Chỉ trong vòng không đầy hai tháng, mà đã có haitên Việt gian gián điệp lợi hại và một thằng Pháp bỏ mạng vì tên tẩm thuốc độc.Thứ vũ khí thô sơ thời Trung cổ, lặng lẽ từ trong cành xanh phóng ra, đem lạicái chết bất thình lình không phương cứu chữa - sự việc ấy đã gieo vào đầu ócbọn giặc đang cầm những khẩu súng hiện đại trong tay một nỗi khiếp đảm khôn lường.Càng sợ, chúng càng lồng lộn lên một cách dữ dội để tự trấn tĩnh và động viêntinh thần bọn ngụy. Chúng đưa thêm tới ba tiểu đoàn, mở những cuộc càn quét báothù liên miên khắp các vùng rừng chung quanh. Những ngôi lều của thợ đốn củi ởtít mãi trong rừng sâu cũng bị chúng mò tới đốt trụi. Chúng bắt dân phải dỡ nhàvề ở chung quanh đồn để làm vòng rào người, và đóng thêm bốn lô-cốt ở mấy nơihiểm yếu dọc bờ sông. Ngôi lều của tía nuôi tôi cũng đã làm mồi cho ngọn lửacủa giặc Pháp. Cả nhà chống thuyền sống lay lắt qua ngày trong các vùng đầm lầyvà trong các khu rừng ngập nước.
- Đànhphải đi về vùng U Minh hạ thôi, ông à!
Mộthôm má nuôi tôi thở dài, bàn với tía nuôi tôi như vậy. Bà ngồi trong mui thuyềnchật chội, nhìn ra những làn mưa trắng tuôn mù mịt xuống ngàn xanh, chậc lưỡi.
- Chỉ lo cho hai thằng bé. Dầm mưa dãi nắngthế này, rủi chúng ốm đau nằm xuống thì lấy gì mà thang thuốc!
- Mười mấy năm trời, quen thuộc ở đây, tôikhông nỡ bỏ đi...
Tía nuôi tôi đáp, giọngrầu rầu.
- Nhà ở đâu tức quê hương ở đó. Vậy trước kiathì ông và tôi ở đâu? Ông sao câu nệ quá vậy? Tôi vì hai đứa nhỏ... chứ không,tôi cứ mặc cho ông muốn ra sao đó thì ra...
Tía nuôi tôi không đáp. Ông ngồi cầm cái tẩudài quăn queo, gõ gõ thành tẩu vào gót chân, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn mộtvài giọt mưa từ trên mui lá rơi lộp độp xuống giữa khoang thuyền ẩm ướt. Đêmhôm đó, chúng tôi chống thuyền ra sông. Cả gia tài chúng tôi, ngoại trừ mấy cáinồi cái niêu và một ít quần áo cũ, thì chỉ còn có mỗi chiếc thuyền này thôi.Lúc ngang qua chỗ ngôi mộ Võ Tòng, tía nuôi tôi dừng thuyền lại, bước lên bờ.Thằng Cò sợ ma, ngồi sát vào bên má, lại còn ôm thêm con chó vào lòng. Tôi bướclên theo tía nuôi tôi. Trong bóng tối lờ mờ, dưới vòm trời ảm đạm le lói mộtvài ngôi sao xa lắc, ông đang ngồi phệt bên nấm mộ, đầu cúi xuống, bàn tay lơđễnh đưa đi đưa lại nhổ những cọng cỏ dưới chân. Nghe tiếng chân giẫm sột soạttrên cỏ ướt, tía nuôi tôi ngước lên nhìn và vẫy tay ra hiệu cho tôi ngồi xuốngbên ông.
-Tôi và thằng cháu lên từ biệt chú nó đây!
Tía nuôi tôi ngó vào ngôimộ nói bằng giọng mũi ngạt ngạt.
- Tôi chỉ dùng được có một mũi tên trong sốhai mươi chiếc chú đã trao cho tôi... Nhưng tôi chắc rằng dưới suối vàng, chúđã có thể ngậm cười mà yên nghỉ...
Dứt khoát tôi không tin rằng người chết cólinh hồn. Nhưng cái giọng trầm trầm của tía nuôi tôi đang nói với ngôi mộ, đồngthời tôi chợt nhớ lại bàn tay vuốt cặp mắt trừng trừng khiến cho đôi mắt khéplại, chính con người ấy đã nằm xuống dưới đất ngay trên chỗ tôi đang ngồi đây,việc ấy đã làm cho tôi thấy rờn rợn. Tía nuôi tôi dặng hắng mấy tiếng rồi quaysang tôi:
- Thằng An có nhớ con vượn bạc má của chú VõTòng không? - Á, nó đâu rồi, tía?
Tôi hỏi lại ông như vậy,chứ tôi đã đinh ninh là nó chết trong trận cháy rừng rồi.
- Con vật ở rừng còn có nghĩa, huống chi conngười. Hôm Tây đốt rừng, chú Võ Tòng đi vắng, buộc nó ở lều. Nó bứt xích chạythoát được. Người ta trông thấy một đoạn xích bị giật đứt, còn lủng lẳng ở cổnó mà đoán ra như thế... Sau đó nó trở về ngồi trên nền cũ, không ăn không uốnggì rồi chết rũ xương ở đó. Có người qua ngang đấy, về thuật chuyện lại cho tíanghe, con ạ.
- Hôm tía với con từ trong rừng chống xuồngvề, có qua ngang đó. Lúc bấy giờ nó chưa về, tía nhỉ? Giá nó về thì mình gặp nórồi.
Tía nuôi tôi đứng dậy thở dài, rồi bảo tôixuống thuyền. Ông còn quay lại, lom khom nhặt hòn đất đặt lên ngôi mộ rồi mớibước theo tôi. Nước mỗi ngày một chảy xiết, và dòng sông càng đi tới càng mởrộng mênh mông. Đứng trước mũi thuyền chèo cập bờ bên này mà nhìn sang bờ bênkia, chỉ thấy một vệt dài xanh thẫm của rặng dừa nước lờ mờ trên đầu ngọn sóng.Chúng tôi đi ròng rã ba ngày ba đêm, chỉ trừ những lúc phải dừng lại thổi cơmăn, còn thì cứ luân phiên nhau chèo. Mấy hôm liền, trời vẫn nắng gay gắt. Mặtsông lao xao phản chiếu ánh mặt trời như một dòng thủy ngân cuồn cuộn trôi vềhướng biển. Mây đen từ chân trời đùn lên, vẩn hình mặt quỷ, rủ nhau quần tụ mộtchỗ không chịu bay đi. Rồi dông kéo tới ào ào, mưa như trút nước xuống như thácđổ hơn một ngày đêm. Sóng gầm thét không lúc nào ngớt. Chúng tôi phải chuithuyền vào núp trong một rạch lá dừa nước um tùm, chờ cho dứt cơn mưa dữ mớiquay ra sông chèo đi.
Một buổi chiều, tía nuôi tôi cho thuyền cậplại bên ngôi quán lá cất nhoai ra bờ nước. Chúng tôi buộc thuyền vào trụ sàncầu, nơi đã có hai chiếc tam bản lớn của những ông khách ngồi trong quán cắmsào đỗ lại đó từ bao giờ. Thấy có người đến, họ ngóng cổ ra nhìn rồi lại quayvào tiếp tục cuộc rượu bày trên chiếc bàn tròn giữa quán. Tía nuôi tôi rướnngười bước lên sàn cầu lát toàn bằng những cây mắm nhỏ. Cứ mỗi bước ông đi tới,những cây mắm lại kêu lắc rắc dưới chân. Con Luốc lập tức phóng lên theo. Tôigọi "Luốc! Luốc!" và lấy cớ đuổi theo giữ con chó để nhảy lên theonó. Một con kỳ đà bị trói chặt bốn chân bằng sợi dây thép, nằm khoanh gần chỗcửa. Con Luốc xô tới, chồm chồm vào con kỳ đà sủa váng lên. Bấy giờ, ba ngườikhách rượu mới quay ra, gật gù, vẻ như muốn chào làm quen với tía nuôi tôi. Mộtông cụ già cởi trần, râu quăn queo, vận xà-rông đen, đầu bịt khăn lụa đỏ, ngườicao lớn như tía nuôi tôi, đứng lên cất giọng ồm ồm:
- Chào ông bạn!
Hai người đàn ông kia hơi có tuổi, gầy gò,đầu cạo trọc như nhau, mỗi người vận một cái khố nhuộm màu vỏ cây. Họ giốngnhau một cách rất buồn cười, chỉ khác là một người thì cao quá, còn một ngườilại thấp quá. Cả hai cùng đứng lên gật đầu chào tía nuôi tôi. Tía nuôi tôi đứnglại nhìn họ một lát rồi bỗng nhiên ông chếch cánh tay phải lên, tay trái áp vàongực, nghiêng người tới trước, nói cách trịnh trọng:
- Kính chào các ông bạn!
Ba người kia vội vã cùng một lúc đưa tay lênchào đáp lễ y như kiểu chào của tía nuôi tôi. Tôi đứng ngớ ra nhìn, ngạc nhiênquá đỗi. Về sau, mới biết đó là lối chào ra mắt của các phường săn cá sấu khigặp nhau muốn tỏ tình thân. Chủ quán là một ông già lùn tịt, lật bật như conrối, từ sau bếp chạy ra, vác một gộc cây đặt xuống cạnh bàn rượu, giọng lăngxăng:
- Mời ông khách! Mời ông ngồi xuống đây!
Mùi thịt nướng từ trong bếp bay ra khét lẹt.Và khói cũng từ trong cái bếp lò thấp thoáng sau quầy rượu cuồn cuộn bay ra, nhưlàn khói đốt đồng cỏ tháng tư.
- Cháy miếng thịt mất rồi!
Tôi vội kêu lên, và thản nhiên không chú ýtới mọi người ngồi đó, cứ đi thẳng một mạch vào bếp. Tôi cầm cái que cời dậpbớt than, rồi trở gắp thịt đặt lên nướng phía bên còn chưa chín.
- Để đó cho qua, chú em!
Ông chủ quán chạy vào, vừa nói líu ríu bằnggiọng khen ngợi vừa với tay cầm chai rượu dựng bên cạnh lò. Tôi đáp cách bìnhthản, nhưng cũng rất tự hào:
- Cháu giúp bác một tay, được mà!
Rồi tôi mỉm cười một mình, chợt nhớ tới"thằng bé hầu rượu" trong quán dì Tư Béo. Ông cụ già bịt khăn lụa đỏđỡ lấy chai rượu trên tay chủ quán, rót đầy vào một cái bát lớn đặt giữa bàn màhọ đã uống vơi gần quá nửa.
- Kính mời ông bạn! Làm một hớp cho ấm bụng.Chẳng hay ông bạn từ đâu tới?
Tía nuôi tôi đáp, giọng từ tốn:
- Tôi là người vùng U Minh thượng... GiặcPháp đã vào tới đó. Nay lênh đênh phiêu giạt... Còn chưa biết về đâu.
Hai người đàn ông đầu cạo trọc đưa mắt nhìnnhau. Tía nuôi tôi bưng bát rượu lên nhấp một hớp; chừng như đoán ra ý họ, ôngđặt bát rượu xuống bàn, nói chậm rãi:
- Phải, tôi là người U Minh thượng. Nhưngnguồn cội tận xứ Tiền Giang kia. Thuở còn trẻ tráng, tôi cũng đã lặn lội nhiềunăm trong nghề hạ bạc. Nghèo như chiếc lá rụng xuống dòng sông, nước trôi tớiđâu mình theo tới đó. Bấy nay tôi theo nghề rừng, chẳng qua cũng vì mưu sinhtheo hoàn cảnh, chuyện đó có chi là lạ...
Người đàn ông thấp lùn tức thời đứng phắtdậy, dang tay ra ôm tía nuôi tôi, cười ha hả:
- Vậy thì huynh ông neo lại khúc này, trở vềnghề cũ, chúng ta hiệp nhau làm ăn, được chứ?
Tía nuôi tôi cười cười, chưa đáp ra sao. Tôigiúp ông chủ quán dọn thịt nướng ra bàn và gọi thằng Cò lên xem ông giết thịtcon kỳ đà. Tôi cứ chạy ra chạy vào, khi thì quạt lửa, khi thì lấy tí muối ớt,khi thì rót thêm mỡ rái cá vào đĩa thịt tự tôi tìm thấy trong bếp và mang rabàn rượu. Tôi cảm thấy mình bận rộn nhưng vui vẻ như thằng bé hầu rượu trướckia. Chẳng mấy chốc mà họ đã uống cạn hai lít rượu, thứ rượu ngon nhất mà ôngchủ quán bảo chỉ để dành riêng cho khách quen sành sỏi. Rượu vào thì lời ra. Họnói đủ thứ chuyện về sông nước, và trong câu chuyện đã bắt đầu xưng hô anh anhchú chú cởi mở thân mật. Dường như ba ông khách rượu ấy và tía nuôi tôi lànhững người bạn cũ, xa nhau lâu ngày, giờ mới tình cờ gặp lại vậy. Khi biết ôngbạn phương xa vừa tới có "bà nội tướng" đang thổi cơm dưới thuyền,ông cụ già bịt khăn đỏ bèn trịnh trọng bước ra sàn cầu, chắp hai tay trước ngựchướng vào mũi thuyền, sửa giọng kính cẩn:
- Chẳng mấy thuở được gặp anh Hai... Xin kínhmời chị Hai quá bước lên quán, dùng một chén rượu mọn với anh em chúng tôi.
Má nuôi tôi "cám ơn" và từ chối nămlần bảy lượt không xong, đành phải đội khăn bước lên quán. Món thịt kỳ đà nấuca-ri nước cốt dừa cũng vừa bưng dọn ra bàn bốc khói thơm lừng. Cả gia đìnhchúng tôi, ba ông phường săn kỳ dị và ông chủ quán lùn tịt cùng ngồi vào bàn,dùng bữa cơm tối một cách hết sức vui vẻ. Cả con Luốc cũng có phần một bát thịtto tướng trộn cơm nguội mà ông chủ quán đã có "nhã ý" dọn riêng chonó trước sàn cầu.
- Bao giờ giặc tấn công tới đây, chúng ta sẽliệu. Còn bây giờ, làm nghề cứ lo làm nghề. Còn phải nghĩ tới miếng sống chứ.Tôi nói vậy, liệu có phải không chị Hai?
Người đàn ông cao lêu nghêu bắt đầu làm quenvới má nuôi tôi bằng câu mở đầu ấy. Người đàn ông thấp lùn vội nói tiếp theo:
- Ắt chị Hai vui lòng để anh Hai cùng đi làmăn với chúng tôi chứ?
Má nuôi tôi cầm bát lên tay, nhìn tía nuôitôi:
- Xin các chú hỏi ông nhà tôi. Chứ tôi là phận đàn bà!
Ôngchủ quán ngứa miệng, vung hai tay lên:
- ChịHai còn theo xưa quá. Người ta nói nhất vợ nhì trời mà!
Mọingười đều cười, khiến ông chủ quán cứ xoay quanh hết nhìn người này đến nhìnngười khác, lắc la lắc lư ra vẻ đắc chí với câu pha trò của mình lắm. Khôngbiết có phải vì có mặt má nuôi tôi mà các ông già trở nên lịch sự, vui vẻ và hoạtbát hẳn lên không? Ông cụ già bịt khăn đỏ hỏi má nuôi tôi một cách khoan thai:
- Ngàyxưa, chị Hai cũng theo nghề câu chứ?
Mánuôi tôi lắc đầu:
- Tôisợ lắm. Chỉ có ông nhà tôi thôi. Tôi chỉ câu lòng tong cá chốt, chứ thứ đó tôisợ lắm!
Ngườiđàn ông cao lêu nghêu nhếch mép cười, bàn tay đưa lên gãi gãi cái đầu trọc nhẵnthín:
- Nóikhông phải phô phang với chị Hai và các anh tôi đây, chứ thuở mười ba mười bốntuổi, tôi đã theo ông nội tôi đi bắt cá sấu như bắt cá lóc rộng trong khạp vậythôi. Vào mùa khô, chúng tôi lội vào rừng cỏ, men theo những cái bàu giữa rừngtìm cá sấu. Hồi đó, cá sấu còn nhiều lắm. Bàu nào cũng có. Không nhiều thì ít.Tệ lắm cũng năm bảy con trở lên. Bà con quen gọi là ao cá sấu. Chọn được ao sấunào có nhiều sấu hoa cà rồi, chúng tôi mới phát sậy, phát cỏ rũ xuống phơi nắngvài ngày cho khô. Dùng thuổng đào một đường nhỏ từ mé ao lên rừng, càng xa bờcàng cạn dần, chừng mươi thước. Sau đó mới ôm sậy, cỏ khô thả xuống cho phủ kínmặt bàu và ném lửa đốt cháy...
ThằngCò buột miệng hỏi:
- Chosôi nước, cá sấu chạy lên bờ phải không chú?
- Cậuem này đoán gần đúng! Nhưng không phải vậy đâu. Nước lênh láng cả bàu, làm gìsôi được? Ừ, mà nếu mình thả bổi khô xuống thật dày, thả liên tục, đốt nóngnước thì nó cũng có thể chạy lên... Thả bổi xuống rồi, mình ném lửa đốt cháy.Khi lửa tắt thì mặt bàu đã bị phủ kín dưới một lớp tro dày chừng hai ba đốttay. Cá sấu trừng lên thở thì bị tro cay mắt, trầm lâu thì ngạt, mà hễ bị trocay mắt là y như trự ta đập đuôi chạy chạy lên bờ tức khắc. Mà không phải chạylung tung đâu. Chúng nối đuôi nhau trườn theo con đường mương đào sẵn, bò lênrừng. Thấy người, con nào cũng há họng ra, toan đớp. Ông nội tôi bèn đút vôhọng nó một khúc gỗ mớp, dài chừng ba tấc. Nó liền táp phậm một cái, hai hàmrăng dính chặt lại như ngậm cục kẹo mạch nha, không há ra được. Tôi lập tức cầmmác xắn trên sống lưng, chỗ giáp chân sau, để cắt gân đuôi. Cái đuôi chỉ còn cónước đập qua đập lại nhè nhẹ, như đuổi ruồi, chứ còn quật nổi ai? ông cháu tôibèn lấy dây lạt dừa trói thúc ké hai chân sau lên lưng, còn hai chân trước thảtự do. Khớp mõm xong rồi, bỏ đấy, bắt con khác... Ui chao!... Ui chao! Có bàu,chúng tôi bắt vài chục con trong một ngày. Cứ ba con thì dùng bốn đoạn tre buộcxâu lại một hàng ngang, như kiểu ta cặp gắp nướng chả. Rồi lấy hai cây tre dàikiền tất cả, xếp dính liền thành một dọc dài, hướng đầu chúng nó tới trước. Sauđó mới phát sậy, dọn một đường như đường cộ trâu từ bàu chạy thẳng ra bờ sôngnào gần nhất. Thế là hai ông cháu tôi nhảy lên đứng giữa lưng bầy quỷ sứ đó,mỗi người cầm một cây mun quơ quơ đập vào hai cây tre dưới chân, hét lên. Chúngnó cứ theo đường dọn trống ấy, kéo nhau đưa nguyên đàn, bò ra bờ sông. Bao giờcũng có thuyền lái mua chực sẵn ở đó. Gặp khi chẳng có lái mua thì mình chịukhó tháo ra, khiêng từng con bỏ xuống thuyền của mình, chở đi bán... ấy, ngàyxưa chúng tôi săn cá sấu dễ ợt như vậy đó, anh Hai chị Hai ạ!
Tíanuôi tôi ngồi nghe chăm chú. Chắc câu chuyện của người phường bạn vừa kể đã gợilại trong ông những ngày mình còn là anh thợ câu lận đận ở mạn Tiền Giang.Chẳng vậy mà ông đã chống hai khuỷu tay lên mặt bàn, hai bàn tay to lớn ngửa rađỡ lấy cằm, mặt đăm chiêu hồi lâu:
-Ở vùng tôi, bắt được một con cá sấu có khi phải mất vài ba con vịt sống làmmồi. Nhiều công mà cũng tốn kém. Dạo đó, năm nào trên Biển Hồ hoặc Nam Vangcũng chở cá sấu về bán ở các chợ tỉnh dọc sông Cửu Long, hết bè này tới bèkhác. Hàng trăm con một chuyến bè. Thịt cá sấu bé trên ấy trắng lắm, lại giòn,mùi thơm ngon như thịt gà, bán cũng rẻ. Mình lâu lâu mới bắt được một con, cốtlấy tấm da, chứ thịt bán chẳng đặng mấy đồng tiền... Tranh nhau không lại vớigiá thịt cá sấu trên Biển Hồ chở xuống, nhiều lúc thua, buồn cũng chẳng thiếtnữa.
Ônggià bịt khăn đỏ bưng tô rượu lên uống một hớp, đưa mu bàn tay quệt ngang mép,khà một tiếng sửa giọng:
- Bọnchúng tôi ở đây không câu vịt mồi. Nhưng cũng tốn kém đấy. Vì câu đèn mà! Lạiphải trầm mình dưới nước, neo người cả đêm. Nhưng bắt được con nào là đáng tiềncon nấy, anh Hai ạ! Chỉ lo cái thời buổi khó khăn, ba thằng giặc Pháp khốn kiếpnó có chịu để yên cho người ta làm ăn đâu!
Ngườiđàn ông đầu trọc cao lêu nghêu rướn cổ lên như con kỳ đà, hỏi tía nuôi tôi:
- AnhHai có quyết ở lại đây với bọn tôi không? Tại ngã ba Bàn Cùi, gần năm nay cásấu biển về nhiều lắm. Có con to gần bằng chiếc ghe lườn. Nhờ đất đai âm trạch,cho anh Hai trúng mươi chuyến câu thì lo gì chẳng kiếm được cái vốn kha khá!
Tíanuôi tôi còn giọng phân vân:
- Bỏnghề cũng lâu... Tôi e nhát tay!
Ônggià bịt khăn đỏ tức thời cầm chai rượu giơ lên:
- Sônglạ đãi người câu mới. Anh em chúng tôi sẽ tiếp giúp cho mượn đồ nghề. Anh Haikhứng chứ?
Tíanuôi tôi đưa mắt nhìn sang má nuôi tôi. Má nuôi tôi chỉ nói cách lơ lửng:
- Cáiđó tùy ông!
Tíanuôi tôi cầm chai rót một nhểu rượu vào lòng bàn tay to lớn của mình, chìa ragiữa bàn. Ba bàn tay của ba người phường săn cá sấu lần lượt đập lên nghebách... bách... Thế là tía nuôi tôi đã nhập phường rồi đó.
** *
Chiếcthuyền to đang cưỡi sóng tiến vào mỗi lúc một gần bãi. Tía nuôi tôi mình trần,quấn khố, miệng ngậm cái tẩu dài quăn queo, khói thuốc lá từ trong nõ tẩu cứphùn phụt bay tạt về phía sau. Ông già Tư bịt khăn đỏ cũng mình trần, vận chiếcxà-rông đen, đứng trước mũi thuyền cạnh tía nuôi tôi. Càng vào gần đến bãi, ônggià Tư càng huơ tay huơ chân, tỏ vẻ rất đắc chí. Người đàn ông đầu trọc cao lêunghêu thì đứng chèo sau lái. Trên chót ngọn sào dài cắm vào một lỗ cột chèo, cóbuộc lá cờ đỏ hình đuôi nheo bay lất phất.
- Đượccon cá sấu khá to, bà con ơi!
Ônggià bắt tay lên mồm gọi vọng vào xóm nhà trên bờ. Những người lố nhố đứng trênbờ và đám trẻ con phường chài đang chơi xếp vỏ ốc cạnh mấy người đàn bà vá lướivụt reo lên, rối rít chạy xuống bãi.
- Sửa soạn chia thịt nghe, bà con!
- Đã kiếm được rượu chưa, mà toan chia thịt!
Vài người xắn quần lên tận bẹn, chạy tất tảra ngoài mé nước. Mấy người đàn bà vá lưới cũng buông gai buông nhợ bỏ đấy,chạy ùa ra bãi. Chiếc thuyền trườn mũi lên bãi cát, để lại những đám bọt sóngtrắng nháo nhào chạy lùi ra sau lái. Người trên thuyền chưa kịp quăng dây xuốngthì bọn con nít đã trèo phốc lên be rồi. Ôi chao, con cá sấu to quá! Mình dàicó tới hơn năm mét. Chỗ quãng bụng giữa, ước chừng một vòng rưỡi tay người lớnôm mới giáp. Cái mõm dài sọc, đầy răng chơm chởm của nó đã bị khớp chặt lạibằng một sợi dây thép. Hơn hai tháng nay, riêng tía nuôi tôi đã bắt được mườihai con rồi. Thường thì da cá sấu màu xanh rêu pha bùn mốc, dưới lườn bụng hơitrắng, khắp mình trên mọc gai, có chỗ vằn hoa lốm đốm. Con cá sấu này, màu daxám ngoét như da cây bần, gai lưng mọc chừng ba đốt tay, trông rất dễ sợ. Cáiđuôi dài - bộ phận khỏe nhất của con vật kinh khủng dùng để tấn công đã bị cắtgân, trói xếp vào một bên mạn sườn. Bốn chân cũng bị thít chặt vào cái đuôihoàn toàn mất tác dụng ấy. Con cá sấu hung tợn nằm im như chết giữa lòngthuyền.
Mọi người xúm lại, dùng đòn buộc dây da trâukhiêng con cá sấu vừa đánh được, đưa lên bãi. Phải có đến mười hai người đànông lực lưỡng mới khiêng nổi nó và đưa vào tới bờ. Má nuôi tôi cũng đi theo tốpngười khiêng. Những người đàn bà lăng xăng ngã giá mua nguyên cả con cá sấu cứbám sát bên má nuôi tôi. Mấy chị phụ nữ tre trẻ trong xóm cũng xoắn theo chânmá nuôi tôi, người nào người nấy đều sẵn sàng dao rổ, chia phần thịt mang đibán. Thằng Cò dắt con chó đi mua rượu về, thấy bố còn ngồi trong bóng thuyềndựa bãi với các ông bạn phường săn bèn chạy vù đến vứt phịch chai rượu xuốngcát rồi quày quả chạy đuổi theo đám người nhốn nháo đằng kia.
- Khi tôi phóng mũi lao trúng con cá sấu này,thì tôi nghe đằng xa nước động dữ dội. Chắc còn một con nữa to hơn. Nhất địnhlà sấu cặp!
Tía nuôi tôi nói xong, còn tặc lưỡi mấy tiếngra bộ tiếc rẻ lắm. Ông già Tư ghé vào tai tía nuôi tôi:
- Sắp hết mỡ rồi! Không biết tìm đâu ra bâygiờ?
Tôi rất sợ cái "đèn nghề" của tíanuôi tôi. Người ta đồn rằng: đèn ấy đốt bằng mỡ người. Cá sấu bắt hơi đèn từ xalắm. Nó rất thèm thứ mỡ cháy này. Hễ ngửi mùi là nó bơi tìm đến tức khắc. Theonhư lời ông già Tư, thì những tay phù thủy giang hồ người Mã Lai vượt vịnh TháiLan đưa thứ mỡ ấy sang bán. Giá rất đắt! Tôi nghĩ: Mỡ nào mà không cấu tạo chủyếu bằng thành phần chất béo? Mỡ lợn không được à? Tại sao phải dùng đến mỡngười một cách man rợ như vậy? Có lần, tôi đã chất vấn tía nuôi tôi về thứ"đèn nghề" khủng khiếp ấy. Tía nuôi tôi nói:
- Đó là thói tục cổ lỗ, mê tín dị đoan. Ngườixưa thấy cá sấu hay ăn thịt người, tưởng dùng mỡ người tất dễ câu nó, chứ chắcgì đã là mỡ người thật.
Tía nuôi tôi đã nhiều lần kể cho thằng Cò vàtôi nghe rành rọt về nghề săn cá sấu. Tôi nghe đến thích mê. Nhưng có nghèo,thà bắt con tôm con tép ăn, chứ tôi chẳng dám theo cái nghề nguy hiểm này. Săncá sấu thường phải chọn những đêm tối trời. Nhất là những ngày nắng to, có trậnmưa vừa tạnh, gió chỉ hơi rao rao mát gợi làn da, khí trời vẫn còn thấp vànặng. Mặt sông rộng mênh mông, phẳng lặng như mặt hồ. Tía nuôi tôi người trần,chỉ quấn cái khố nhỏ, hai cánh tay cặp trên hai ống tre bè buộc chặt hai đầubằng dây thép. ông trầm mình dưới nước, chỉ ló người từ phần giữa ngực lêntrên. Cứ thế, thả trôi đi. Hai chân thỉnh thoảng quạt nhè nhẹ, lái cho bè xuôiđứng giữa lòng sông. Cá sấu chỉ gắp người bơi ngang, hoặc dùng đuôi quật ngãngười ngồi trên xuồng cho rơi xuống nước rồi gắp chạy đi, chứ chúng khó gắpđược người bơi đứng. Tay phải tía nuôi tôi cầm một cây lao bằng gỗ mun. Gỗ munkỵ thịt cá sấu. Đâm vào thịt con cá sấu, cây mun cứ hút sâu vào, làm con vậtnhức buốt không chịu nổi. Cán lao buộc vào một đầu dây, phải biết lòng sông sâubao nhiêu sải nước mà sắm sợi dây cho vừa đủ, không thừa quá mà cũng khôngthiếu quá. Dây thừa quá thì phải mất công lặn xuống kiếm lâu mới gặp con cá sấutrúng thương, mà dây ngắn quá thì nó kéo phao chìm dưới nước, chẳng biết đâu màmò. Đầu kia sợi dây buộc vào một cái phao bằng gỗ mớp. Phải khoanh sợi dây chokhéo, để khi con cá sấu lôi dây chạy, sợi dây cứ xoay vòng tự động tháo ra,không vướng.
Trên phao kiền chặt cây đèn nghề, tựa như cáiđĩa sắt con sâu lòng, thả ngọn bấc vào cái đèn "mỡ người" ấy, thắpcháy lên. Lại phải cắm trên phao một cây cờ đỏ, để dễ nhận thấy từ xa (còn cólý do huyền bí nào đó nữa không thì tôi không được biết). Thả cái phao trôitrước mặt người thợ săn chừng hơn một với tay, được giữ cỡ bằng một sợi dâynhỏ. Tía nuôi tôi thả trôi theo nước như vậy, có khi hàng hai, ba giờ liền. Baogiờ ông cũng phải uống một tô nước mắm cốt, để trầm dưới nước lâu không bịnhiễm lạnh. Trong đêm tối mịt mùng, trên dòng sông mênh mông chỉ lấp lóe"ánh đèn thiêng" và đôi mắt sáng ngời của tía nuôi tôi... Đang trôixuôi, cả người ông bỗng bị xô lùi lại bởi một luồng nước tống lại cực mạnh.Nghe khì... ì... một tiếng, rồi một cái bướu to bằng cái bát trừng lên. Con cásấu nổi lên, há họng thè lưỡi liếm mỡ cháy trong cây đèn. Nhanh như chớp, tíanuôi tôi nín thở, dồn hết lực vào cánh tay, phóng mạnh cây lao đâm vào giữahọng nó, và lập tức buông phao ra. Con cá sấu trúng thương, đập đuôi ầm ầm, lộnlên lộn xuống, quẫy mạnh làm cho mặt sông nổi dậy sóng cồn. Rồi nó lôi dây,mang phao chạy. Tía nuôi tôi "ì..." một tiếng. Thuyền chèo yểm hộngười thợ săn cá sấu bao giờ cũng theo song song bên bờ, phòng trường hợp bấttrắc có thể bị đôi ba con nổi lên tấn công cùng một lúc thì xông ra tiếp ứng.Nghe tiếng "ì..." họ biết đã đâm trúng cá sấu rồi. Thế là thuyền chèobay ra, đón tía nuôi tôi lên. Con cá sấu chạy đến đâu, dây tháo theo đến đó. Nócố gắng chịu đau lắm thì cũng chỉ chạy nổi đôi ba nghìn thước là cùng. Rồi dầndần đuối sức, không chịu đau nổi nữa, nó tìm một cái vịnh sâu nào đó, trầmxuống đáy. Sáng hôm sau, hai chiếc thuyền của phường săn chia nhau trèo cặp haibên bờ để tìm cái phao. Bao giờ người đã phóng cây lao đâm trúng cá sấu cũng làngười lặn xuống đáy sông trói nó. Như vậy, mới được hưởng nguyên phần mình cáibao tử của con cá sấu khi mổ ra... Mỗi lần tía nuôi tôi mang vòng dây thép lặnxuống, thằng Cò theo thuyền cứ mếu máo chực khóc. Còn tay chân tôi thì cứ phátrun lên. Tía nuôi tôi lặn rất lâu mới trồi lên thở. Rồi lại kéo đôi lặn trởxuống buộc nó, để anh em phường thợ khác trên thuyền kéo nó lên. Thường sau mỗilần như vậy, tía nuôi tôi bao giờ cũng làm vài hớp rượu cho lại sức. ông đưabàn tay lạnh móp lên chùi những giọt rượu chảy xuống chòm râu đóng đầy rêu nướcxanh lè, ngó tôi và thằng Cò, cười khà khà:
- Hai đứa bay sao cứ khéo lo! Con cá sấu đãbị cây mun đâm, nhức buốt, tê liệt cả mình mẩy rồi. Nó bám sát đáy vịnh, taolặn xuống sờ đầu nó, nó cũng không dám động cựa. Cứ nằm im, chịu phép cho taokhớp mőm, trói lại. Cây mun đâm vào mắc giữa họng rồi, nó cắn ai được nữa? Càngcựa quậy thì càng đau thôi!
Một cơn gió từ mặt sông bất thình lình thổithốc vào bờ, khiến cho lá cờ đuôi nheo đỏ buộc trên đầu con sào giật nảy lên,reo vù vù. Tôi ngồi bên tía nuôi tôi và ông già Tư, nhìn xuống dòng sông mênhmông đang cuồn cuộn chảy, hình dung ra những con quái vật kinh khủng đang bơilặn dưới đó, càng thấy những con người nhỏ bé ngồi quây quần trong bóng thuyềnghếch mũi lên bãi cát đây thật vĩ đại biết bao nhiêu... "Hỡi thiên nhiêndữ dội và nham hiểm, ngươi hãy coi chừng. Không một sức mạnh nào ẩn chứa trongngươi mà con người không khuất phục nổi đâu!" Tôi chỉ chực muốn thét lênnhư vậy. May sao đó chỉ là những ý nghĩ còn nằm trong đầu óc thơ bé của tôi màtôi chưa thốt ra thành lời được. Không thì có lẽ ông già Tư và tía nuôi tôi sẽcho là tôi phát rồ cũng nên.
- Đànhphải đi về vùng U Minh hạ thôi, ông à!
Mộthôm má nuôi tôi thở dài, bàn với tía nuôi tôi như vậy. Bà ngồi trong mui thuyềnchật chội, nhìn ra những làn mưa trắng tuôn mù mịt xuống ngàn xanh, chậc lưỡi.
- Chỉ lo cho hai thằng bé. Dầm mưa dãi nắngthế này, rủi chúng ốm đau nằm xuống thì lấy gì mà thang thuốc!
- Mười mấy năm trời, quen thuộc ở đây, tôikhông nỡ bỏ đi...
Tía nuôi tôi đáp, giọngrầu rầu.
- Nhà ở đâu tức quê hương ở đó. Vậy trước kiathì ông và tôi ở đâu? Ông sao câu nệ quá vậy? Tôi vì hai đứa nhỏ... chứ không,tôi cứ mặc cho ông muốn ra sao đó thì ra...
Tía nuôi tôi không đáp. Ông ngồi cầm cái tẩudài quăn queo, gõ gõ thành tẩu vào gót chân, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn mộtvài giọt mưa từ trên mui lá rơi lộp độp xuống giữa khoang thuyền ẩm ướt. Đêmhôm đó, chúng tôi chống thuyền ra sông. Cả gia tài chúng tôi, ngoại trừ mấy cáinồi cái niêu và một ít quần áo cũ, thì chỉ còn có mỗi chiếc thuyền này thôi.Lúc ngang qua chỗ ngôi mộ Võ Tòng, tía nuôi tôi dừng thuyền lại, bước lên bờ.Thằng Cò sợ ma, ngồi sát vào bên má, lại còn ôm thêm con chó vào lòng. Tôi bướclên theo tía nuôi tôi. Trong bóng tối lờ mờ, dưới vòm trời ảm đạm le lói mộtvài ngôi sao xa lắc, ông đang ngồi phệt bên nấm mộ, đầu cúi xuống, bàn tay lơđễnh đưa đi đưa lại nhổ những cọng cỏ dưới chân. Nghe tiếng chân giẫm sột soạttrên cỏ ướt, tía nuôi tôi ngước lên nhìn và vẫy tay ra hiệu cho tôi ngồi xuốngbên ông.
-Tôi và thằng cháu lên từ biệt chú nó đây!
Tía nuôi tôi ngó vào ngôimộ nói bằng giọng mũi ngạt ngạt.
- Tôi chỉ dùng được có một mũi tên trong sốhai mươi chiếc chú đã trao cho tôi... Nhưng tôi chắc rằng dưới suối vàng, chúđã có thể ngậm cười mà yên nghỉ...
Dứt khoát tôi không tin rằng người chết cólinh hồn. Nhưng cái giọng trầm trầm của tía nuôi tôi đang nói với ngôi mộ, đồngthời tôi chợt nhớ lại bàn tay vuốt cặp mắt trừng trừng khiến cho đôi mắt khéplại, chính con người ấy đã nằm xuống dưới đất ngay trên chỗ tôi đang ngồi đây,việc ấy đã làm cho tôi thấy rờn rợn. Tía nuôi tôi dặng hắng mấy tiếng rồi quaysang tôi:
- Thằng An có nhớ con vượn bạc má của chú VõTòng không? - Á, nó đâu rồi, tía?
Tôi hỏi lại ông như vậy,chứ tôi đã đinh ninh là nó chết trong trận cháy rừng rồi.
- Con vật ở rừng còn có nghĩa, huống chi conngười. Hôm Tây đốt rừng, chú Võ Tòng đi vắng, buộc nó ở lều. Nó bứt xích chạythoát được. Người ta trông thấy một đoạn xích bị giật đứt, còn lủng lẳng ở cổnó mà đoán ra như thế... Sau đó nó trở về ngồi trên nền cũ, không ăn không uốnggì rồi chết rũ xương ở đó. Có người qua ngang đấy, về thuật chuyện lại cho tíanghe, con ạ.
- Hôm tía với con từ trong rừng chống xuồngvề, có qua ngang đó. Lúc bấy giờ nó chưa về, tía nhỉ? Giá nó về thì mình gặp nórồi.
Tía nuôi tôi đứng dậy thở dài, rồi bảo tôixuống thuyền. Ông còn quay lại, lom khom nhặt hòn đất đặt lên ngôi mộ rồi mớibước theo tôi. Nước mỗi ngày một chảy xiết, và dòng sông càng đi tới càng mởrộng mênh mông. Đứng trước mũi thuyền chèo cập bờ bên này mà nhìn sang bờ bênkia, chỉ thấy một vệt dài xanh thẫm của rặng dừa nước lờ mờ trên đầu ngọn sóng.Chúng tôi đi ròng rã ba ngày ba đêm, chỉ trừ những lúc phải dừng lại thổi cơmăn, còn thì cứ luân phiên nhau chèo. Mấy hôm liền, trời vẫn nắng gay gắt. Mặtsông lao xao phản chiếu ánh mặt trời như một dòng thủy ngân cuồn cuộn trôi vềhướng biển. Mây đen từ chân trời đùn lên, vẩn hình mặt quỷ, rủ nhau quần tụ mộtchỗ không chịu bay đi. Rồi dông kéo tới ào ào, mưa như trút nước xuống như thácđổ hơn một ngày đêm. Sóng gầm thét không lúc nào ngớt. Chúng tôi phải chuithuyền vào núp trong một rạch lá dừa nước um tùm, chờ cho dứt cơn mưa dữ mớiquay ra sông chèo đi.
Một buổi chiều, tía nuôi tôi cho thuyền cậplại bên ngôi quán lá cất nhoai ra bờ nước. Chúng tôi buộc thuyền vào trụ sàncầu, nơi đã có hai chiếc tam bản lớn của những ông khách ngồi trong quán cắmsào đỗ lại đó từ bao giờ. Thấy có người đến, họ ngóng cổ ra nhìn rồi lại quayvào tiếp tục cuộc rượu bày trên chiếc bàn tròn giữa quán. Tía nuôi tôi rướnngười bước lên sàn cầu lát toàn bằng những cây mắm nhỏ. Cứ mỗi bước ông đi tới,những cây mắm lại kêu lắc rắc dưới chân. Con Luốc lập tức phóng lên theo. Tôigọi "Luốc! Luốc!" và lấy cớ đuổi theo giữ con chó để nhảy lên theonó. Một con kỳ đà bị trói chặt bốn chân bằng sợi dây thép, nằm khoanh gần chỗcửa. Con Luốc xô tới, chồm chồm vào con kỳ đà sủa váng lên. Bấy giờ, ba ngườikhách rượu mới quay ra, gật gù, vẻ như muốn chào làm quen với tía nuôi tôi. Mộtông cụ già cởi trần, râu quăn queo, vận xà-rông đen, đầu bịt khăn lụa đỏ, ngườicao lớn như tía nuôi tôi, đứng lên cất giọng ồm ồm:
- Chào ông bạn!
Hai người đàn ông kia hơi có tuổi, gầy gò,đầu cạo trọc như nhau, mỗi người vận một cái khố nhuộm màu vỏ cây. Họ giốngnhau một cách rất buồn cười, chỉ khác là một người thì cao quá, còn một ngườilại thấp quá. Cả hai cùng đứng lên gật đầu chào tía nuôi tôi. Tía nuôi tôi đứnglại nhìn họ một lát rồi bỗng nhiên ông chếch cánh tay phải lên, tay trái áp vàongực, nghiêng người tới trước, nói cách trịnh trọng:
- Kính chào các ông bạn!
Ba người kia vội vã cùng một lúc đưa tay lênchào đáp lễ y như kiểu chào của tía nuôi tôi. Tôi đứng ngớ ra nhìn, ngạc nhiênquá đỗi. Về sau, mới biết đó là lối chào ra mắt của các phường săn cá sấu khigặp nhau muốn tỏ tình thân. Chủ quán là một ông già lùn tịt, lật bật như conrối, từ sau bếp chạy ra, vác một gộc cây đặt xuống cạnh bàn rượu, giọng lăngxăng:
- Mời ông khách! Mời ông ngồi xuống đây!
Mùi thịt nướng từ trong bếp bay ra khét lẹt.Và khói cũng từ trong cái bếp lò thấp thoáng sau quầy rượu cuồn cuộn bay ra, nhưlàn khói đốt đồng cỏ tháng tư.
- Cháy miếng thịt mất rồi!
Tôi vội kêu lên, và thản nhiên không chú ýtới mọi người ngồi đó, cứ đi thẳng một mạch vào bếp. Tôi cầm cái que cời dậpbớt than, rồi trở gắp thịt đặt lên nướng phía bên còn chưa chín.
- Để đó cho qua, chú em!
Ông chủ quán chạy vào, vừa nói líu ríu bằnggiọng khen ngợi vừa với tay cầm chai rượu dựng bên cạnh lò. Tôi đáp cách bìnhthản, nhưng cũng rất tự hào:
- Cháu giúp bác một tay, được mà!
Rồi tôi mỉm cười một mình, chợt nhớ tới"thằng bé hầu rượu" trong quán dì Tư Béo. Ông cụ già bịt khăn lụa đỏđỡ lấy chai rượu trên tay chủ quán, rót đầy vào một cái bát lớn đặt giữa bàn màhọ đã uống vơi gần quá nửa.
- Kính mời ông bạn! Làm một hớp cho ấm bụng.Chẳng hay ông bạn từ đâu tới?
Tía nuôi tôi đáp, giọng từ tốn:
- Tôi là người vùng U Minh thượng... GiặcPháp đã vào tới đó. Nay lênh đênh phiêu giạt... Còn chưa biết về đâu.
Hai người đàn ông đầu cạo trọc đưa mắt nhìnnhau. Tía nuôi tôi bưng bát rượu lên nhấp một hớp; chừng như đoán ra ý họ, ôngđặt bát rượu xuống bàn, nói chậm rãi:
- Phải, tôi là người U Minh thượng. Nhưngnguồn cội tận xứ Tiền Giang kia. Thuở còn trẻ tráng, tôi cũng đã lặn lội nhiềunăm trong nghề hạ bạc. Nghèo như chiếc lá rụng xuống dòng sông, nước trôi tớiđâu mình theo tới đó. Bấy nay tôi theo nghề rừng, chẳng qua cũng vì mưu sinhtheo hoàn cảnh, chuyện đó có chi là lạ...
Người đàn ông thấp lùn tức thời đứng phắtdậy, dang tay ra ôm tía nuôi tôi, cười ha hả:
- Vậy thì huynh ông neo lại khúc này, trở vềnghề cũ, chúng ta hiệp nhau làm ăn, được chứ?
Tía nuôi tôi cười cười, chưa đáp ra sao. Tôigiúp ông chủ quán dọn thịt nướng ra bàn và gọi thằng Cò lên xem ông giết thịtcon kỳ đà. Tôi cứ chạy ra chạy vào, khi thì quạt lửa, khi thì lấy tí muối ớt,khi thì rót thêm mỡ rái cá vào đĩa thịt tự tôi tìm thấy trong bếp và mang rabàn rượu. Tôi cảm thấy mình bận rộn nhưng vui vẻ như thằng bé hầu rượu trướckia. Chẳng mấy chốc mà họ đã uống cạn hai lít rượu, thứ rượu ngon nhất mà ôngchủ quán bảo chỉ để dành riêng cho khách quen sành sỏi. Rượu vào thì lời ra. Họnói đủ thứ chuyện về sông nước, và trong câu chuyện đã bắt đầu xưng hô anh anhchú chú cởi mở thân mật. Dường như ba ông khách rượu ấy và tía nuôi tôi lànhững người bạn cũ, xa nhau lâu ngày, giờ mới tình cờ gặp lại vậy. Khi biết ôngbạn phương xa vừa tới có "bà nội tướng" đang thổi cơm dưới thuyền,ông cụ già bịt khăn đỏ bèn trịnh trọng bước ra sàn cầu, chắp hai tay trước ngựchướng vào mũi thuyền, sửa giọng kính cẩn:
- Chẳng mấy thuở được gặp anh Hai... Xin kínhmời chị Hai quá bước lên quán, dùng một chén rượu mọn với anh em chúng tôi.
Má nuôi tôi "cám ơn" và từ chối nămlần bảy lượt không xong, đành phải đội khăn bước lên quán. Món thịt kỳ đà nấuca-ri nước cốt dừa cũng vừa bưng dọn ra bàn bốc khói thơm lừng. Cả gia đìnhchúng tôi, ba ông phường săn kỳ dị và ông chủ quán lùn tịt cùng ngồi vào bàn,dùng bữa cơm tối một cách hết sức vui vẻ. Cả con Luốc cũng có phần một bát thịtto tướng trộn cơm nguội mà ông chủ quán đã có "nhã ý" dọn riêng chonó trước sàn cầu.
- Bao giờ giặc tấn công tới đây, chúng ta sẽliệu. Còn bây giờ, làm nghề cứ lo làm nghề. Còn phải nghĩ tới miếng sống chứ.Tôi nói vậy, liệu có phải không chị Hai?
Người đàn ông cao lêu nghêu bắt đầu làm quenvới má nuôi tôi bằng câu mở đầu ấy. Người đàn ông thấp lùn vội nói tiếp theo:
- Ắt chị Hai vui lòng để anh Hai cùng đi làmăn với chúng tôi chứ?
Má nuôi tôi cầm bát lên tay, nhìn tía nuôitôi:
- Xin các chú hỏi ông nhà tôi. Chứ tôi là phận đàn bà!
Ôngchủ quán ngứa miệng, vung hai tay lên:
- ChịHai còn theo xưa quá. Người ta nói nhất vợ nhì trời mà!
Mọingười đều cười, khiến ông chủ quán cứ xoay quanh hết nhìn người này đến nhìnngười khác, lắc la lắc lư ra vẻ đắc chí với câu pha trò của mình lắm. Khôngbiết có phải vì có mặt má nuôi tôi mà các ông già trở nên lịch sự, vui vẻ và hoạtbát hẳn lên không? Ông cụ già bịt khăn đỏ hỏi má nuôi tôi một cách khoan thai:
- Ngàyxưa, chị Hai cũng theo nghề câu chứ?
Mánuôi tôi lắc đầu:
- Tôisợ lắm. Chỉ có ông nhà tôi thôi. Tôi chỉ câu lòng tong cá chốt, chứ thứ đó tôisợ lắm!
Ngườiđàn ông cao lêu nghêu nhếch mép cười, bàn tay đưa lên gãi gãi cái đầu trọc nhẵnthín:
- Nóikhông phải phô phang với chị Hai và các anh tôi đây, chứ thuở mười ba mười bốntuổi, tôi đã theo ông nội tôi đi bắt cá sấu như bắt cá lóc rộng trong khạp vậythôi. Vào mùa khô, chúng tôi lội vào rừng cỏ, men theo những cái bàu giữa rừngtìm cá sấu. Hồi đó, cá sấu còn nhiều lắm. Bàu nào cũng có. Không nhiều thì ít.Tệ lắm cũng năm bảy con trở lên. Bà con quen gọi là ao cá sấu. Chọn được ao sấunào có nhiều sấu hoa cà rồi, chúng tôi mới phát sậy, phát cỏ rũ xuống phơi nắngvài ngày cho khô. Dùng thuổng đào một đường nhỏ từ mé ao lên rừng, càng xa bờcàng cạn dần, chừng mươi thước. Sau đó mới ôm sậy, cỏ khô thả xuống cho phủ kínmặt bàu và ném lửa đốt cháy...
ThằngCò buột miệng hỏi:
- Chosôi nước, cá sấu chạy lên bờ phải không chú?
- Cậuem này đoán gần đúng! Nhưng không phải vậy đâu. Nước lênh láng cả bàu, làm gìsôi được? Ừ, mà nếu mình thả bổi khô xuống thật dày, thả liên tục, đốt nóngnước thì nó cũng có thể chạy lên... Thả bổi xuống rồi, mình ném lửa đốt cháy.Khi lửa tắt thì mặt bàu đã bị phủ kín dưới một lớp tro dày chừng hai ba đốttay. Cá sấu trừng lên thở thì bị tro cay mắt, trầm lâu thì ngạt, mà hễ bị trocay mắt là y như trự ta đập đuôi chạy chạy lên bờ tức khắc. Mà không phải chạylung tung đâu. Chúng nối đuôi nhau trườn theo con đường mương đào sẵn, bò lênrừng. Thấy người, con nào cũng há họng ra, toan đớp. Ông nội tôi bèn đút vôhọng nó một khúc gỗ mớp, dài chừng ba tấc. Nó liền táp phậm một cái, hai hàmrăng dính chặt lại như ngậm cục kẹo mạch nha, không há ra được. Tôi lập tức cầmmác xắn trên sống lưng, chỗ giáp chân sau, để cắt gân đuôi. Cái đuôi chỉ còn cónước đập qua đập lại nhè nhẹ, như đuổi ruồi, chứ còn quật nổi ai? ông cháu tôibèn lấy dây lạt dừa trói thúc ké hai chân sau lên lưng, còn hai chân trước thảtự do. Khớp mõm xong rồi, bỏ đấy, bắt con khác... Ui chao!... Ui chao! Có bàu,chúng tôi bắt vài chục con trong một ngày. Cứ ba con thì dùng bốn đoạn tre buộcxâu lại một hàng ngang, như kiểu ta cặp gắp nướng chả. Rồi lấy hai cây tre dàikiền tất cả, xếp dính liền thành một dọc dài, hướng đầu chúng nó tới trước. Sauđó mới phát sậy, dọn một đường như đường cộ trâu từ bàu chạy thẳng ra bờ sôngnào gần nhất. Thế là hai ông cháu tôi nhảy lên đứng giữa lưng bầy quỷ sứ đó,mỗi người cầm một cây mun quơ quơ đập vào hai cây tre dưới chân, hét lên. Chúngnó cứ theo đường dọn trống ấy, kéo nhau đưa nguyên đàn, bò ra bờ sông. Bao giờcũng có thuyền lái mua chực sẵn ở đó. Gặp khi chẳng có lái mua thì mình chịukhó tháo ra, khiêng từng con bỏ xuống thuyền của mình, chở đi bán... ấy, ngàyxưa chúng tôi săn cá sấu dễ ợt như vậy đó, anh Hai chị Hai ạ!
Tíanuôi tôi ngồi nghe chăm chú. Chắc câu chuyện của người phường bạn vừa kể đã gợilại trong ông những ngày mình còn là anh thợ câu lận đận ở mạn Tiền Giang.Chẳng vậy mà ông đã chống hai khuỷu tay lên mặt bàn, hai bàn tay to lớn ngửa rađỡ lấy cằm, mặt đăm chiêu hồi lâu:
-Ở vùng tôi, bắt được một con cá sấu có khi phải mất vài ba con vịt sống làmmồi. Nhiều công mà cũng tốn kém. Dạo đó, năm nào trên Biển Hồ hoặc Nam Vangcũng chở cá sấu về bán ở các chợ tỉnh dọc sông Cửu Long, hết bè này tới bèkhác. Hàng trăm con một chuyến bè. Thịt cá sấu bé trên ấy trắng lắm, lại giòn,mùi thơm ngon như thịt gà, bán cũng rẻ. Mình lâu lâu mới bắt được một con, cốtlấy tấm da, chứ thịt bán chẳng đặng mấy đồng tiền... Tranh nhau không lại vớigiá thịt cá sấu trên Biển Hồ chở xuống, nhiều lúc thua, buồn cũng chẳng thiếtnữa.
Ônggià bịt khăn đỏ bưng tô rượu lên uống một hớp, đưa mu bàn tay quệt ngang mép,khà một tiếng sửa giọng:
- Bọnchúng tôi ở đây không câu vịt mồi. Nhưng cũng tốn kém đấy. Vì câu đèn mà! Lạiphải trầm mình dưới nước, neo người cả đêm. Nhưng bắt được con nào là đáng tiềncon nấy, anh Hai ạ! Chỉ lo cái thời buổi khó khăn, ba thằng giặc Pháp khốn kiếpnó có chịu để yên cho người ta làm ăn đâu!
Ngườiđàn ông đầu trọc cao lêu nghêu rướn cổ lên như con kỳ đà, hỏi tía nuôi tôi:
- AnhHai có quyết ở lại đây với bọn tôi không? Tại ngã ba Bàn Cùi, gần năm nay cásấu biển về nhiều lắm. Có con to gần bằng chiếc ghe lườn. Nhờ đất đai âm trạch,cho anh Hai trúng mươi chuyến câu thì lo gì chẳng kiếm được cái vốn kha khá!
Tíanuôi tôi còn giọng phân vân:
- Bỏnghề cũng lâu... Tôi e nhát tay!
Ônggià bịt khăn đỏ tức thời cầm chai rượu giơ lên:
- Sônglạ đãi người câu mới. Anh em chúng tôi sẽ tiếp giúp cho mượn đồ nghề. Anh Haikhứng chứ?
Tíanuôi tôi đưa mắt nhìn sang má nuôi tôi. Má nuôi tôi chỉ nói cách lơ lửng:
- Cáiđó tùy ông!
Tíanuôi tôi cầm chai rót một nhểu rượu vào lòng bàn tay to lớn của mình, chìa ragiữa bàn. Ba bàn tay của ba người phường săn cá sấu lần lượt đập lên nghebách... bách... Thế là tía nuôi tôi đã nhập phường rồi đó.
** *
Chiếcthuyền to đang cưỡi sóng tiến vào mỗi lúc một gần bãi. Tía nuôi tôi mình trần,quấn khố, miệng ngậm cái tẩu dài quăn queo, khói thuốc lá từ trong nõ tẩu cứphùn phụt bay tạt về phía sau. Ông già Tư bịt khăn đỏ cũng mình trần, vận chiếcxà-rông đen, đứng trước mũi thuyền cạnh tía nuôi tôi. Càng vào gần đến bãi, ônggià Tư càng huơ tay huơ chân, tỏ vẻ rất đắc chí. Người đàn ông đầu trọc cao lêunghêu thì đứng chèo sau lái. Trên chót ngọn sào dài cắm vào một lỗ cột chèo, cóbuộc lá cờ đỏ hình đuôi nheo bay lất phất.
- Đượccon cá sấu khá to, bà con ơi!
Ônggià bắt tay lên mồm gọi vọng vào xóm nhà trên bờ. Những người lố nhố đứng trênbờ và đám trẻ con phường chài đang chơi xếp vỏ ốc cạnh mấy người đàn bà vá lướivụt reo lên, rối rít chạy xuống bãi.
- Sửa soạn chia thịt nghe, bà con!
- Đã kiếm được rượu chưa, mà toan chia thịt!
Vài người xắn quần lên tận bẹn, chạy tất tảra ngoài mé nước. Mấy người đàn bà vá lưới cũng buông gai buông nhợ bỏ đấy,chạy ùa ra bãi. Chiếc thuyền trườn mũi lên bãi cát, để lại những đám bọt sóngtrắng nháo nhào chạy lùi ra sau lái. Người trên thuyền chưa kịp quăng dây xuốngthì bọn con nít đã trèo phốc lên be rồi. Ôi chao, con cá sấu to quá! Mình dàicó tới hơn năm mét. Chỗ quãng bụng giữa, ước chừng một vòng rưỡi tay người lớnôm mới giáp. Cái mõm dài sọc, đầy răng chơm chởm của nó đã bị khớp chặt lạibằng một sợi dây thép. Hơn hai tháng nay, riêng tía nuôi tôi đã bắt được mườihai con rồi. Thường thì da cá sấu màu xanh rêu pha bùn mốc, dưới lườn bụng hơitrắng, khắp mình trên mọc gai, có chỗ vằn hoa lốm đốm. Con cá sấu này, màu daxám ngoét như da cây bần, gai lưng mọc chừng ba đốt tay, trông rất dễ sợ. Cáiđuôi dài - bộ phận khỏe nhất của con vật kinh khủng dùng để tấn công đã bị cắtgân, trói xếp vào một bên mạn sườn. Bốn chân cũng bị thít chặt vào cái đuôihoàn toàn mất tác dụng ấy. Con cá sấu hung tợn nằm im như chết giữa lòngthuyền.
Mọi người xúm lại, dùng đòn buộc dây da trâukhiêng con cá sấu vừa đánh được, đưa lên bãi. Phải có đến mười hai người đànông lực lưỡng mới khiêng nổi nó và đưa vào tới bờ. Má nuôi tôi cũng đi theo tốpngười khiêng. Những người đàn bà lăng xăng ngã giá mua nguyên cả con cá sấu cứbám sát bên má nuôi tôi. Mấy chị phụ nữ tre trẻ trong xóm cũng xoắn theo chânmá nuôi tôi, người nào người nấy đều sẵn sàng dao rổ, chia phần thịt mang đibán. Thằng Cò dắt con chó đi mua rượu về, thấy bố còn ngồi trong bóng thuyềndựa bãi với các ông bạn phường săn bèn chạy vù đến vứt phịch chai rượu xuốngcát rồi quày quả chạy đuổi theo đám người nhốn nháo đằng kia.
- Khi tôi phóng mũi lao trúng con cá sấu này,thì tôi nghe đằng xa nước động dữ dội. Chắc còn một con nữa to hơn. Nhất địnhlà sấu cặp!
Tía nuôi tôi nói xong, còn tặc lưỡi mấy tiếngra bộ tiếc rẻ lắm. Ông già Tư ghé vào tai tía nuôi tôi:
- Sắp hết mỡ rồi! Không biết tìm đâu ra bâygiờ?
Tôi rất sợ cái "đèn nghề" của tíanuôi tôi. Người ta đồn rằng: đèn ấy đốt bằng mỡ người. Cá sấu bắt hơi đèn từ xalắm. Nó rất thèm thứ mỡ cháy này. Hễ ngửi mùi là nó bơi tìm đến tức khắc. Theonhư lời ông già Tư, thì những tay phù thủy giang hồ người Mã Lai vượt vịnh TháiLan đưa thứ mỡ ấy sang bán. Giá rất đắt! Tôi nghĩ: Mỡ nào mà không cấu tạo chủyếu bằng thành phần chất béo? Mỡ lợn không được à? Tại sao phải dùng đến mỡngười một cách man rợ như vậy? Có lần, tôi đã chất vấn tía nuôi tôi về thứ"đèn nghề" khủng khiếp ấy. Tía nuôi tôi nói:
- Đó là thói tục cổ lỗ, mê tín dị đoan. Ngườixưa thấy cá sấu hay ăn thịt người, tưởng dùng mỡ người tất dễ câu nó, chứ chắcgì đã là mỡ người thật.
Tía nuôi tôi đã nhiều lần kể cho thằng Cò vàtôi nghe rành rọt về nghề săn cá sấu. Tôi nghe đến thích mê. Nhưng có nghèo,thà bắt con tôm con tép ăn, chứ tôi chẳng dám theo cái nghề nguy hiểm này. Săncá sấu thường phải chọn những đêm tối trời. Nhất là những ngày nắng to, có trậnmưa vừa tạnh, gió chỉ hơi rao rao mát gợi làn da, khí trời vẫn còn thấp vànặng. Mặt sông rộng mênh mông, phẳng lặng như mặt hồ. Tía nuôi tôi người trần,chỉ quấn cái khố nhỏ, hai cánh tay cặp trên hai ống tre bè buộc chặt hai đầubằng dây thép. ông trầm mình dưới nước, chỉ ló người từ phần giữa ngực lêntrên. Cứ thế, thả trôi đi. Hai chân thỉnh thoảng quạt nhè nhẹ, lái cho bè xuôiđứng giữa lòng sông. Cá sấu chỉ gắp người bơi ngang, hoặc dùng đuôi quật ngãngười ngồi trên xuồng cho rơi xuống nước rồi gắp chạy đi, chứ chúng khó gắpđược người bơi đứng. Tay phải tía nuôi tôi cầm một cây lao bằng gỗ mun. Gỗ munkỵ thịt cá sấu. Đâm vào thịt con cá sấu, cây mun cứ hút sâu vào, làm con vậtnhức buốt không chịu nổi. Cán lao buộc vào một đầu dây, phải biết lòng sông sâubao nhiêu sải nước mà sắm sợi dây cho vừa đủ, không thừa quá mà cũng khôngthiếu quá. Dây thừa quá thì phải mất công lặn xuống kiếm lâu mới gặp con cá sấutrúng thương, mà dây ngắn quá thì nó kéo phao chìm dưới nước, chẳng biết đâu màmò. Đầu kia sợi dây buộc vào một cái phao bằng gỗ mớp. Phải khoanh sợi dây chokhéo, để khi con cá sấu lôi dây chạy, sợi dây cứ xoay vòng tự động tháo ra,không vướng.
Trên phao kiền chặt cây đèn nghề, tựa như cáiđĩa sắt con sâu lòng, thả ngọn bấc vào cái đèn "mỡ người" ấy, thắpcháy lên. Lại phải cắm trên phao một cây cờ đỏ, để dễ nhận thấy từ xa (còn cólý do huyền bí nào đó nữa không thì tôi không được biết). Thả cái phao trôitrước mặt người thợ săn chừng hơn một với tay, được giữ cỡ bằng một sợi dâynhỏ. Tía nuôi tôi thả trôi theo nước như vậy, có khi hàng hai, ba giờ liền. Baogiờ ông cũng phải uống một tô nước mắm cốt, để trầm dưới nước lâu không bịnhiễm lạnh. Trong đêm tối mịt mùng, trên dòng sông mênh mông chỉ lấp lóe"ánh đèn thiêng" và đôi mắt sáng ngời của tía nuôi tôi... Đang trôixuôi, cả người ông bỗng bị xô lùi lại bởi một luồng nước tống lại cực mạnh.Nghe khì... ì... một tiếng, rồi một cái bướu to bằng cái bát trừng lên. Con cásấu nổi lên, há họng thè lưỡi liếm mỡ cháy trong cây đèn. Nhanh như chớp, tíanuôi tôi nín thở, dồn hết lực vào cánh tay, phóng mạnh cây lao đâm vào giữahọng nó, và lập tức buông phao ra. Con cá sấu trúng thương, đập đuôi ầm ầm, lộnlên lộn xuống, quẫy mạnh làm cho mặt sông nổi dậy sóng cồn. Rồi nó lôi dây,mang phao chạy. Tía nuôi tôi "ì..." một tiếng. Thuyền chèo yểm hộngười thợ săn cá sấu bao giờ cũng theo song song bên bờ, phòng trường hợp bấttrắc có thể bị đôi ba con nổi lên tấn công cùng một lúc thì xông ra tiếp ứng.Nghe tiếng "ì..." họ biết đã đâm trúng cá sấu rồi. Thế là thuyền chèobay ra, đón tía nuôi tôi lên. Con cá sấu chạy đến đâu, dây tháo theo đến đó. Nócố gắng chịu đau lắm thì cũng chỉ chạy nổi đôi ba nghìn thước là cùng. Rồi dầndần đuối sức, không chịu đau nổi nữa, nó tìm một cái vịnh sâu nào đó, trầmxuống đáy. Sáng hôm sau, hai chiếc thuyền của phường săn chia nhau trèo cặp haibên bờ để tìm cái phao. Bao giờ người đã phóng cây lao đâm trúng cá sấu cũng làngười lặn xuống đáy sông trói nó. Như vậy, mới được hưởng nguyên phần mình cáibao tử của con cá sấu khi mổ ra... Mỗi lần tía nuôi tôi mang vòng dây thép lặnxuống, thằng Cò theo thuyền cứ mếu máo chực khóc. Còn tay chân tôi thì cứ phátrun lên. Tía nuôi tôi lặn rất lâu mới trồi lên thở. Rồi lại kéo đôi lặn trởxuống buộc nó, để anh em phường thợ khác trên thuyền kéo nó lên. Thường sau mỗilần như vậy, tía nuôi tôi bao giờ cũng làm vài hớp rượu cho lại sức. ông đưabàn tay lạnh móp lên chùi những giọt rượu chảy xuống chòm râu đóng đầy rêu nướcxanh lè, ngó tôi và thằng Cò, cười khà khà:
- Hai đứa bay sao cứ khéo lo! Con cá sấu đãbị cây mun đâm, nhức buốt, tê liệt cả mình mẩy rồi. Nó bám sát đáy vịnh, taolặn xuống sờ đầu nó, nó cũng không dám động cựa. Cứ nằm im, chịu phép cho taokhớp mőm, trói lại. Cây mun đâm vào mắc giữa họng rồi, nó cắn ai được nữa? Càngcựa quậy thì càng đau thôi!
Một cơn gió từ mặt sông bất thình lình thổithốc vào bờ, khiến cho lá cờ đuôi nheo đỏ buộc trên đầu con sào giật nảy lên,reo vù vù. Tôi ngồi bên tía nuôi tôi và ông già Tư, nhìn xuống dòng sông mênhmông đang cuồn cuộn chảy, hình dung ra những con quái vật kinh khủng đang bơilặn dưới đó, càng thấy những con người nhỏ bé ngồi quây quần trong bóng thuyềnghếch mũi lên bãi cát đây thật vĩ đại biết bao nhiêu... "Hỡi thiên nhiêndữ dội và nham hiểm, ngươi hãy coi chừng. Không một sức mạnh nào ẩn chứa trongngươi mà con người không khuất phục nổi đâu!" Tôi chỉ chực muốn thét lênnhư vậy. May sao đó chỉ là những ý nghĩ còn nằm trong đầu óc thơ bé của tôi màtôi chưa thốt ra thành lời được. Không thì có lẽ ông già Tư và tía nuôi tôi sẽcho là tôi phát rồ cũng nên.
Danh sách chương