Dì Tư Béo đã đi rồi. Cả bác tài công giàtrong đoàn thuyền vận tải quân lương và anh học sinh cô-le đã cho tôi chiếc áovét-tông, hiện giờ cũng không biết ở đâu.

Phải chăng những người mà số mệnh đã run rủicho tôi gặp họ trên đường giạt trôi vì khói lửa đều vội vàng tất bật buông rơitôi lại, bỏ tôi trơ trọi giữa đường? Mà tôi chỉ là thằng bé từ lúc còn lẫm chẫmbiết đi cho đến mấy tháng trước đây chưa hề rời khỏi thành phố mình sinhtrưởng. Hay đó là thử thách của cuộc đời đối với tôi chăng? Anh Sáu tuyên truyền bảo tôi về ở với anh.Ban ngày tôi theo anh ra quét dọn phòng thông tin, tô lại những khẩu hiệu cũ. Banđêm thì tôi bạ đâu ngủ đấy. Có khi tôi ăn và ngủ ở nhà anh, nhưng cũng có nhiềubữa tôi ăn cơm nơi nhà người khác, phần đông là các anh thanh niên trong chợ.Bởi họ thấy tôi dễ bảo có chút ít chữ nghĩa, lúc nào cũng sẵn sàng giúp họ viếtnhững khẩu hiệu xanh đỏ lòe loẹt bằng các thứ kiểu chữgô-tích, ba-tông, broa...Đôi khi tôi còn chịu khó ngồi nắn nót vẽ nhũng chữ hoa trên góc các vuông khănvải phin trắng còn thơm mùi hồ mà các chị phụ nữ Tiền phong đã cậy tôi vẽ để họthêu...

Tôi làm các công việc vặt này một cách saysưa, bởi đó là thích thú của tôi, đồng thời cũng muốn phô khoe chút tài khéoléo của mình. Anh Sáu tuyên truyền chẳng đã nhiều lần khen tôi là một thằng bécó "hoa tay" đấy ư.

Dẫu sao thì tôi cũng vẫn buồn. Cái hy vọnggặp lại ba má tôi và ngày mình có thể trở về thành phố quê hương cứ khuấy độngtrong tôi một nỗi buồn nhớ không nguôi.

Nhưng tôi tuyệt nhiên không hề hé môi thốt ramột lời than vãn. Thảng hoặc có một vài người nào đó lưu tâm hời hoàn cảnh giađình cha mẹ tôi ở đâu... thì tôi đều kiếm cớ nói tránh đi, hoặc lái câu chuyệnvề một hướng khác. Tôi không muốn thấy ai bày tỏ lòng thương hại đối với mình.Bởi vì, nói cho cùng chung đem lại một kết quả gì mà chỉ gây thêm tủi cực, xótxa hơn cho mình sau đó.

Tôi sống lần hồi ở xóm chợ này được đâu hơnmột tháng. Ban ngày, tôi có thể tạm quên nỗi buồn nhớ ba má tôi bằng cách đichơi đây đó, vui đùa với bọn nhỏ và các anh thanh niên. Nhưng ban đêm, tôithường giật mình thức giấc thấy mình nghiêng mặt trên cánh cánh tay gối đầu ướtđầm nước mắt..

Những con đường hàng me mượt mà lớp lá xanhnon sau những trận mưa đầu mùa, suốt ngày vi vu tiếng kêu của những bầy ongkhông ngớt bay lượn trên những chùm hoa, làm rơi lả tả những cánh hoa trắng béxíu trên đầu bọn học trò nhỏ chúng tôi. Những con đường hàng xoài, mùa quả nămnào cũng có những chú pô lít (Cảnh sát) áo vàng cứ trưa lại núp trong các ngõhẻm rình chộp lấy chiếc giàn thun (giàn ná, súng cao su) của mấy đứa trẻ trốnbố mẹ, vờ đi học sớm để ra đó bắn quả xanh... Những đêm thứ bảy, ba tôi thườngdắt tôi ra cầu tàu lục tỉnh ngồi xem ông thả mồi, buông một sợi câu rất dài,câu cá bông lau. Thành phố yên tĩnh dưới trăng khuya. Tiếng gió rì rào trênnhững ngọn dương trồng dọc con đường đá đỏ chạy cặp theo bờ sông Tiền Giang,lác đác một vài người đi dạo đêm đứng dưới cội cây, hoặc ngồi trên bậc cầu đánhìn ra dòng nước mênh mang nhấp nhánh ánh lửa thuyền câu.

Tôi đã lớn lên trong cái thành phố vừa đôngvui trù mật vừa yên tĩnh dịu dàng, tràn ngập một thứ gió sông nhiễm đầy mùi phùsa và nắng ấm đó cho đến ngày "đằng mình" cướp chính quyền.....

Lần đầu tiên, tôi nghe batôi nói hai tiếng "độc lập" với một vẻ mặt dầy xúc động:

- Bà nó ơi, độc lập rồi? Thằng An, mày cóbiết không, Tổ quốc ta từ nay độc lập rồi.

Ông lắp bắp nói như vậy, mặt mũi tay chân đỏbừng như con gà trống. Và bằng một dáng điệu rất tự hào, ba tôi đứng nghiêngđầu nhìn lá cờ đỏ sao vàng treo trên bục ảnh HỒ Chí Minh mà các anh thanh niênTiền phong vừa dựng Ở chỗ ngã ba đường, ngay trước cửa nhà tôi.

Trường học của chúng tôi đóng cổng mấy hômcho học sinh nghỉ ngơi đi biểu tình mừng ngày độc lập. Thành phố nhuốm màu đỏrực của băng, cờ, khẩu hiệu ngày đêm rầm rập bước chân của thanh niên, phụ nữTiền Phong, của Cộng hòa vệ binh, của các đội dân quân cách mạng vũ trang, củadân chúng từ các làng quận xa xôi kéo về tỉnh mừng ngày hội lớn có một khônghai đó. Thực ra thì bấy giờ tôi cũng không hiểu hết ý nghĩa của danh từ"độc lập" là ra sao cả. Chỉ biết rằng thằng cò Tây, bọn lính Tâytrong thành san-dá trước đây hay đuổi học sinh chúng tôi và thường bắt bớ đánhđập dân chúng, đã bị mình bắt bỏ vào khám sau một hồi chúng nó nổ súng lẹt đẹtchống cự lại ta, và bọn binh lính Nhật đóng trong thành phố lúc trước, giờ đâyra đường cúi mặt xuống, lê chiếc gươm dài như lê một khúc củi mục mà đi thấtthểu.

Và tất cả các công sở, nhà máy trước kia dobọn chủ Pháp, chủ nhật cai quản, nay đầu thuộc về mình.

Chưa được hai mươi hôm, bỗng xôn xao nghe tingiặc pháp lại nổ súng đánh ta ở Sài Gòn. Thành phố tôi còn đang vui tở mở nhưbọn trẻ chúng tôi thi chỉ qua một đêm nghe biến cố, đã trở nên nghiêm nghị nhưmột cụ già. Ông già Tám đánh xe ngựa ở sát cạnh nhà tôi lúc nào cũng sẵn sàngmột ngọn tầm vông, chỉ chờ dịp xông ra đâm chết lũ giặc. Người ta rèn vũ khí,người ta chuẩn bị lương khô, "ai có dao dùng dao. có mác dùng mác" -đúng như lời trong bảng hiệu triệu của hai ông Hoàng Quốc Việt và Cao Hồng Lãnhthay mặt Tổng bộ Việt Minh kêu gọi dân chúng xông ra bảo vệ nền độc lập của Tôiquốc mới phôi thai.

Này thanh niên ơi, đứng lên đáp lời sôngnúi...

Trong dêm dài mù mịt tầm tã giọt mưa rơi, haygiữa ngày nắng chói chang dưới ánh mặt trời nóng như thiêu như đốt ở khắp gócphố, bờ sông, ngõ hẻm, bãi chợ, đầu cầu trong những khu vườn ngoại Ô lan dàiđến tận ruộng đồng và các xóm làng xa, tiếng hát cứ bồng lên như sóng, âm vangchưa dứt đầu này đã nghe nổi.lên dồn dập ở chỗ cuối kia. Hình như không phải làngười ta đang hát, mà họ gào lên với tết cả tâm hồn khát khao yêu nước yêu độclập thì đúng hơn... Ủy ban nhân dân Nam Bộ từ Sài Gòn chuyển về đóng ở thànhphố tôi, binh sĩ bị thương ở các mặt trận chung quanh Sài Gòn - Chợ Lớn chở vềnằm chật các giường bệnh của y viện tỉnh. Ngày nào cũng có đoàn xe tô chở thanhniên Tiền phong, thanh niên Cứu quốc, cảm tử quân từ trong thành phố chạy rahướng Trung lương đi về các vùng Phú Lâm, Chợ Đệm, nơi đang diễn ra các trậnđánh ác liệt giữa các sư đoàn dân quân cách mạng với bọn giặc Pháp núp sau lưngbọn lính ăng-lê lính Ấn Độ mang danh nghĩa Đồng minh vào tước khí giới Nhật vàlén lút từ trong thành phố đánh ra.

Đêm, tôi thường rất ít ngủ. Giấc ngủ cứ chậpchờn trong tiếng bánh ôtô chuyển rung động phố chở thanh niên ra mặt trận,trong những lời hát sôi nổi bằng giọng trầm hùng của những anh sinh viên, họcanh cỡ lớn

“xếp bút nghiên lên đường tranh đấu, xếp bútnghiên coi thường công danh..."

Có khi tôi chiêm bao thấy mình đã lớn mặc áosơ mi trắng lồng vào quần sóc đen, đầu đội nón bàng rộng vành, bên lưng đeo daogăm, tay cầm tầm vông đứng gác trước trụ sở Uy ban nhân dân như một anh thanhniên Tiền phong thực thụ. "Đánh giặc cũng vui chứ Tôi thường nghĩ như vậyvà háo hức tiếc mình vì còn bé quá, không được theo các anh ra mặt trận.”

Giặc đã tiến xuống đến gần Tân An. Ta vẫn cònán ngữ ở hai đầu cầu quan trọng trên hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, thìchưa dễ gì chúng có thể tới tỉnh Định Tiếng này được...

Một đêm, tôi dang ngủbỗng giật mình choàng dậy.

Tiếng gì y như tiếng bọngiặc tấn công... Đùng... oang... áng… oàng

Hai chân tôi đạp lung tung mà cũng không rútra được khỏi chăn. Trong nhà tối đen. Một tiếng nổ, hai tiếng nổ, ba tiếng nổ.Rồi một tràng dài tiếng nổ liền theo, không đếm xuể nữa.

- Ông ơi? Tây tới rồi, ông ơ... ơ... oi! - mátôi hét thất thanh. Tiếng chân má tôi quờ quạng dò tìm đôi guốc.

Ba tôi đập mạnh tay xuống bàn:

- Im! Để nghe coi phải không đã? Làm gì màcuống lên... như giặc tới vậy?

Má tôi lại hét:

- Tây tới bên nách rồi, ông còn đứng đây chờnghe? An ơi dậy mau! Tây tới rồi, con ơi!

Tôi nhảy phóc xuống giường, dụi mắt lia lịa.Tôi chạy va đầu vào một cái ghế. Cả người, cả ghế ngã đổ lổng chổng. Tay tôi sờ soạng mãi vẫn không tìm được lối ra khỏibuồng.

Tiếng guốc chạy lốp cốp ra phòng ngoài. Nghehơi thở hổn hển vụt qua trước mặt, tôi lao tới ôm chầm lấy má tôi súng đại liênnổ pập pập... một tràng dài. Tiếng ào ào khủng khiếp chạy trên rời như một cáichổi khổng lồ bằng sắt quét không khí, cuốn theo những luồng gió hút ghê rợn.Trẻ con các nhà hàng xóm khóc vang dậy. Bỗng nghe cánh cửa chớp bật"kẹt" một tiếng. ánh điện đường ùa vào nhà sáng rực. Ba tôi đã đứng đấy,hai tay vịn vào thành cửa sổ, chồm người ra ngoài quan sát. Má tôi vẫn ngồitrên nền gạch, đầu tóc xòa tung phủ xuống mắt tôi.

Đôi mắt má tôi mở thao láo vì sợ hãi, hai bàntay bà run run ôm chặt lấy tôi. Tôi toan gỡ tay má tôi.để chạy ra ngoài xem thếnào, thì ánh diện ngoài đường vụt tắt.

Tiếng guốc khua lộp cộp bên các nhà hàng xóm,tiếng trẻ con khóc cũng đồng thời im bặt. Một sự im lặng mênh mông ập xuốngnặng nề ghê rợn. Đột nhiên tiếng súng lại đùng đùng... oang... oang nổi lên.Bây giờ, tới phiên có nhiều bà vừa gọi nhau vừa khóc. Trẻ con thì không phảinói. Chúng nó đã khóc thét lên khi tiếng đại bác bắt đầu nổ đợt thứ hai…

Má tôi móc được bao diêm trong túi ra, quýnhquáng đánh lên.. Que diêm cứ trật xoèn xoẹt ngoài vỏ bao. Tôi thớ đến cái côngtắc, bèn chạy đến chỗ bật đèn. Tôi cứ vẫn lắc cắc mãi mà trong nhà vẫn tối đen.Thôi, ngoài nhà máy đèn người ta đã cắt điện rồi! Xoẹt... xoẹt!... Lửa bỗng lòelên. Má tôi cứ cầm cái đèn trứng vịt chạy ra chạy vào.

Ngoài đường, tiếng người kêu thét, tiến chânchạy hỗn loạn. Xe thổ mộ chọc cán roi vào căm xe (nan hoa) khua lách. Ngựa nhảydựng, hí ran, gõ móng cồm cộp xuống mặt đường, tung vó phi nước đại. ô-tô rú gahù hù, rít phanh ken két, vừa hãm tốc độ máy xong lại hù hù mở máy rú lên lại.Chuông xe đạp leng keng... leng keng... không dứt. Người lạc gọi nhau. Trẻ conkêu khóc... Tất cả cuốn di, xa dần. Rồi lại từ từ kéo đến một tốp người khác,đông hơn, dài hơn. Tốp này đến tốp sau, liên tiếp vượt qua trước nhà tôi, chạyra khỏi thành phố như một cuộc đuổi bắt khổng lồ.

Trong ánh đèn dầu hỏa lù mù, giữa đống bànghế hỗn độn, đồ dạc tháo tung bừa bãi, má tôi cuống lên, loay hoay mãi vẫnkhông nhét được cái gì vào va-li. Cái gì má tôi cũng muốn mang theo, vừa bỏ ralại nhặt vào, lại bỏ ra.Ba tôi thì tỏ ra trầm tĩnh hơn. Những thứ nào không cầnthiết,ông vất ra ngay. Má tôi vừa giục, vừa càu nhàu vừa khóc Ba tôi không muốncãi nhau với má tôi trong lúc này, cứ thản nhiên thu xếp đồ đạc vào hai chiếcva-li.

Tôi đã lóc cóc chạy ra khỏi nhà, đứng nhìnđoàn người tản cư diễu qua như nước chảy. Hồi lâu, ba tôi dắt xe đạp ra nhậpvào toán ngươi thưa thớt vừa hớt hải chạy tới. Hai chiếc va-li to tướng, ba tôiđã đặt xuôi một chiếc lên ghi dông, một chiếc buộc sau booc-ba-ga. Má tôi khóacửa xong, tay cầm nón không kịp đội, tay xách chiếc làn mây nhét linh tinh từchai nước mắm đến cái bàn chải đánh răng, hối hả chạy theo ra đường.

Trời chưa rạng, nhưng một thứ ánh sáng taitái đã vươn nhẹ trên những đầu cây mận còn im lìm ngái ngủ trước sân những ngôinhà nhỏ, cửa đóng chặt, chắc là chủ nhà cũng vừa rời đi trước chúng tôi khônglâu. Trong các xóm vườn trồng cây ăn quả, có bóng những người đàn ông cởi trầnhiện lờ mờ trong sáng, đang chạy đuổi bắt heo, bắt gà vịt. "Thực hiệntriệt để vườn không nhà trống khi giặc đến", tôi nhớ tới khẩu hiệu dán chỗngã ba nhà tôi mấy hôm trước, và lia cặp mắt thán phục nhìn theo bóng nhữngngười đàn ông cởi trần chạy thấp thoáng trong các vươn cây. Đi một quãng, tôigặp bọn thằng Phi, thằng Tính mặc quần sóc tuýt-xo, áo sơ mi thả cúc, đứng giữađường cạnh chiếc ô-tô mui hòm sơn đen chết máy đỗ bên lề hai anh em nó thấy giađình tôi lích kích đẩy chiếc xe đạp thồ va-li cồng kềnh ngang qua, chúng nóthọc tay vào túi quần, nhe răng cười. Dường như chúng nó cười chào.... mà thựcra không phải cười chào. Coi bộ chúng nó không có vẻ gì lo lắng cả. Ba nó ưỡncái bụng to ra, dừng bên gốc cây vẫn phì phèo hút thuốc lá thơm, xem người tàixế loay hoay chui dưới gầm xe chữa máy. Má nó thì ngồi nhai trầu trong xe bêncạnh có người vú em đang bung búng vào những sợi dây dàn để dỗ em nín khóc. Chotới cả cây đàn măng-đô-lin, chúng nó cũng mang theo chơi trong lúc chạy giặc!

Tôi bỗng chợt nhớ mình còn quên một món ởnhà, toan chạy trở lại. Nhưng ba tôi lừ mắt nhìn tôi, và ông cứ cắm cúi đẩychiếc xe đạp cồng kềnh vượt sang ngã ba Đạo Ngạn. Chúng tôi đã ra khỏi thànhphố rồi, có quay lại cũng không kịp. Huống chi cửa nhà tôi đã khóa chặt, mà máthì nhất định không trao chìa khóa cho tôi.

Ôi, cái địa bàn bằng quả trứng có cây kimđồng hồ quay quay chỉ về hướng bắc của anh Ba thủy thủ cho tôi năm ngoái, nócòn nằm trong ngăn kéo bàn học, bên cạnh hộp thuốc màu Lơ-phơ-răng và xấpcác-pốt-tan( Bưu ảnh) in đủ hình phong cảnh năm châu bốn biển... Tại sao tôilại có thể quên cái "tài sản quí báu ấy của mình được? Tôi đâm ra giận mátôi. Đến chai nước mắm bà vẫn còn nhớ mang theo, thế mà những thứ ấy bà lạikhông nhớ giùm tôi.

Không biết hiện giờ anh Ba thủy thủ thân mếncủa tôi ở đâu? Anh có nhập vào Cộng hòa vệ binh chặn đánh giặc Pháp ở nơi nàođó không Hay anh đang lênh đênh trên một con tàu giữa biển khơi mà không biếtrằng giờ đây, giặc Pháp đang đuổi tôi chạy hộc tốc thế này? Chân bước đi mà mặttôi cứ ngoảnh lại nhìn về thành phố. Mấy đứa bạn nhỏ cua tôi ở bên kia đầu cầuquay, vùng chợ cũ, xóm Đình, xóm cả, chắc đã chạy vế hướng chùa Vinh Tràng đổvề Gò Cát, Bến Tranh rồi... Chà, mai mốt đây cánh thanh niên đuổi giặc ra khỏithành phố, chúng tôi lại quay về gặp nhau, tha hồ mà kể dủ thứ chuyện nhé?

Tôi vừa có phần lo, lại vừa có phần vui. Cógì đâu mà má tôi lại mặt xanh mày xám thế kia? Lâu lâu, tản cư một lần thế nàycũng vui như cái bận quân Đồng minh ném bom bọn Nhật, đi ít hôm lại về: Lúc về,trong các buổi đến trường gặp nhau chúng tôi càng thêm nhiều chuyện vui hơntrước.

Chạy nhanh lên bà con ơi!

Tiếng kêu của một người nào đó khiến chúngtới giật mình quay lại. Cây đang bị chặt ngã, đổ rầm rầm phía sau. Thanh niênbắt đầu đốn cây chặn đường, ngừa giặc tiến về hướng này. Người ta kháo nhau:thằng Tây khôn lắm! Nó chẳng dại gì từ Tân An đánh xuống. Nó vòng ra biển rồibất ngờ từ cửa Gò công thọc lên. Mình không đề phòng mặt đó thì đến trời cũngchẳng kịp trở tay". Một tiếng nổ vọng rền từ trung tâm thành phố. Cột khóiđen sì cuồn cuộn bốc lên. Một chỗ, hai chỗ, ba chỗ lửa đã cháy khắp nơi trongthành phố, từ trên bẹ một ngọn dừa cao chót vót, một cụ già đứng che tay lênmắt, nhìn theo các cột khói.

- Tây chiếm Mỹ Tho rồi, bà con ơi - Tiếng kêuthất thanh của ông lão tắt giữa những tràng tiếng súng liên thanh nặng nổpãp... pập và tiếng đạn bay vui víu trên trời.

Hai hôm sau, chúng tôi chạy tới Cai Lậy, cáchthành phố tỉnh ly chừng ba tầm súng đại bác. Thị trấn vẫn đông vui, chợ nhómtấp nập như thường nhưng không khí chuẩn bị chiến đấu có phần sôi nổi và cănghơn ở tỉnh Ba má tôi vào ở nhờ nhà một người bà con. Không hiểu sao tôi cũngbắt chước điệu bộ quái quỉ của anh em thằng Phi, thằng Tính, thọc hai tay vàotúi quần sooc, nhẩn nha đi dạo phố. Tôi đứng xem các anh thanh niên nông dânmặc quần áo nhuộm màu phèn, tóc tai bù xù từ các thôn ấp xa xôi vác tầm vôngnối nhau kéo vào thị trấn. Trông cũng khí thế lắm. Họ ít nói, ít cười, mặt lầmlầm. Chắc là đánh giặc khá lắm. Nhưng họ xếp hàng từng tiểu dội đi la mác, chântay con chệch choạc, không được đều bước và oai như các anh thanh niên ở tỉnh.Tôi chỉ phục nhất có cậu Lê Văn Tám ở Sài Gòn. Ngày nào tôi cũng vào phòngthông tin xem tranh, đọc báo "Kèn gọi lính" để về kể lại cho má tôinghe. Cậu này cũng cỡ tuổi tôi thôi, có khi còn bé hơn, thế mà dám tẩm dầu vàongười đốt kho xăng địch thì bảnh thật Người họa sĩ nào vẽ bức tranh "Em bétẩm dầu, đã tô nhiều ngọn lửa quá, khiến tôi chỉ thấy có đôi mắt sáng ngời củacậu bé, còn cả ngươi cậu ta thì đỏ rực như một cây đuốc ấy! Giá tôi có mang hộpthuốc màu theo thì tôi cũng bắt chước vẽ một bức như thế này để khi nào trở vềđưa ra treo ở lớp học.

Thường trong lớp, tôi là đứa học trò vẽ giỏinhất. Thầy giáo đã nhiều lần khen, bảo tôi vẽ những hình con bọ dừa, con bướmphóng đại to như cái quạt treo lên bảng làm bài học cho cả lớp kia mà!

Tôi chẳng đủ thì giờ nghĩ lan man những chuyệnđâu đâu nữa. Tôi ở Cai Lây độ tuần lễ thì giặc Pháp mò lên. Gia đình tôi lạichạy về hướng Cái Bè. Chúng tôi cứ chạy truy tầm đại bác của giặc. Rồi Cái Bècũng mất. Gia đình tôi chạy vào đồng ruộng. Chiếc xe đạp vướng lắm, ba tôi đembiếu nó cho các anh tự vệ dùng để chạy liên lạc trên đường quốc lộ...

Bây giờ thì tiếng súng nổ rền bốn phía chungquanh, không còn biết đâu là đâu nữa. Chúng tôi quá giang theo xuồng của đồngbào đi vào chợ Thiên Hộ( Thiên hộ dương tên một người anh hùng chống pháp ở đồngháp mười ).

Những người nông đần sẵn sàng giúp đỡ ba mátới đủ mọi thứ. HỌ cho gạo thổi cơm, cho mượn xuồng đi chợ...

Những thằng bé con còn dạy tôi cách cầm chĩaba mũi phóng cá rô dưới kênh... Ở đây cũng thú, chỉ phải cái muỗi và đỉa thìquá lắm! Nhiều đến phát khiếp? Đứng ở sân chợ nhìn về quảng đông, chỉ thấy đồngcỏ mịt mùng, lau sậy nối liền với chân trời. Hóa ra đồng tháp mười là chốn nàyđây. Tưởng ở yên, nhưng chưa được mấy hôm, tàu bay giặc đã ầm ầm ù ù bay lượndọc theo các xóm bờ kênh bắn xuống như trấu vãi. Thế là chúng tôi lại đi.

Qua Mỹ An, qua Cái Bèo,chúng tôi lại đổ ra hướng sông Tiền Giang.

Những làng mạc êm đềm, bóng dừa bóng chuốiche rợp các khu vườn mát rượi đất phù sa, con đường đất nhỏ lượn trên bờ rạchnước đầy ăm ắp soi bóng những cây sầu riêng, măng cụt... Những ngôi nhà mái đỏthấp thoáng trong các khu vườn xoài... Tất cả những nơi mắt tôi nhìn thấy, chântôi bước qua đều đã mất đi sự bình yên phẳng lặng của nó, không khí chiến tranhđã tràn về tận các thôn ấp xa xôi nhất... Và cũng từ những thôn ấp xa xôi, bìnhyên phẳng lặng ấy, những anh thanh niên, những chị phụ nữ, những em bé, nhữngcụ già chất phác hiền lành cũng đã cầm lấy vũ khí thô sơ. Chao ôi! Những ngườinông dân xưa kia đi vào thành phố thì củ mỉ cù mì, chẳng thấy nói một câu, bướce dè, sợ sệt từ thằng lính mã tà(lính gác đường) cho đến con mụ góp tiền chỗ,nhẫn nhục mỉm cười trước những cặp mắt rẻ khinh của bọn người thành phố ăntrắng mặc trơn, thì bây giờ, họ đà vùng lên một cách dũng mãnh, sẵn sàng laovào cái chết để chặn giặc, sẵn sàng cưu mang giúp đỡ những con người đã rời bỏđô thị chạy đi trước khi giặc tới? Và dù miệng họ không nói ra được ý nghĩ củamình bằng những danh từ bóng bẩy văn hoa, nhưng hành động của họ lại thiết thựcvà anh dũng biết bao trước lời kêu gọi của Tổ quốc lâm nguy...

Tiến lên đường máu, quốc dân Việt Nam!

Non nước nát tan vì quânthù xâm lấn.

Đồng bào mau hiệp sức rađấu tranh.

Đi đi... nước mất sao tanỡ đành...

Tiến lên vì nước, thù kiata đánh lui

Tiến lên đường máu, núisông sáng ngời...

Trong tiếng sóng ầm ầm của dòng sông Cửu Longngày đêm không ngớt thét gào, tiếng hát của họ vờn bay như một cơn bão lốc, âmvang khắp mọi nơi, khi thì như thúc giục gọi kêu, khi thì như giận dỗi tráchmắng, lúc lại nghe như buồn bã âu sầu, lúc lại cuồn cuộn lên đầy phẫn nộ... Haylà vì từ trong tấm lòng thơ bé của tôi, từ lúc tâm trạng buồn vui khác nhau làmcho tôi nghe ra như thế, tôi cũng chẳng biết nữa?

Chúng tôi đã vượt sông Tiền Giang và mò mẫmlần hồi, hơn tháng sau đã nghe tiếng sóng vỗ. bờ của dòng sông Hậu Giang trướcmắt. Đến đây thì sức má tôi đã yếu lắm. Có những đêm không chạy nổi nữa, chúngtôi phải dừng lại.ngủ giữa cánh đồng trơ trụi, quần áo ướt đẫm sương, có khiphải đội mưa đi suốt ngày; mệt vẫn không dám nghỉ, đói vẫn không kịp ăn... Losợ và cực nhọc đã quật má tôi ngã xuống mấy bận ở dọc đường. Tai hại nhất lànhững cơn sốt liên miên kéo dài, làm cho con người gầy gò như má tôi mỗi ngàymột kiệt di. Nhiều bữa, má tôi không ăn uống gì, nằm thở mệt nhọc, bàn tay lạnhngắt cứ nắm chặt lấy tay tôi. Nhưng đến khi nghe tiếng súng nổ, thì má tôi lạitức khắc ngồi dậy, nhanh nhẹn thu vén đồ đạc, dắt tôi chạy theo đoàn người tảncư.

Hễ có dịp dừng lại một nơi nào yên ổn, là ynhư một chốc sau, tôi đã lẻn trốn má tôi, nhập bọn với đám trẻ, con những ngườitản cư khác và bọn trẻ địa phương chưa hề quen biết bao giờ. Chúng tôi đi thậtxa, ra tận giữa đồng, hoặc chui vào những khu vườn rậm để người lớn không tìmthấy, ở đó chúng tôi mặc sức bày ra đủ các thứ trò chơi mà trước kia ở thành phốtôi chưa hề nghĩ ra. Chỉ cần một cái mo cau rụng và mươi cọng sậy là chúng tôiđã làm thành chiếc cộ hai ngựa kéo, đưa viên tướng cởi truồng đầu đội mũ tết láxanh di "quan sát mặt trận theo sau có cả tiểu đội trẻ em bồng súng theohầu. Với vài bẹ chuối cắt ngắn, cắm đầy que khô thả xuống. con mương nhỏ, thếlà chúng tôi đã có cả một đội hải thuyền rồi. Còn đạn trái phá thì tha hồ, cứnhặt quả mù u rụng ném xuống lệnh uỳnh" làm cho bẹ chuối dập dềnh, nước cóbắn tung tóe ướt cả áo quần cũng mặc... Chúng tôi bày ra rồi lại phá đi, ngàynày qua ngày khác, nhiều trò chơi cứ lặp lại mãi không đứa nào thấy chán.

- An ơi? Ba má chỉ có mỗi mình con. Giặc bắnphá lung tung mà con chẳng biết lo lắng chút gì! Còn cứ mê chơi đi lung tung,rủi ro bị lạc, hay có nguy hiểm gì xảy ra thì ba má biết con ở đâu mà tìm! - Mátôi thường rầu rầu nét mặt bảo tôi như vậy.

Tôi thương má tôi lắm. Những lúc ấy thì giácó trời xuống rủ đi chơi tôi cũng chẳng đi. Tôi rơm rớm nước mắt, cúi mặtxuống, lòng buồn thỉu buồn thiu.

Nhưng nước mắt và cái buồn của trẻ thơ mauđến và cũng mau tan, như những giọt mưa bóng mây thôi. Quẩn quanh bên chân mátôi được vài buổi, tôi lại lén theo bọn nhỏ, chạy nhảy reo hò như một đám quỉranh, hoặc lại đi chơi xa cùng chúng nó.

Một buổi trưa, tôi lẽo đẽo theo mấy đứa chăntrâu mò vào đầm sen bắt cá thia thia. Bỗng có hai chiếc tàu bay khu trục đen sìầm ầm bay tới. Như hai con ác điểu khổng lồ, chúng gào rú lượn lên sà xuống,quần trên đầu xóm bờ sông, chỗ đám người tản cư vừa dừng lại ban sáng. Bom rơixuống từng chùm, trông rõ mồn một. Tiếng bom nổ rung rinh cả mặt nước đầm sen.Súng bắn dữ đội. Dường như chỉ có tiếng súng trên trời bắn xuống.

Khói cuồn cuộn phủ mất những đầu cây cao nhấtmọc dọc theo bờ sông. Bọn chăn trâu mặt xám ngoét, vất rổ chạy tứ tung. Mãi đếntối, lửa vẫn còn cháy đỏ khắp làng.

Tôi lần về đến nơi thìkhông.thấy ba má tôi đâu nữa.

Ngôi nhà chúng tôi vào nghỉ nhờ ban sáng giờchỉ còn lại mỗi đống tro, và những cây cột than gãy đổ vẫn còn đang nghi ngútcháy.

- Còn ở đây à? Giặc đổ bộ rồi, không biếtsao?

- Nó đổ bộ lên... ở đâu,anh?

- Đóng ở trong đình ấp dưới chứ còn ở đâu!

Một anh thanh niên tự vệ cầm tầm vông đi quagặp tôi đã bao tôi như vậy. Tôi hỏi thăm ba má tôi, anh chẳng biết. Tôi hỏi rấtnhiều người khác nhưng chẳng ai biết cả. Họ bảo tôi cứ chạy dọc bờ sông, đi vềhướng ấp trên xem may ra có gặp không.

Tôi trượt lên ngã xuống, lần theo vết chânnhững nơừơi chạy trước mà đi mãi. Tôi cũng không biết mình đi đâu Đến một ngãba sông thì cùng đường. Tôi ngồi xuống một gốc cây xa-kê? Chờ xem có chiếcxuồng nào tới để xin quá giang sang bên kia bờ.

Đêm tối quá. Trời lại lấc rắc đổ mưa. Tôiquên cả mệt cả đói quên cả giặc đằng sau lưng, chỉ lo không tìm được ba má tôi.Vào khoảng nửa đêm thì có một đoàn thuyền vận tải ngang qua... Tôi đã gặp anhhọc sinh cô-le và bác tài công già tốt bụng, và họ cho tôi xuống thuyền.

Họ bảo tôi cứ đi theo họ, rồi sẽ tìm gặp bamá nay mai thôi. Cho đến bây giờ, rốt lại thì tôi vẫn ngồi một mình ở đây.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện