lúc hắn vỗ về chơi đùa ly rượu ta đều có thể nhìn thấy.
Đây là một nam tử còn ưu nhã thong dong hơn cả ca ca ta Tô Khải.
Lúc ta nhìn trộm hắn ở chỗ ngồi, hắn không nhìn ta. Ánh mắt hắn không chút để ý, giống như ly rượu và rượu bên trong có ma lực to lớn, hấp dẫn sự chú ý của hắn.
Lúc ta đứng giữa yến tiệc nhìn hắn, hắn vẫn không nhìn ta. Hắn nâng đôi mắt thật cẩn thận nghe Phụ hoàng hắn nói chuyện, khóe miệng hơi mỉm cười, là nụ cười khách sáo.
Mà chờ ta múa xong, Tần Liễm vẫn không nhìn ta. Tay hắn cầm ly rượu, ghé vào khóe môi, lại không uống, ánh mắt dừng ở nơi nào đó trên người ta, hai bên tay áo bào rộng che khuôn mặt của hắn, vẻ mặt của hắn mơ mơ hồ hồ.
Nhưng mà đợi đến ngày kế, lúc ta đang nghỉ ngơi trong tẩm cung Nam triều, đột nhiên nghe được tin Tần Liễm thỉnh cầu Phụ hoàng ta xin gả ta cho hắn.
Kỳ thật lần này Phụ hoàng dẫn ta tới Nam triều, vốn là hi vọng hai nước thông gia. Mà thân là Thái tử Tần Liễm mở miệng, những họ hàng hoàng thân quốc thích khác liền không có đạo lý đoạt người từ miệng hổ.
Nói thật thì, ta thật không thể lý giải hành động này của Tần Liễm. Chỉ có điều từ kinh nghiệm sau đó của ta, trong đủ loại hành vi của Tần Liễm, ta có thể hiểu được rất ít, mà những thứ ta có thể hiểu được có thể nói là thiểu số trong thiểu số.
Ngày kế Tần Liễm đặt quan hệ thông gia, Phụ hoàng hắn liền hỏi Phụ hoàng ta, dùng giọng điệu rất là ôn hòa nói: “Ngài xem…”
Hắn nói rất lâu, đơn giản chỉ có hai câu. Thành tựu văn hoá giáo dục tài võ của Tần Liễm đều rất cao, phẩm hạnh tướng mạo càng không thể chê, một vị Thái tử Nam triều dân chúng kính yêu thần tử ủng hộ như vậy, nữ tử Nam triều muốn gả cho hắn còn có thể chất đầy toàn bộ quốc khố Đại Nam triều. Mà nếu Tần Liễm hiếm khi mở miệng cầu hôn, nếu Phụ hoàng ta cũng ít khi thông gia, vậy hai người liền vội vàng xác lập hôn sự.
Sau khi nghe nói thì ta im lặng cả một buổi sáng. Trong lòng như có gì bất bình, giống như là một chút tì vết trên tơ lụa, phủi thế nào cũng không ra. Cũng không biết rốt cuộc là không cam lòng chỗ nào, dù sao ta nhanh chóng gả cho Tần Liễm thật có hơi gấp gáp. Tuy rằng ta phải thừa nhận, ta từ Tô quốc đến Nam triều chính là chuẩn bị gả cho hắn.
Tuy ta có chút sầu não nhưng mà Phụ hoàng ta đáp ứng rất thẳng thắn. Thấy ta cắm đầu không nói, ông còn tưởng rằng ta đang thẹn thùng mà ngầm thoả thuận, buổi chiều liền vung tay lên, nói một chút với Hoàng đế Nam triều, qua thời gian một nén nhang, quan viên Lễ bộ liền bận rộn không ngừng chạy đi chuẩn bị công việc đại hôn.
Việc đã đến nước này, người làm anh trai ta Tô Khải nói cái gì mà “vị công chúa hiểu biết thời thế nhất từ lúc Tô quốc khai quốc tới nay”, tuy rằng ta biết khi đó hắn nịnh hót ta như vậy chỉ là vì muốn lừa ta giúp hắn chép kinh thư, nhưng nay ta chỉ có thể tòng mệnh.
Ngày thứ hai sau khi tòng mệnh ta liền gặp Tần Liễm. Ta tùy tiện xông vào cung điện Phụ hoàng đang nghỉ tạm, liếc mắt một cái liền thấy Tần Liễm thay một thân thường phục viền hoa văn vàng, nhìn nét mặt kia đại khái là đang trao đổi công việc với Phụ hoàng, trong tay thong thả vân vê chén trà, tay áo rộng rũ xuống, hai bên má như khảm ngọc, trong lúc giơ tay nhấc chân cũng mang theo phong thái lịch sự tao nhã không thể nói nên lời.
Ngẫm lại Tần Liễm lúc đó, lại nghĩ đến bây giờ, ngoại trừ dùng câu “ra vẻ đạo mạo, mặt người dạ thú” để hình dung ra, ta thật đúng là nghĩ không ra thành ngữ nào thích hợp hơn.
Chỉ có điều lúc ấy quả thật là ta cũng bị cái vẻ thanh tao kia của hắn đánh lừa, bỗng nhiên liền nghĩ đến hai câu rất không phù hợp với thân phận Công chúa của ta, cùng với lời rất không phù hợp với thân phận Thái tử của Tần Liễm, được chết dưới hoa mẫu đơn thì làm quỷ vẫn phong lưu.
Nhìn thấy ta, Tần Liễm thoáng dừng một lát, sau đó gật gật đầu với ra, lộ ra một nụ cười rất mê người nhưng cũng rất hời hợt: “Nhị Công chúa, chào buổi sáng.”
Ta ngẩng đầu nhìn ánh sáng mặt trời trên không trung, thầm nghĩ giờ này sâu bọ dậy sớm sớm đã bị chim chóc dậy muộn ăn sạch, sáng cái gì mà sáng.
Nhưng trên mặt ta vẫn tươi cười, chắp tay hành lễ: “Thái tử, chào buổi sáng.”
Sau đó Phụ hoàng ta liền dùng lý do vô cùng vụng về để ra ngoài, để lại ta và Tần Liễm hai người một ngồi một đứng trong cung điện to như vậy.
Nhìn bộ dáng vân vê chén trà hết sức ung dung bình tĩnh của hắn, ta cười tủm tỉm hỏi trước: “Thái tử thiên tuế, vì sao huynh thỉnh cầu Phụ hoàng tứ hôn gấp như vậy?”
Tần Liễm liếc ta, thản nhiên nói: “Ta gấp khi nào?”
“Nếu không gấp, sao sớm như vậy đã đến chỗ Phụ hoàng ta cầu hôn?”
“À,” Tần Liễm không động chân mày, đuôi mắt phượng hất lên vô cùng muốn ăn đòn, “Chẳng lẽ trên yến tiệc không phải nàng cứ một mực nhìn ta? Ta còn tưởng rằng nàng vừa ý ta.”
“…” Ta khẽ cắn môi, thầm mắng một tiếng vô sỉ, “Nếu huynh không nhìn ta thì sao biết ta đang nhìn huynh?”
Tần Liễm thản nhiên nhấp một hớp trà, thản nhiên nói: “Ánh mắt nàng như hai cây đao vậy, cho dù ta là người mù thì cũng biết nàng sẽ nhanh chóng dùng ánh mắt đó chém ta thành hai miếng trái cây.”
“…” Ta bị lời này làm cho buồn bực.
Tần Liễm cũng nhếch môi, cũng không hiếu chiến, tự mình dời lực chú ý nâng ấm trà lên, thản nhiên châm trà vô chén, cái động tác kia nhàn nhã đến mức tựa như là hắn không liên quan gì đến chuyện đại hôn. Ta hung dữ nhìn hắn chòng chọc, chợt nhớ lại vừa rồi ta thật sự không nên theo lời của hắn mà hạ mình, ta cũng không nên đặt ra giả thuyết kia, lẽ ra ta nên nói “Ta nhìn huynh lúc nào, huynh bớt tự mình đa tình đi”, như vậy là ta có thể nắm quyền chủ động.
Bởi vậy có thể thấy được Tần Liễm không phải dạng nham hiểm bình thường. Lúc uống trà còn không quên gài bẫy người khác, miệng lưỡi tùy tiện như vậy, hắn đường đường thân là nam tử, mà còn đường đường là Thái tử Đại Nam triều, cũng không chịu nhường một cô gái yếu đuối như ta đây một chút.
Nhưng mà có một số việc thời cơ đã qua mất rồi sẽ không trở lại, ta đây đã lỡ thời cơ lần thứ hai, lần sau sẽ khó hỏi hắn vì sao muốn cưới ta. Nghĩ đến đây thôi, ta lại cảm thấy buồn bực.
Hôn lễ định vào hai tháng sau, vừa nghĩ đến việc sẽ lấy một người gian xảo như hồ ly, nham hiểm như sói, ta liền đau đầu. Sáng nọ, A Tịch vừa búi tóc cho ta vừa nói: “Công chúa không phải rất muốn gả cho Thái tử sao?”
Ta hung hăng nói: “Ta muốn gả cho Thái tử lúc nào?”
A Tịch ra vẻ “suy nghĩ của người đều viết trên mặt, còn muốn ta nói ra kích thích người sao”.
“Được rồi, ta hi vọng có thể gả cho hắn.” Ta nản lòng nói, “Nhưng ta không thích hắn.”
A Tịch lần này lại ra vẻ “miệng của người kiên quyết vẽ trên mặt, ta sẽ không nói ra để kích thích người đâu”.
Ta: “…”
Nhưng ta vẫn không cam lòng, vì thế trong hai tháng trước đại hôn, mỗi một ngày ta đều làm mọi chuyện vượt mọi khó khăn gian khổ, lại kiên trì không ngừng đấu tranh với Tần Liễm.
Lần thứ nhất ta ném một con sâu róm vào triều phục của hắn, tiểu tử này không tiện phát cáu trước mặt các nô tài, đành phải cười ha hả nhận lấy, sau đó vào ban đêm ta đặc biệt nhận được một bàn đồ ăn do hắn đặc chế, thơm thơm, còn tặng kèm một đĩa nước chấm, ta còn đang hớn hở định hạ đũa, Tần Liễm ngồi một bên đã mở miệng như gió thoảng mây bay: “Cái này gọi là cải lông. Làm rất mất công, nàng cứ từ từ nhấm nháp.”
Ta gắp một miếng để gần bên miệng: “Cải lông?”
Hắn gật đầu như gió thoảng mây bay, tiếp tục nói: “Món này là ta lệnh cho đầu bếp dùng hết sâu lông bọn họ bắt được trong một ngày mà làm.”
Ta “ọe” một tiếng quay sang tì nữ nhanh tay lẹ mắt đưa chậu đồng tới nôn vào. Chờ ta nôn đến nước mắt ròng ròng, không ngừng ho khan, Tần Liễm lại trưng ra vẻ Thái tử thanh tao khí phách, gió thoảng mây bay nói tiếp: “À, quên nói cho nàng biết một chuyện khác. Ta vừa mới lừa nàng, cái này thật ra chính là một mâm lỗ tai mèo bình thường, hơi cháy sém một chút mà thôi.”
“…” Ta lấy tay run rẩy chỉ vào hắn, nhất thời ho dữ dội hơn.
Chú thích (1):
(a) nguyên văn thành ngữ “nhượng bộ lui binh” là “lui về ba xá”, 1 xá là 30 dặm. Hành quân thời xưa thường chủ động lui trong vòng 3 xá (90 dặm), lẩn tránh để hạn chế va chạm, xuất phát từ điển cố công tử Trọng Nhĩ lưu vong – Tấn văn công lùi ba xá.
(b) bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non: nguyên văn là “phương thảo thê thê Anh Vũ châu”, trích từ bài “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu, Tản Đà dịch, ý nói sức sống hiển hiện trong sự vật thiên nhiên, đối lập với cảnh hoang tàn của lầu Hoàng Hạc.
(c) liễu khói cầu sơn: nguyên văn là “yên liễu họa kiều”, trích từ bài “Vọng hải triều” của Liễu Vĩnh, Nguyễn Xuân Tảo dịch. Bài thơ miêu tả cuộc sống phồn hoa và phong cảnh đẹp đẽ của Hàng Châu nổi tiếng ở đất Giang Nam.
(d) khoá mùa thu: nguyên văn là “toả thanh thâu, trích từ bài “Tương kiến hoan” của Lý Dục thời Bắc Tống, Nguyễn Thị Bích Hải dịch.
(e) buộc tóc lên xà nhà: ý chỉ việc học hành khắc khổ, xuất phát từ điển cố về Tôn Kính thời Hán, thường đọc sách đến nửa đêm. Để tránh buồn ngủ, ông buộc lên xà nhà một sợi dây, rồi buộc tóc mình vào đó. Chỉ cần gục đầu là lập tức dây kéo ngược tóc lên, lại tiếp tục đọc.
(f) đâm vào bắp vế: ý chỉ việc học hành kiên trì, xuất phát từ điển cố về Tô Tần thời Chiến quốc dốc chí đọc sách, thường đọc đến đêm khuya. Mỗi khi buồn ngủ, dùng chuỳ đâm vào bắp vế mình để tỉnh ngủ, học tập rất kiên trì, cuối cùng có được một tri thức uyên bác.
(g) khoét vách trộm sáng: nguyên văn là “tạc bích thâu quang”, thành ngữ xuất phát từ điển cố Khuông Xung nhà rất nghèo, chăm học nhưng không có đèn đuốc, bèn khoét một lỗ nhỏ trên vách để đọc nhờ đèn hàng xóm. Thành ngữ ngụ ý nhà nghèo nhưng chăm chỉ học hành.
(h) thâu túi đom đóm, nhờ tuyết phản chiếu: nguyên văn là “nang huỳnh ánh tuyết”, “nang huỳnh” nói về Xa Dận thời Tấn, đêm đọc sách không có tiền mua dầu thắp. Mùa hạ, ông bắt mấy chục con đom đóm bỏ vào trong một cái túi nhỏ bằng vải mỏng, nhờ ánh sáng của đom đóm để đọc, cứ kiên trì như thế không hề ngơi nghỉ. “Ánh tuyết”nói về Tôn Khang thời Tấn, nhà nghèo không có dầu thắp đèn. Đêm mùa đông, ông thường ngồi xổm bên tuyết, nhờ ánh sáng phản chiếu của tuyết để đọc sách.
(i) lưỡi sáng hoa sen: nguyên văn là “thiệt xán liên hoa”, điển cố xuất phát từ “Cao tăng truyện” và “Tấn thư – Nghệ thuật truyện: Phật Đồ Trừng”, ý chỉ tài khéo ăn nói
Nghe nói khi còn nhỏ lần đầu tiên ta ăn thịt dê, ban đêm liền sốt cao không giảm, gần như mất nửa cái mạng nhỏ. Lúc ấy Phụ hoàng giận dữ, thái y trong cung bởi vì cái cô công chúa tuổi nhỏ nhất lại cũng ốm yếu nhiều bệnh nhất này mà trong ngày đông lạnh lẽo bị bắt quỳ một đêm trên mặt đất lạnh như băng.
A Tịch nói, chờ sau khi ta lớn lên một chút, vào một buổi sáng biết được việc này, trong nháy mắt ta lại có hơi áy náy. Nhưng đến giữa trưa sau khi ăn no xong, sự áy náy của ta liền theo thức ăn tiêu hóa hết sạch, từ đó về sau ta liền kiên nhẫn mà kéo dài thái độ đối địch với nhóm thái y trong Thái y viện mười mấy năm như mọi ngày.
Bởi vì thuốc bọn họ sắc thật sự là quá khó uống, hơn nữa còn cấm ta ăn đường.
A Tịch nói, chứng bệnh của ta đã có từ trong bụng mẹ, nhưng đến lúc mười mấy tuổi lại từ từ chuyển biến tốt. Nhưng không thể không nói, thời gian từ khi sinh ra đến lúc gọi là mười mấy tuổi này, ta thật sự là chết đi sống lại. Mùa đông hàng năm nhóm thái y đều hận không thể khiến ta ngủ đông theo ếch nhái gấu chó gì đó, bởi vì chỉ cần ta tỉnh, ta liền ho khan kịch liệt. Chỉ cần ta ho khan, bọn họ nhất định cần phải sắc thuốc cho ta. Chỉ cần sắc thuốc, ta liền quay đầu mè nheo hao tổn tâm cơ muốn đổ bỏ. Chỉ cần ta đổ bỏ, nhóm tì nữ sẽ lén báo cho Phụ hoàng, nhất định là muốn lại đây hỏi thăm. Mà chỉ cần Phụ hoàng vừa đến đây, nhóm thái y chắc chắn sẽ bị quở trách.
Vì thế ta coi thái y là kẻ thù, thái y coi ta là kẻ thù, nhưng ta lại nhất định phải ỷ lại thái y, thái y cũng nhất định phải trị liệu cho ta, quanh năm suốt tháng, chúng ta dần dần dưỡng thành triết học phổ biến khắp thiên nhiên, quan hệ biện chứng về sự thống nhất của các mặt đối lập.
Đợi đến năm kia, cũng chính là mùa đông năm ta mười lăm tuổi, rốt cuộc ta không còn ho khan nữa. Ta nhớ rõ Tết âm lịch năm trước, trong cung bắn pháo hoa rất nhiều, đèn đuốc rực rỡ sáng cả trời, sáng loá cả mắt, muôn màu muôn vẻ, “oành” một tiếng nổ trên trời, giống như là khổng tước kiêu ngạo xòe đuôi trong đêm tối.
Nhiều pháo hoa như vậy, ta luôn nghi ngờ Thái y viện kia là nơi sáng nhất trong cung. Nhưng sự thật là, mùng ba tháng giêng năm trước, tỷ tỷ duy nhất Tô Tư của ta phải xuất giá. Phụ hoàng vô cùng luyến tiếc cô con gái mỗi nét mặt mỗi tiếng nói cử động đều hoàn mỹ, thể hiện phong nhã và sự thận trọng nữ nhi hoàng tộc nên có, liền vung tay xa xỉ trên dưới vào mùng ba Tết âm lịch trước ngày đại hôn. Hình như yến hội càng long trọng lại càng thể hiện tình thương yêu của Phụ hoàng đối với tỷ tỷ.
Tỷ tỷ gả cho con trai Tể tướng đương triều. Đại hôn hôm đó, lần đầu tiên tỷ tỷ vén tóc lên, lộ ra chiếc cổ xinh đẹp, đầu ngẩng cao, giày thêu màu đỏ tươi giấu trong giá y đỏ tươi thật dài, mỗi một bước chân của tỷ tỷ đều đầy kiêu hãnh. Tỷ tỷ không cười, nói thật thì, từ nhỏ đến lớn ta cũng không thấy tỷ tỷ thật sự cười được mấy lần. Nụ cười của tỷ tỷ lúc nào cũng nhếch lên mím môi, sau đó rũ mắt xuống, liền trở về bộ dáng hiền thục dịu dàng.
Mà chờ đến hôm đại hôn của ta và Tần Liễm, rốt cuộc ta cũng rõ nguyên do tỷ tỷ Tô Tư không cười. Không nói mấy cái khác, chỉ cần đội cái mũ nặng mười cân lên đầu, cùng bộ váy dài bảy thước, đã đủ ép ba hồn bảy vía của người khác mất hết một nửa. Dựng vợ gả chồng chỉ cần một ngày, nhưng mà ghi nhớ từng trình tự chi tiết đại hôn, cùng với việc toàn thân từ đầu đến chân tắm rửa huân hương trang điểm đều phải chuẩn bị từ bảy ngày trước, đối với ta mười bảy tuổi mà nói, đừng nói là cười, có thể không khóc đã là không tệ.
Dưới sự trợ giúp của nhóm tì nữ, ta và Tần Liễm ba quỳ chín lạy, mệt đến chân rút gân chân chết lặng. Ta cũng học bộ dáng cao cao ngẩng đầu của Tô Tư, nhưng mà ta phát hiện, khi ta ngẩng mặt lên, ta nhìn thấy gương mặt Tần Liễm như cười như không với ta, mà nếu ta nhìn thẳng, ta lại nhìn thấy hoa văn rồng tượng trưng cho thân phận thêu trên áo hắn đang giương nanh múa vuốt.
Ánh mắt con rồng kia cũng thật sống động, bất luận là nhìn từ góc độ nào thì đều giống như là nó đang nhìn chăm chú vào ngươi. Nhưng mà nói một cách thẳng thừng thì, hoa văn rồng dù có trông sống động thì suy cho cùng cũng chỉ là vật chết, đem so sánh hai cái, ta vẫn lựa chọn mắt nhìn mũi, mũi nhìn tim.
Mãi đến khi động phòng thì tầm mắt ta chếch bốn mươi lăm độ về phía trước. Đây không phải là ta tự nguyện, tất cả đều là bởi vì Tần Liễm giống như đang đùa giỡn con gái nhà lành, dùng ngón tay nâng cằm ta lên.
Rồi sau đó câu đầu tiên hắn nói ra khiến ta ấn tượng hết sức sâu sắc. Chỉ có ba chữ vô cùng đơn giản: “Thật thú vị.”
Sau đó câu đầu tiên ta nói ra cũng khiến ta ấn tượng hết sức sâu sắc. Ta rất bình tĩnh nhìn hắn, nói: “Chắc chàng từng đùa giỡn rất nhiều cô gái? Động tác này thật thuần thục.”
Tần Liễm: “…”
Nhưng mà Tần Liễm cũng không thường xuyên không nói gì như vậy. Hoặc có thể nói, ngoại trừ hôm đại hôn hắn đại khái là bởi vì không ngờ ta đội cái mũ ngàn cân kia mà còn có thể suy nghĩ phản bác hắn, do đó ngoài việc nhất thời bởi vì thoáng kinh ngạc mà thất thần ra, cuộc đối thoại giữa ta hắn và hắn đều là hắn chiếm thượng phong mà chấm dứt, khiến mấy lời ngoài khen trong chê của ta á khẩu không trả lời được mới bỏ qua.
Nếu là người khác, kết quả nhiều lần lặp lại như thế, đại khái sẽ có hai loại phản ứng. Một là nhượng bộ lui binh với Tần Liễm, nếu ba xá không đủ còn có thể lui thêm năm xá (a), bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non (b), liễu khói cầu sơn (c) khóa mùa thu (d), thiên hạ to lớn, nơi này không thể ở lại, tự có chỗ khác ở được; hai là càng gặp trở ngại thì càng mạnh mẽ, buộc tóc lên xà nhà (e), đâm vào bắp vế (f), khoét vách trộm sáng (g), thâu túi đom đóm, nhờ tuyết phản chiếu (h), dùng bất cứ thủ đoạn nào, dùng kiến thức mình trang bị được, sau đó mấy năm sau vì rửa sạch mối nhục trước đó mà ngóc đầu trở lại, dùng lời nói sắc bén, dùng bản lĩnh lưỡi sáng hoa sen (i) khiến Tần Liễm nhục nhã đến cùng, nhục nhã đến mức hai tay tự vỗ lên mặt, phế bỏ hết học vấn cả đời mình. (1)
(1) Nguyên đoạn này ngắn gọn thì ý nói có 2 cách để đối phó với Tần Liễm: Một là rút lui, sống ở đây không được thì còn có chỗ khác. Hai là dày công học tập, luyện miệng lưỡi cho khéo rồi quay lại báo thù. Chú thích cụ thể từng điển cố – thành ngữ được dùng có thể tham khảo ở cuối chương.
Nhưng mà ta vừa không có cách nào nhượng bộ lui binh với Tần Liễm, cũng không có cách nào xuất cung chỉ để đi bế quan báo thù, ta và Tần Liễm sớm chiều ở chung, ngoại trừ cố gắng khiến bản thân mình rộng lượng, sau khi tức giận thì tìm đường ngang ngõ tắt để tự an ủi một chút ra thì cũng không có phương pháp khác.
Hai tháng trước, ta theo Phụ hoàng tới Nam triều, được Nam triều chiêu đãi nồng hậu.
Về nhận định có nồng hậu hay không thì phải xem mức độ tươi cười trên mặt chủ tiệc lớn nhỏ. Mà nhìn từ hiện trường, các vị hoàng tử cung phi Nam triều đều dự thính, nhân vật đầy đủ, tì nữ rất đẹp, thức ăn thật ngon miệng, vũ nữ thật chuyên nghiệp, phô trương và sĩ diện rõ ràng đều đạt mười phần; mà nụ cười trên mặt Hoàng đế cũng hết sức ấm áp, có thể nói là gió mát trong thời tiết tháng bảy, hoặc là nắng ấm trong thời tiết tháng chạp.
Quốc gia và quốc gia lui tới, luôn phải mang một ít giao dịch. Phụ hoàng ta và Phụ hoàng Tần Liễm trong lúc nói cười hình như đã ăn ý đạt được hiệp nghị, theo như nhu cầu, trò chuyện trong tiệc rượu phải thật thoải mái.
Tới lúc gần xong, Hoàng đế Nam triều đột nhiên đảo mắt về phía ta, khóe miệng mang theo ý cười mà nói: “Nghe đồn hai cô công chúa của Tô quốc tài mạo song toàn, một người im lặng một người hoạt bát, một người có thể ca một người giỏi múa. Cầm kỳ thi họa kiếm, thơ ca trà rượu hoa, nam tử hoàng thất còn phải học hỏi hai vị công chúa, nghiên cứu tinh thâm. Hôm nay cô (2) nhìn thấy vị Nhị Công chúa này, mỹ mạo thật khó mà chê một phần, không biết nhảy múa có khiến người ta ngưỡng mộ như dung mạo hay không?”
(2) cô: tiếng tự xưng của vương hầu thời phong kiến
Kỳ thật ta rất muốn nói thật, lời đồn cơ bản trăm phần đều cần phải rót nước đổ vào (3). Đương nhiên, lời đồn này truyền đến não Hoàng đế Nam triều rồi ra khỏi miệng thì lại càng thêm mấy phần rót nước cố ý ca ngợi.
(3) rót nước đổ vào: nhân tố ảnh hưởng lớn nhất đến chất lượng khi pha trà, trong quá trình pha trà cần có người kiểm soát các phân đoạn
Cầm kỳ thi họa kiếm, thơ ca trà rượu hoa, ta phải học chu toàn mọi mặt, nhưng không cách nào nghiên cứu tinh thâm. Kiếm thuật của ta cơ bản không thể gọi là kiếm thuật, chỉ có thể khoa chân múa tay đùa giỡn mấy đường quen thuộc nhất, hoặc là mấy chiêu sở trường nhất, ngoại trừ mấy cái đó ra, đối với việc vận động này ta còn học bằng cách nhớ mấy bộ kiếm thuật trong lịch sử, cùng với mấy chiêu bát quái của nhân vật cao thủ truyền lại. Mà sở dĩ là mấy vị cao thủ quen thuộc này mà không phải cao tăng Thiếu Lâm giáo chủ Võ Đang vân vân là do ở mấy người bọn họ có một điểm giống nhau —— dung mạo tương đối dễ nhìn.
Nhưng lời bệ hạ Nam triều vừa ra khỏi miệng, ta liền không thể không đến chính giữa yến tiệc, vì tin đồn về sự am hiểu của ta đã truyền tới đây, ta đành phải biểu diễn một phen dưới con mắt nhìn trừng trừng của mọi người, dùng cái này chứng minh bệ hạ Nam triều miệng vàng lời ngọc, tuyệt không nói dối, cũng như chứng minh ta cũng không phải gối thêu hoa (4), chính là Nhị Công chúa Tô quốc hàng thật giá thật.
(4) gối thêu hoa: ví với những người chỉ có hình dáng bên ngoài không có học thức tài năng
Ta suy nghĩ một chút. Cảm thấy ta có thể thực hiện được, đại khái đối với những nữ nhân Nam triều đang ngồi ở đây mà nói, tất cả các nàng có thể thực hiện được. Duy chỉ có Phượng Khuyết Vũ của Tô quốc là điệu múa của riêng hoàng thất, mặc dù bọn họ kiến thức rộng, cũng chưa chắc được xem qua. Do đó cho dù ta nhảy sai, bọn họ cũng không cách nào nhìn ra.
Lúc nhịp trống tấu lên, ta len lén liếc nhìn Tần Liễm.
Thật ra thì trước đó ở chỗ ngồi ta đã nhìn lén hắn rất nhiều lần. Hắn ngồi cách ta không xa không gần, buộc quan, mặt mày hoà nhã, ý cười bên môi như có như không, cùng với ngón tay thon dài duyên dáng dưới tay áo bào rộng, lúc hắn vỗ về chơi đùa ly rượu ta đều có thể nhìn thấy.
Đây là một nam tử còn ưu nhã thong dong hơn cả ca ca ta Tô Khải.
Lúc ta nhìn trộm hắn ở chỗ ngồi, hắn không nhìn ta. Ánh mắt hắn không chút để ý, giống như ly rượu và rượu bên trong có ma lực to lớn, hấp dẫn sự chú ý của hắn.
Lúc ta đứng giữa yến tiệc nhìn hắn, hắn vẫn không nhìn ta. Hắn nâng đôi mắt thật cẩn thận nghe Phụ hoàng hắn nói chuyện, khóe miệng hơi mỉm cười, là nụ cười khách sáo.
Mà chờ ta múa xong, Tần Liễm vẫn không nhìn ta. Tay hắn cầm ly rượu, ghé vào khóe môi, lại không uống, ánh mắt dừng ở nơi nào đó trên người ta, hai bên tay áo bào rộng che khuôn mặt của hắn, vẻ mặt của hắn mơ mơ hồ hồ.
Nhưng mà đợi đến ngày kế, lúc ta đang nghỉ ngơi trong tẩm cung Nam triều, đột nhiên nghe được tin Tần Liễm thỉnh cầu Phụ hoàng ta xin gả ta cho hắn.
Kỳ thật lần này Phụ hoàng dẫn ta tới Nam triều, vốn là hi vọng hai nước thông gia. Mà thân là Thái tử Tần Liễm mở miệng, những họ hàng hoàng thân quốc thích khác liền không có đạo lý đoạt người từ miệng hổ.
Nói thật thì, ta thật không thể lý giải hành động này của Tần Liễm. Chỉ có điều từ kinh nghiệm sau đó của ta, trong đủ loại hành vi của Tần Liễm, ta có thể hiểu được rất ít, mà những thứ ta có thể hiểu được có thể nói là thiểu số trong thiểu số.
Ngày kế Tần Liễm đặt quan hệ thông gia, Phụ hoàng hắn liền hỏi Phụ hoàng ta, dùng giọng điệu rất là ôn hòa nói: “Ngài xem…”
Hắn nói rất lâu, đơn giản chỉ có hai câu. Thành tựu văn hoá giáo dục tài võ của Tần Liễm đều rất cao, phẩm hạnh tướng mạo càng không thể chê, một vị Thái tử Nam triều dân chúng kính yêu thần tử ủng hộ như vậy, nữ tử Nam triều muốn gả cho hắn còn có thể chất đầy toàn bộ quốc khố Đại Nam triều. Mà nếu Tần Liễm hiếm khi mở miệng cầu hôn, nếu Phụ hoàng ta cũng ít khi thông gia, vậy hai người liền vội vàng xác lập hôn sự.
Sau khi nghe nói thì ta im lặng cả một buổi sáng. Trong lòng như có gì bất bình, giống như là một chút tì vết trên tơ lụa, phủi thế nào cũng không ra. Cũng không biết rốt cuộc là không cam lòng chỗ nào, dù sao ta nhanh chóng gả cho Tần Liễm thật có hơi gấp gáp. Tuy rằng ta phải thừa nhận, ta từ Tô quốc đến Nam triều chính là chuẩn bị gả cho hắn.
Tuy ta có chút sầu não nhưng mà Phụ hoàng ta đáp ứng rất thẳng thắn. Thấy ta cắm đầu không nói, ông còn tưởng rằng ta đang thẹn thùng mà ngầm thoả thuận, buổi chiều liền vung tay lên, nói một chút với Hoàng đế Nam triều, qua thời gian một nén nhang, quan viên Lễ bộ liền bận rộn không ngừng chạy đi chuẩn bị công việc đại hôn.
Việc đã đến nước này, người làm anh trai ta Tô Khải nói cái gì mà “vị công chúa hiểu biết thời thế nhất từ lúc Tô quốc khai quốc tới nay”, tuy rằng ta biết khi đó hắn nịnh hót ta như vậy chỉ là vì muốn lừa ta giúp hắn chép kinh thư, nhưng nay ta chỉ có thể tòng mệnh.
Ngày thứ hai sau khi tòng mệnh ta liền gặp Tần Liễm. Ta tùy tiện xông vào cung điện Phụ hoàng đang nghỉ tạm, liếc mắt một cái liền thấy Tần Liễm thay một thân thường phục viền hoa văn vàng, nhìn nét mặt kia đại khái là đang trao đổi công việc với Phụ hoàng, trong tay thong thả vân vê chén trà, tay áo rộng rũ xuống, hai bên má như khảm ngọc, trong lúc giơ tay nhấc chân cũng mang theo phong thái lịch sự tao nhã không thể nói nên lời.
Ngẫm lại Tần Liễm lúc đó, lại nghĩ đến bây giờ, ngoại trừ dùng câu “ra vẻ đạo mạo, mặt người dạ thú” để hình dung ra, ta thật đúng là nghĩ không ra thành ngữ nào thích hợp hơn.
Chỉ có điều lúc ấy quả thật là ta cũng bị cái vẻ thanh tao kia của hắn đánh lừa, bỗng nhiên liền nghĩ đến hai câu rất không phù hợp với thân phận Công chúa của ta, cùng với lời rất không phù hợp với thân phận Thái tử của Tần Liễm, được chết dưới hoa mẫu đơn thì làm quỷ vẫn phong lưu.
Nhìn thấy ta, Tần Liễm thoáng dừng một lát, sau đó gật gật đầu với ra, lộ ra một nụ cười rất mê người nhưng cũng rất hời hợt: “Nhị Công chúa, chào buổi sáng.”
Ta ngẩng đầu nhìn ánh sáng mặt trời trên không trung, thầm nghĩ giờ này sâu bọ dậy sớm sớm đã bị chim chóc dậy muộn ăn sạch, sáng cái gì mà sáng.
Nhưng trên mặt ta vẫn tươi cười, chắp tay hành lễ: “Thái tử, chào buổi sáng.”
Sau đó Phụ hoàng ta liền dùng lý do vô cùng vụng về để ra ngoài, để lại ta và Tần Liễm hai người một ngồi một đứng trong cung điện to như vậy.
Nhìn bộ dáng vân vê chén trà hết sức ung dung bình tĩnh của hắn, ta cười tủm tỉm hỏi trước: “Thái tử thiên tuế, vì sao huynh thỉnh cầu Phụ hoàng tứ hôn gấp như vậy?”
Tần Liễm liếc ta, thản nhiên nói: “Ta gấp khi nào?”
“Nếu không gấp, sao sớm như vậy đã đến chỗ Phụ hoàng ta cầu hôn?”
“À,” Tần Liễm không động chân mày, đuôi mắt phượng hất lên vô cùng muốn ăn đòn, “Chẳng lẽ trên yến tiệc không phải nàng cứ một mực nhìn ta? Ta còn tưởng rằng nàng vừa ý ta.”
“…” Ta khẽ cắn môi, thầm mắng một tiếng vô sỉ, “Nếu huynh không nhìn ta thì sao biết ta đang nhìn huynh?”
Tần Liễm thản nhiên nhấp một hớp trà, thản nhiên nói: “Ánh mắt nàng như hai cây đao vậy, cho dù ta là người mù thì cũng biết nàng sẽ nhanh chóng dùng ánh mắt đó chém ta thành hai miếng trái cây.”
“…” Ta bị lời này làm cho buồn bực.
Tần Liễm cũng nhếch môi, cũng không hiếu chiến, tự mình dời lực chú ý nâng ấm trà lên, thản nhiên châm trà vô chén, cái động tác kia nhàn nhã đến mức tựa như là hắn không liên quan gì đến chuyện đại hôn. Ta hung dữ nhìn hắn chòng chọc, chợt nhớ lại vừa rồi ta thật sự không nên theo lời của hắn mà hạ mình, ta cũng không nên đặt ra giả thuyết kia, lẽ ra ta nên nói “Ta nhìn huynh lúc nào, huynh bớt tự mình đa tình đi”, như vậy là ta có thể nắm quyền chủ động.
Bởi vậy có thể thấy được Tần Liễm không phải dạng nham hiểm bình thường. Lúc uống trà còn không quên gài bẫy người khác, miệng lưỡi tùy tiện như vậy, hắn đường đường thân là nam tử, mà còn đường đường là Thái tử Đại Nam triều, cũng không chịu nhường một cô gái yếu đuối như ta đây một chút.
Nhưng mà có một số việc thời cơ đã qua mất rồi sẽ không trở lại, ta đây đã lỡ thời cơ lần thứ hai, lần sau sẽ khó hỏi hắn vì sao muốn cưới ta. Nghĩ đến đây thôi, ta lại cảm thấy buồn bực.
Hôn lễ định vào hai tháng sau, vừa nghĩ đến việc sẽ lấy một người gian xảo như hồ ly, nham hiểm như sói, ta liền đau đầu. Sáng nọ, A Tịch vừa búi tóc cho ta vừa nói: “Công chúa không phải rất muốn gả cho Thái tử sao?”
Ta hung hăng nói: “Ta muốn gả cho Thái tử lúc nào?”
A Tịch ra vẻ “suy nghĩ của người đều viết trên mặt, còn muốn ta nói ra kích thích người sao”.
“Được rồi, ta hi vọng có thể gả cho hắn.” Ta nản lòng nói, “Nhưng ta không thích hắn.”
A Tịch lần này lại ra vẻ “miệng của người kiên quyết vẽ trên mặt, ta sẽ không nói ra để kích thích người đâu”.
Ta: “…”
Nhưng ta vẫn không cam lòng, vì thế trong hai tháng trước đại hôn, mỗi một ngày ta đều làm mọi chuyện vượt mọi khó khăn gian khổ, lại kiên trì không ngừng đấu tranh với Tần Liễm.
Lần thứ nhất ta ném một con sâu róm vào triều phục của hắn, tiểu tử này không tiện phát cáu trước mặt các nô tài, đành phải cười ha hả nhận lấy, sau đó vào ban đêm ta đặc biệt nhận được một bàn đồ ăn do hắn đặc chế, thơm thơm, còn tặng kèm một đĩa nước chấm, ta còn đang hớn hở định hạ đũa, Tần Liễm ngồi một bên đã mở miệng như gió thoảng mây bay: “Cái này gọi là cải lông. Làm rất mất công, nàng cứ từ từ nhấm nháp.”
Ta gắp một miếng để gần bên miệng: “Cải lông?”
Hắn gật đầu như gió thoảng mây bay, tiếp tục nói: “Món này là ta lệnh cho đầu bếp dùng hết sâu lông bọn họ bắt được trong một ngày mà làm.”
Ta “ọe” một tiếng quay sang tì nữ nhanh tay lẹ mắt đưa chậu đồng tới nôn vào. Chờ ta nôn đến nước mắt ròng ròng, không ngừng ho khan, Tần Liễm lại trưng ra vẻ Thái tử thanh tao khí phách, gió thoảng mây bay nói tiếp: “À, quên nói cho nàng biết một chuyện khác. Ta vừa mới lừa nàng, cái này thật ra chính là một mâm lỗ tai mèo bình thường, hơi cháy sém một chút mà thôi.”
“…” Ta lấy tay run rẩy chỉ vào hắn, nhất thời ho dữ dội hơn.
Chú thích (1):
(a) nguyên văn thành ngữ “nhượng bộ lui binh” là “lui về ba xá”, 1 xá là 30 dặm. Hành quân thời xưa thường chủ động lui trong vòng 3 xá (90 dặm), lẩn tránh để hạn chế va chạm, xuất phát từ điển cố công tử Trọng Nhĩ lưu vong – Tấn văn công lùi ba xá.
(b) bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non: nguyên văn là “phương thảo thê thê Anh Vũ châu”, trích từ bài “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu, Tản Đà dịch, ý nói sức sống hiển hiện trong sự vật thiên nhiên, đối lập với cảnh hoang tàn của lầu Hoàng Hạc.
(c) liễu khói cầu sơn: nguyên văn là “yên liễu họa kiều”, trích từ bài “Vọng hải triều” của Liễu Vĩnh, Nguyễn Xuân Tảo dịch. Bài thơ miêu tả cuộc sống phồn hoa và phong cảnh đẹp đẽ của Hàng Châu nổi tiếng ở đất Giang Nam.
(d) khoá mùa thu: nguyên văn là “toả thanh thâu, trích từ bài “Tương kiến hoan” của Lý Dục thời Bắc Tống, Nguyễn Thị Bích Hải dịch.
(e) buộc tóc lên xà nhà: ý chỉ việc học hành khắc khổ, xuất phát từ điển cố về Tôn Kính thời Hán, thường đọc sách đến nửa đêm. Để tránh buồn ngủ, ông buộc lên xà nhà một sợi dây, rồi buộc tóc mình vào đó. Chỉ cần gục đầu là lập tức dây kéo ngược tóc lên, lại tiếp tục đọc.
(f) đâm vào bắp vế: ý chỉ việc học hành kiên trì, xuất phát từ điển cố về Tô Tần thời Chiến quốc dốc chí đọc sách, thường đọc đến đêm khuya. Mỗi khi buồn ngủ, dùng chuỳ đâm vào bắp vế mình để tỉnh ngủ, học tập rất kiên trì, cuối cùng có được một tri thức uyên bác.
(g) khoét vách trộm sáng: nguyên văn là “tạc bích thâu quang”, thành ngữ xuất phát từ điển cố Khuông Xung nhà rất nghèo, chăm học nhưng không có đèn đuốc, bèn khoét một lỗ nhỏ trên vách để đọc nhờ đèn hàng xóm. Thành ngữ ngụ ý nhà nghèo nhưng chăm chỉ học hành.
(h) thâu túi đom đóm, nhờ tuyết phản chiếu: nguyên văn là “nang huỳnh ánh tuyết”, “nang huỳnh” nói về Xa Dận thời Tấn, đêm đọc sách không có tiền mua dầu thắp. Mùa hạ, ông bắt mấy chục con đom đóm bỏ vào trong một cái túi nhỏ bằng vải mỏng, nhờ ánh sáng của đom đóm để đọc, cứ kiên trì như thế không hề ngơi nghỉ. “Ánh tuyết”nói về Tôn Khang thời Tấn, nhà nghèo không có dầu thắp đèn. Đêm mùa đông, ông thường ngồi xổm bên tuyết, nhờ ánh sáng phản chiếu của tuyết để đọc sách.
(i) lưỡi sáng hoa sen: nguyên văn là “thiệt xán liên hoa”, điển cố xuất phát từ “Cao tăng truyện” và “Tấn thư – Nghệ thuật truyện: Phật Đồ Trừng”, ý chỉ tài khéo ăn nói
Danh sách chương