Nhã Phong Thi Hội của lục hoàng tử Hoằng Chiêu mấy năm nay đã dần trở thành một trào lưu nổi tiếng ở Trần Đô Đại Lương. Phàm là sĩ lâm tử đệ ở Đại Lương thì đều muốn mình sẽ được nhận thiếp mời Nhã Phong này.
Nhưng thực tế thì không phải ai cũng nhận được thiếp mời này, cho dù là người có một bụng học vấn đi chăng nữa.
Không phải vì lục hoàng tử xem trọng môn đệ, mà vấn đề chính là ở cung cấm.
Bởi lẽ lục hoàng tử Triệu Hoằng Chiêu vẫn chưa xuất các, Nhã Phong các của cậu nằm trong hoàng cung, việc này khiến cho những sĩ tử có tài ở bên ngoài không thể tham gia hội thơ được, bởi những người có gốc gác không rõ ràng như họ thì đến cổng cung còn không được bước vào nữa là.
Thế nên, chỉ có những tử đệ bản địa ở Trần Đô Đại Lương, hoặc những sĩ tử từ quận khác nhưng đã sống lâu ở Đại Lương, có được chút danh tiếng, không đến mức bị nghi ngờ là phần tử khả nghi thì mới có được vinh dự nhập cung, đến Nhã Phong các tham dự hội thơ.
Do có quá nhiều điều kiện hạn chế như thế nên các vị khách tham dự hội thơ của lục hoàng huynh cơ bản đều là những tử đệ quyền quý ở Đại Lương hoặc con cháu của đại thần trong triều. Những người này có xuất thân không tầm thường, đương nhiên sẽ không bị cấm vệ cung đình nghi ngờ.
Sau lưng lục hoàng huynh Triệu Hoằng Chiêu, Triệu Hoằng Nhuận và Ngọc Lung công chúa cùng bước vào tiền điện Nhã Phong các.
Triệu Hoằng Nhuận do trước đó từng đến vài lần rồi nên cũng không cảm thấy kỳ lạ, nhưng Ngọc Lung công chúa thì lại ngây người ra, bởi trong tiền điện của Nhã Phong các, trên bốn bức tường xung quanh đều có treo đầy các bức thư họa của vị Kỳ Lân Nhi này. Có bức vẽ suối, có bức vẽ sông, có bức vẽ công trình kiến trúc, có bức vẽ phong cảnh, có bức vẽ mỹ nhân, vô cùng đẹp mắt, khiến Ngọc Lung công chúa phải trợn tròn mắt.
Nàng thật sự không thể tin được cùng một người mà có thể vẽ ra các bức tranh phong cảnh với những phong cách khác nhau, viết ra những chữ với những kiểu thư pháp khác nhau.
Còn nhớ tháng trước, Ngọc Lung công chúa cũng từng dựa vào những lời mô tả của Triệu Hoằng Nhuận về cảnh trí ngoài cung, kết hợp với những gì nàng nhìn thấy vào dịp tết Đoan Ngọ mà vẽ ra rất nhiều bức họa treo trong khuê phòng. Nhưng những bức họa mà nàng cảm thấy vô cùng hài lòng ấy lại không thể nào sánh được với những bức thư họa mà Kỳ Lân Nhi treo ở tiền điện Nhã Phong các, khiến nàng cảm thấy xấu hổ đến mức chỉ muốn chạy về Ngọc Quỳnh các xé hết mấy bức họa mà mình từng rất tự đắc ấy.
“Lục hoàng huynh đúng là Kỳ Lân Nhi trời sinh!”
Nhìn thấy Ngọc Lung công chúa đứng ngây ra trước mặt mình mà trợn tròn mắt, Triệu Hoằng Nhuận làm sao mà không đoán được suy nghĩ của nàng, liền lập tức khẽ nói lời an ủi vào tai nàng.
Thật ra không chỉ có Ngọc Lung công chúa mà ngay cả Triệu Hoằng Nhuận cũng từng nhìn tài năng thư họa của lục hoàng huynh mà cảm thấy khâm phục.
Lúc này thì trong điện đã có mười mấy sĩ tử trạc tuổi Hoằng Chiêu và Hoằng Nhuận đang ngồi, dùng đũa khẽ gõ lên bát cơm hoặc chén trà mà cất cao tiếng hát.
Đương nhiên những người này gõ rất có âm luật, không hề lung tung chút nào, vừa nhìn là biết họ là những người tinh thông âm luật, thế nên cho dù có gõ vào bát cơm chén trà thì vẫn tấu ra được những khúc nhạc không tầm thường.
“Chư vị, chư vị.” Lục hoàng tử Hoằng Chiêu vỗ tay giới thiệu: “Hôm nay có một vị khách quý tham gia với chúng ta…”
Đám sĩ tử trẻ tuổi đang ngồi lập tức tò mò ngẩng đầu nhìn, thấy lục hoàng tử Hoằng Chiêu đẩy Triệu Hoằng Nhuận lên phía trước rồi mỉm cười giới thiệu: “Đó chính là bát đệ của ta, Hoằng Nhuận!”
“Ồ…”
Trong điện lập tức vang lên những tiếng trầm trồ, những tiếng trầm trồ ấy vang lên từ một vài sĩ tử trẻ tuổi, còn đám sĩ tử còn lại thì đang tò mò nhìn người đi cùng với bọn họ, cảm thấy không hiểu vì sao người ấy lại tỏ vẻ sợ sệt như thế.
“Thì ra là bát điện hạ, người đã từng nói các sư phụ ở Đông Cung không xứng dạy dỗ!”
Có một sĩ tử trạc tuổi Triệu Hoằng Chiêu chợt đứng dậy rồi chắp tay thi lễ với Triệu Hoằng Nhuận: “Hôm ấy ở Văn Đức điện, điện hạ thật sự đã khiến chúng tôi mở rộng tầm mắt!”
“Vị này là…?”
Thấy đối phương rõ ràng lớn hơn mình mấy tuổi nhưng vẫn chủ động cúi đầu hành đại lễ với mình, Triệu Hoằng Nhuận có hơi ngây ra, quay sang nhìn lục hoàng huynh.
Thấy thế, lục hoàng tử Hoằng Chiêu liền khẽ giải thích: “Vị này là cháu đích tôn của trung thư lệnh Hà lão, tên là Hà Hân Hiền.”
“Trung thư lệnh Hà lão? Tức là cháu trai của Hà Tương Tự sao? Hả? Hà Hân Hiền… Đó chẳng phải người đỗ hạng ba tân khoa sao?”
Triệu Hoằng Nhuận có hơi kinh ngạc, vội khách sáo chắp tay trả lễ: “Đâu dám đâu dám… Không sánh được với Hà công tử, đã đỗ hạng ba bảng tân khoa.”
Đây vốn là một lời khen thật lòng của Triệu Hoằng Nhuận, nhưng Hà Hân Hiền nghe câu này thì vẻ mặt lại trở nên ngượng ngùng.
Thấy thế, lục hoàng tử Hoằng Chiêu đứng bên cạnh vội giải thích: “Hân Hiền, huynh đừng hiểu lầm… Hoằng Nhuận không phải có ý cười đùa huynh đâu, do đệ ấy không biết việc xảy ra ở hội thơ năm ngoái thôi.”
“Cười đùa?” Triệu Hoằng Nhuận nghe thế thì lập tức cảm thấy khó hiểu.
Thế là lục hoàng tử Hoằng Chiêu phải giải thích một lượt với cậu.
Thì ra, do là cháu đích tôn của trung thư lệnh Hà Tương Tự nên Hà Hân Hiền vốn không cần phải vội vàng tham gia khoa thí. Nhưng vào năm ngoái, có vài sĩ tử con nhà quyền quý ở Trần Đô Đại Lương vì muốn tham gia Nhã Phong Thi Hội nhưng do tài năng không đủ mà bị từ chối, trong lòng ghen tức nên đã lan truyền tin đồn, nói rằng Nhã Phong Thi Hội chẳng qua chỉ là lục hoàng tử gọi vài kẻ tỏ vẻ đến, sau đó ăn chơi hưởng lạc, hoàn toàn chẳng có bản lĩnh gì cả.
Thế nên, là một trong những sĩ tử quen biết lục hoàng tử Hoằng Chiêu sớm nhất, cũng là khách mời thường xuyên của Nhã Phong Thi Hội, Hà Hân Hiền, cháu trai của trung thư lệnh Hà Tương Tự quyết định chủ động tham gia thi hương tổ chức vào mùa thu năm ngoái, mong có thể đỗ trạng nguyên đầu bảng ở kỳ thi hội năm nay, từ đó nâng cao danh tiếng của Nhã Phong Thi Hội, khiến cho đám người bị từ chối tham gia lại muốn vu hại Nhã Phong Thi Hội kia phải mất hết nhuệ khí.
Nhưng không ngờ kỳ thi hội Đại Ngụy năm nay lại xuất hiện hai bậc kỳ tài, một người là Khấu Chính, một người là Lạc Tân, khiến cho Hà Hân Hiền vốn hi vọng sẽ đỗ trạng nguyên thủ khoa đầu bảng kỳ thi đình nay chỉ đạt được hạng ba, thế nên cũng khó trách vì sao Hà Hân Hiền lại thấy ngượng ngùng xấu hổ.
“Thì ra là thế.”
Triệu Hoằng Nhuận lúc này mới hiểu ra, vội lắc đầu cười động viên: “Ta từng làm bồi giám khoa thi, cũng có biết đề thi hội lần này, Hà công tử có thể vượt qua hơn hai ngàn sáu trăm khảo sinh mà đạt hạng ba thì cũng đủ chứng tỏ học vấn đa tài của Hà công tử và Nhã Phong Thi Hội rồi, Hà công tử hà tất phải ôm sầu muộn trong lòng?”
“Ta cũng khuyên huynh ấy như thế.” Lục hoàng tử Hoằng Chiêu tiếp lời: “Trong số hai ngàn sáu trăm khảo sinh mà có thể đạt được hạng ba thì cũng đã là một thành tựu rất đáng tự hào rồi, Hân Hiền huynh đừng quá để tâm nữa.”
Nói xong, Triệu Hoằng Chiêu liền bảo đệ đệ Triệu Hoằng Nhuận ngồi xuống chiếu. Cậu sau đó vốn định bày riêng một chiếu cho Ngọc Lung công chúa, nhưng không ngờ nàng lại cùng ngồi chung với Triệu Hoằng Nhuận, thế nên Triệu Hoằng Chiêu cũng không bày thêm nữa.
Nói thật lòng thì cậu đang không biết phải làm sao để giới thiệu Ngọc Lung công chúa với các bạn của mình, chi bằng cứ mặc kệ đi vậy.
“Hà công tử hiện giờ đã có quan chức chưa?”
Sau khi an tọa, Triệu Hoằng Nhuận liền tò mò hỏi Hà Hân Hiền đang ngồi cạnh mình, vì thấy đối phương đã chủ động khiêm nhường hành lễ với mình nên Triệu Hoằng Nhuận thấy rất có cảm tình.
“Tạm thời đang giữ chức thư lệnh sứ chuyên sao chép văn thư ở Hàn Lâm phủ.” Hà Hân Hiền có hơi ngượng ngập trả lời.
“Thư lệnh sứ?” Triệu Hoằng Nhuận ngẩn người, thắc mắc hỏi: “Đường đường là người đứng thứ ba tân khoa, sao lại chỉ nhận chức thư lệnh sứ?”
Cái gọi là lệnh sứ chuyên sao chép văn thư nói trắng ra thì chính là một tiểu sứ chép sách, hoàn toàn chẳng có quyền hạn gì cả. Theo lí mà nói thì một sĩ tử tân khoa xuất sắc như Hà Hân Hiền ít nhất cũng phải là một lệnh sứ lang quan của hai mươi bốn ty, nếu dựa vào quan hệ thì muốn nhận chức cao hơn nữa cũng vẫn có thể, sao lại chỉ có thể là một thư lệnh sứ được? Cần phải biết trong Hàn Lâm phủ có đến hàng trăm viên thư lệnh sứ phụ trách chép văn thư, tuy cũng nằm trong thể hệ quan chế nhưng thực chất cũng chỉ là một tiểu sứ nhỏ nhoi.
“Gia tổ và gia phụ đều muốn ta trước tiên phải làm chức vụ thư lệnh sứ này hai năm đã.” Hà Hân Hiền khéo léo giải thích.
Triệu Hoằng Nhuận chợt hiểu ra, đang định nói gì đó thì chợt thấy lục hoàng huynh bước đến chớp mắt cười nói: “Thật ra Hân Hiền có hơi không phục, cho nên cố ý chỉ nhận chức thư lệnh sứ, chờ ba năm sau sẽ tham gia thi hội lần nữa.”
Bị lục hoàng tử nói trúng tâm tư, Hà Hân Hiền lập tức hơi đỏ mặt xấu hổ.
Ở Đại Ngụy vẫn cho phép các quan viên đang giữ chức được phép tham gia thi lại kỳ thi hội, tuy nhiên thường những người làm thế này đều là những người trẻ tuổi tràn đầy nhiệt huyết, bởi trong khoảng thời gian ba năm thì đối với Hà Hân Hiền mà nói, nếu quyết tâm thì hoàn toàn có thể leo lên vị trí lang quan, cần gì phải thi lại chứ? Cho dù có đỗ trạng nguyên thì sau đó cũng sẽ làm lang quan thôi, có gì khác biệt đâu?
Nói trắng ra thì đây chỉ là một cảm giác vinh quang, một lòng tự tôn của những sĩ tử không ham làm quan mà chỉ muốn một lần có được vinh dự trạng nguyên mà thôi.
Vừa nghĩ đến trạng nguyên thì Triệu Hoằng Nhuận liền bất giác nhớ đến hàn môn sĩ tử Khấu Chính, người đã đạt trạng nguyên tân khoa lần này.
“Sĩ tử tên Khấu Chính ấy... cũng ở Hàn Lâm phủ sao?”
Hà Hân Hiền lắc đầu nói: “Sĩ tử Khấu Chính ấy là tân khoa trạng nguyên, ban đầu sẽ chuẩn bị được bổ nhiệm làm lang quan, nhưng ngài ấy có vẻ lại muốn được làm quan bên ngoài hơn, theo ta được biết thì ngài ấy hi vọng triều đình sẽ ủy nhiệm mình làm huyện lệnh một vùng nào đó ở Thượng Đảng... Từ đó có thể thấy Khấu đại nhân đúng là một tuấn kiệt tràn đầy trách nhiệm.”
Triệu Hoằng Nhuận không khỏi kinh ngạc, bởi theo cậu được biết thì đại đa số sĩ tử trong thiên hạ này đều khao khát được nắm giữ một chức quan ở Trần Đô Đại Lương Đại Ngụy, ai lại chỉ muốn làm một huyện lệnh địa phương chứ? Bởi khi làm quan ở Trần Đô Đại Lương thì cơ hội thăng tiến sẽ cao hơn rất nhiều so với làm quan ở địa phương, một khi gặp được quý nhân nâng đỡ thì sẽ lên như diều gặp gió, thế mà tân khoa trạng nguyên ấy lại chủ động xin đảm nhận chức huyện lệnh ở địa phương, quả đúng như lời khen của Hà Hân Hiền, rõ ràng đây là một người rất có trách nhiệm, thật sự hi vọng có thể góp sức để Đại Ngụy ngày một lớn mạnh.
Đột nhiên, Triệu Hoằng Nhuận lại nhớ ra một việc, bèn khẽ hỏi: “Hoàng huynh, người đỗ thứ hai tân khoa đã gia nhập Đông Cung, việc này là sao?”
Lục hoàng tử Hoằng Chiêu còn chưa kịp mở miệng thì Hà Hân Hiền đã nói: “Là vị sĩ tử tên Lạc Tân đúng không? Việc này ta cũng có nghe nói... Thật ra người mà ban đầu Đông Cung chiêu mộ là Khấu Chính, tiếc là Khấu Chính lại có ý muốn ra ngoài làm huyện lệnh, thế là Đông Cung liền chuyển hướng sang chiêu mộ Lạc Tân, Lạc Tân sau đó liền từ chối làm lang quan rồi được điều vào Đông Cung làm thái tử bạn thần… Tôi có chút tiếp xúc với người này, thật sự là một sĩ tử bác học đa tài.” Nói đến đây, Hà Hân Hiền đột nhiên thấy Triệu Hoằng Nhuận nhìn mình chằm chằm bằng vẻ mặt thắc mắc.
“Hà công tử này, lẽ nào huynh thấy hai vị này đều từ chối làm lang quan nên cũng từ chối luôn sao?” Triệu Hoằng Nhuận châm chọc.
Hà Hân Hiền nghe thế lập tức đỏ mặt, xem ra đã bị Triệu Hoằng Nhuận nói trúng ý rồi.
Nhưng cũng không khó hiểu lắm, đường đường là tân khoa trạng nguyên và bảng nhãn nhưng đều từ chối nhận các chức vụ lang quan, một người ra ngoài làm huyện lệnh, một người sang làm bạn thần cho thái tử, nếu đã thế thì người đỗ thứ ba như Hà Hân Hiền làm sao dám nhận chức lang quan? Thế nên mới quyết tâm chỉ làm thư lệnh sứ, chăm chỉ chép sách ở Hàn Lâm phủ, chờ ba năm sau thi lại để đoạt vinh quang trạng nguyên.
Trò chuyện một lúc, Triệu Hoằng Nhuận và Hà Hân Hiền dần trở nên thân thiết hơn, vì Hà Hân Hiền là cháu trai của trung thư lệnh Hà Tương Tự, mà Hà Tương Tự lại là một người “bạn lâu năm” của Triệu Hoằng Nhuận, thế nên Triệu Hoằng Nhuận thân thiết với Hà Hân Hiền cũng không phải điều bất ngờ.
Nhưng Triệu Hoằng Nhuận chỉ lo nói chuyện với Hà Hân Hiền mà lại quên mất những sĩ tử trẻ tuổi khác trong điện.
Lúc này có một sĩ tử bất mãn nói: “Bát điện hạ lẽ nào xem thường chúng tôi sao?”
“…”
Triệu Hoằng Nhuận cau mày nhìn về phía người ấy.
Nhưng thực tế thì không phải ai cũng nhận được thiếp mời này, cho dù là người có một bụng học vấn đi chăng nữa.
Không phải vì lục hoàng tử xem trọng môn đệ, mà vấn đề chính là ở cung cấm.
Bởi lẽ lục hoàng tử Triệu Hoằng Chiêu vẫn chưa xuất các, Nhã Phong các của cậu nằm trong hoàng cung, việc này khiến cho những sĩ tử có tài ở bên ngoài không thể tham gia hội thơ được, bởi những người có gốc gác không rõ ràng như họ thì đến cổng cung còn không được bước vào nữa là.
Thế nên, chỉ có những tử đệ bản địa ở Trần Đô Đại Lương, hoặc những sĩ tử từ quận khác nhưng đã sống lâu ở Đại Lương, có được chút danh tiếng, không đến mức bị nghi ngờ là phần tử khả nghi thì mới có được vinh dự nhập cung, đến Nhã Phong các tham dự hội thơ.
Do có quá nhiều điều kiện hạn chế như thế nên các vị khách tham dự hội thơ của lục hoàng huynh cơ bản đều là những tử đệ quyền quý ở Đại Lương hoặc con cháu của đại thần trong triều. Những người này có xuất thân không tầm thường, đương nhiên sẽ không bị cấm vệ cung đình nghi ngờ.
Sau lưng lục hoàng huynh Triệu Hoằng Chiêu, Triệu Hoằng Nhuận và Ngọc Lung công chúa cùng bước vào tiền điện Nhã Phong các.
Triệu Hoằng Nhuận do trước đó từng đến vài lần rồi nên cũng không cảm thấy kỳ lạ, nhưng Ngọc Lung công chúa thì lại ngây người ra, bởi trong tiền điện của Nhã Phong các, trên bốn bức tường xung quanh đều có treo đầy các bức thư họa của vị Kỳ Lân Nhi này. Có bức vẽ suối, có bức vẽ sông, có bức vẽ công trình kiến trúc, có bức vẽ phong cảnh, có bức vẽ mỹ nhân, vô cùng đẹp mắt, khiến Ngọc Lung công chúa phải trợn tròn mắt.
Nàng thật sự không thể tin được cùng một người mà có thể vẽ ra các bức tranh phong cảnh với những phong cách khác nhau, viết ra những chữ với những kiểu thư pháp khác nhau.
Còn nhớ tháng trước, Ngọc Lung công chúa cũng từng dựa vào những lời mô tả của Triệu Hoằng Nhuận về cảnh trí ngoài cung, kết hợp với những gì nàng nhìn thấy vào dịp tết Đoan Ngọ mà vẽ ra rất nhiều bức họa treo trong khuê phòng. Nhưng những bức họa mà nàng cảm thấy vô cùng hài lòng ấy lại không thể nào sánh được với những bức thư họa mà Kỳ Lân Nhi treo ở tiền điện Nhã Phong các, khiến nàng cảm thấy xấu hổ đến mức chỉ muốn chạy về Ngọc Quỳnh các xé hết mấy bức họa mà mình từng rất tự đắc ấy.
“Lục hoàng huynh đúng là Kỳ Lân Nhi trời sinh!”
Nhìn thấy Ngọc Lung công chúa đứng ngây ra trước mặt mình mà trợn tròn mắt, Triệu Hoằng Nhuận làm sao mà không đoán được suy nghĩ của nàng, liền lập tức khẽ nói lời an ủi vào tai nàng.
Thật ra không chỉ có Ngọc Lung công chúa mà ngay cả Triệu Hoằng Nhuận cũng từng nhìn tài năng thư họa của lục hoàng huynh mà cảm thấy khâm phục.
Lúc này thì trong điện đã có mười mấy sĩ tử trạc tuổi Hoằng Chiêu và Hoằng Nhuận đang ngồi, dùng đũa khẽ gõ lên bát cơm hoặc chén trà mà cất cao tiếng hát.
Đương nhiên những người này gõ rất có âm luật, không hề lung tung chút nào, vừa nhìn là biết họ là những người tinh thông âm luật, thế nên cho dù có gõ vào bát cơm chén trà thì vẫn tấu ra được những khúc nhạc không tầm thường.
“Chư vị, chư vị.” Lục hoàng tử Hoằng Chiêu vỗ tay giới thiệu: “Hôm nay có một vị khách quý tham gia với chúng ta…”
Đám sĩ tử trẻ tuổi đang ngồi lập tức tò mò ngẩng đầu nhìn, thấy lục hoàng tử Hoằng Chiêu đẩy Triệu Hoằng Nhuận lên phía trước rồi mỉm cười giới thiệu: “Đó chính là bát đệ của ta, Hoằng Nhuận!”
“Ồ…”
Trong điện lập tức vang lên những tiếng trầm trồ, những tiếng trầm trồ ấy vang lên từ một vài sĩ tử trẻ tuổi, còn đám sĩ tử còn lại thì đang tò mò nhìn người đi cùng với bọn họ, cảm thấy không hiểu vì sao người ấy lại tỏ vẻ sợ sệt như thế.
“Thì ra là bát điện hạ, người đã từng nói các sư phụ ở Đông Cung không xứng dạy dỗ!”
Có một sĩ tử trạc tuổi Triệu Hoằng Chiêu chợt đứng dậy rồi chắp tay thi lễ với Triệu Hoằng Nhuận: “Hôm ấy ở Văn Đức điện, điện hạ thật sự đã khiến chúng tôi mở rộng tầm mắt!”
“Vị này là…?”
Thấy đối phương rõ ràng lớn hơn mình mấy tuổi nhưng vẫn chủ động cúi đầu hành đại lễ với mình, Triệu Hoằng Nhuận có hơi ngây ra, quay sang nhìn lục hoàng huynh.
Thấy thế, lục hoàng tử Hoằng Chiêu liền khẽ giải thích: “Vị này là cháu đích tôn của trung thư lệnh Hà lão, tên là Hà Hân Hiền.”
“Trung thư lệnh Hà lão? Tức là cháu trai của Hà Tương Tự sao? Hả? Hà Hân Hiền… Đó chẳng phải người đỗ hạng ba tân khoa sao?”
Triệu Hoằng Nhuận có hơi kinh ngạc, vội khách sáo chắp tay trả lễ: “Đâu dám đâu dám… Không sánh được với Hà công tử, đã đỗ hạng ba bảng tân khoa.”
Đây vốn là một lời khen thật lòng của Triệu Hoằng Nhuận, nhưng Hà Hân Hiền nghe câu này thì vẻ mặt lại trở nên ngượng ngùng.
Thấy thế, lục hoàng tử Hoằng Chiêu đứng bên cạnh vội giải thích: “Hân Hiền, huynh đừng hiểu lầm… Hoằng Nhuận không phải có ý cười đùa huynh đâu, do đệ ấy không biết việc xảy ra ở hội thơ năm ngoái thôi.”
“Cười đùa?” Triệu Hoằng Nhuận nghe thế thì lập tức cảm thấy khó hiểu.
Thế là lục hoàng tử Hoằng Chiêu phải giải thích một lượt với cậu.
Thì ra, do là cháu đích tôn của trung thư lệnh Hà Tương Tự nên Hà Hân Hiền vốn không cần phải vội vàng tham gia khoa thí. Nhưng vào năm ngoái, có vài sĩ tử con nhà quyền quý ở Trần Đô Đại Lương vì muốn tham gia Nhã Phong Thi Hội nhưng do tài năng không đủ mà bị từ chối, trong lòng ghen tức nên đã lan truyền tin đồn, nói rằng Nhã Phong Thi Hội chẳng qua chỉ là lục hoàng tử gọi vài kẻ tỏ vẻ đến, sau đó ăn chơi hưởng lạc, hoàn toàn chẳng có bản lĩnh gì cả.
Thế nên, là một trong những sĩ tử quen biết lục hoàng tử Hoằng Chiêu sớm nhất, cũng là khách mời thường xuyên của Nhã Phong Thi Hội, Hà Hân Hiền, cháu trai của trung thư lệnh Hà Tương Tự quyết định chủ động tham gia thi hương tổ chức vào mùa thu năm ngoái, mong có thể đỗ trạng nguyên đầu bảng ở kỳ thi hội năm nay, từ đó nâng cao danh tiếng của Nhã Phong Thi Hội, khiến cho đám người bị từ chối tham gia lại muốn vu hại Nhã Phong Thi Hội kia phải mất hết nhuệ khí.
Nhưng không ngờ kỳ thi hội Đại Ngụy năm nay lại xuất hiện hai bậc kỳ tài, một người là Khấu Chính, một người là Lạc Tân, khiến cho Hà Hân Hiền vốn hi vọng sẽ đỗ trạng nguyên thủ khoa đầu bảng kỳ thi đình nay chỉ đạt được hạng ba, thế nên cũng khó trách vì sao Hà Hân Hiền lại thấy ngượng ngùng xấu hổ.
“Thì ra là thế.”
Triệu Hoằng Nhuận lúc này mới hiểu ra, vội lắc đầu cười động viên: “Ta từng làm bồi giám khoa thi, cũng có biết đề thi hội lần này, Hà công tử có thể vượt qua hơn hai ngàn sáu trăm khảo sinh mà đạt hạng ba thì cũng đủ chứng tỏ học vấn đa tài của Hà công tử và Nhã Phong Thi Hội rồi, Hà công tử hà tất phải ôm sầu muộn trong lòng?”
“Ta cũng khuyên huynh ấy như thế.” Lục hoàng tử Hoằng Chiêu tiếp lời: “Trong số hai ngàn sáu trăm khảo sinh mà có thể đạt được hạng ba thì cũng đã là một thành tựu rất đáng tự hào rồi, Hân Hiền huynh đừng quá để tâm nữa.”
Nói xong, Triệu Hoằng Chiêu liền bảo đệ đệ Triệu Hoằng Nhuận ngồi xuống chiếu. Cậu sau đó vốn định bày riêng một chiếu cho Ngọc Lung công chúa, nhưng không ngờ nàng lại cùng ngồi chung với Triệu Hoằng Nhuận, thế nên Triệu Hoằng Chiêu cũng không bày thêm nữa.
Nói thật lòng thì cậu đang không biết phải làm sao để giới thiệu Ngọc Lung công chúa với các bạn của mình, chi bằng cứ mặc kệ đi vậy.
“Hà công tử hiện giờ đã có quan chức chưa?”
Sau khi an tọa, Triệu Hoằng Nhuận liền tò mò hỏi Hà Hân Hiền đang ngồi cạnh mình, vì thấy đối phương đã chủ động khiêm nhường hành lễ với mình nên Triệu Hoằng Nhuận thấy rất có cảm tình.
“Tạm thời đang giữ chức thư lệnh sứ chuyên sao chép văn thư ở Hàn Lâm phủ.” Hà Hân Hiền có hơi ngượng ngập trả lời.
“Thư lệnh sứ?” Triệu Hoằng Nhuận ngẩn người, thắc mắc hỏi: “Đường đường là người đứng thứ ba tân khoa, sao lại chỉ nhận chức thư lệnh sứ?”
Cái gọi là lệnh sứ chuyên sao chép văn thư nói trắng ra thì chính là một tiểu sứ chép sách, hoàn toàn chẳng có quyền hạn gì cả. Theo lí mà nói thì một sĩ tử tân khoa xuất sắc như Hà Hân Hiền ít nhất cũng phải là một lệnh sứ lang quan của hai mươi bốn ty, nếu dựa vào quan hệ thì muốn nhận chức cao hơn nữa cũng vẫn có thể, sao lại chỉ có thể là một thư lệnh sứ được? Cần phải biết trong Hàn Lâm phủ có đến hàng trăm viên thư lệnh sứ phụ trách chép văn thư, tuy cũng nằm trong thể hệ quan chế nhưng thực chất cũng chỉ là một tiểu sứ nhỏ nhoi.
“Gia tổ và gia phụ đều muốn ta trước tiên phải làm chức vụ thư lệnh sứ này hai năm đã.” Hà Hân Hiền khéo léo giải thích.
Triệu Hoằng Nhuận chợt hiểu ra, đang định nói gì đó thì chợt thấy lục hoàng huynh bước đến chớp mắt cười nói: “Thật ra Hân Hiền có hơi không phục, cho nên cố ý chỉ nhận chức thư lệnh sứ, chờ ba năm sau sẽ tham gia thi hội lần nữa.”
Bị lục hoàng tử nói trúng tâm tư, Hà Hân Hiền lập tức hơi đỏ mặt xấu hổ.
Ở Đại Ngụy vẫn cho phép các quan viên đang giữ chức được phép tham gia thi lại kỳ thi hội, tuy nhiên thường những người làm thế này đều là những người trẻ tuổi tràn đầy nhiệt huyết, bởi trong khoảng thời gian ba năm thì đối với Hà Hân Hiền mà nói, nếu quyết tâm thì hoàn toàn có thể leo lên vị trí lang quan, cần gì phải thi lại chứ? Cho dù có đỗ trạng nguyên thì sau đó cũng sẽ làm lang quan thôi, có gì khác biệt đâu?
Nói trắng ra thì đây chỉ là một cảm giác vinh quang, một lòng tự tôn của những sĩ tử không ham làm quan mà chỉ muốn một lần có được vinh dự trạng nguyên mà thôi.
Vừa nghĩ đến trạng nguyên thì Triệu Hoằng Nhuận liền bất giác nhớ đến hàn môn sĩ tử Khấu Chính, người đã đạt trạng nguyên tân khoa lần này.
“Sĩ tử tên Khấu Chính ấy... cũng ở Hàn Lâm phủ sao?”
Hà Hân Hiền lắc đầu nói: “Sĩ tử Khấu Chính ấy là tân khoa trạng nguyên, ban đầu sẽ chuẩn bị được bổ nhiệm làm lang quan, nhưng ngài ấy có vẻ lại muốn được làm quan bên ngoài hơn, theo ta được biết thì ngài ấy hi vọng triều đình sẽ ủy nhiệm mình làm huyện lệnh một vùng nào đó ở Thượng Đảng... Từ đó có thể thấy Khấu đại nhân đúng là một tuấn kiệt tràn đầy trách nhiệm.”
Triệu Hoằng Nhuận không khỏi kinh ngạc, bởi theo cậu được biết thì đại đa số sĩ tử trong thiên hạ này đều khao khát được nắm giữ một chức quan ở Trần Đô Đại Lương Đại Ngụy, ai lại chỉ muốn làm một huyện lệnh địa phương chứ? Bởi khi làm quan ở Trần Đô Đại Lương thì cơ hội thăng tiến sẽ cao hơn rất nhiều so với làm quan ở địa phương, một khi gặp được quý nhân nâng đỡ thì sẽ lên như diều gặp gió, thế mà tân khoa trạng nguyên ấy lại chủ động xin đảm nhận chức huyện lệnh ở địa phương, quả đúng như lời khen của Hà Hân Hiền, rõ ràng đây là một người rất có trách nhiệm, thật sự hi vọng có thể góp sức để Đại Ngụy ngày một lớn mạnh.
Đột nhiên, Triệu Hoằng Nhuận lại nhớ ra một việc, bèn khẽ hỏi: “Hoàng huynh, người đỗ thứ hai tân khoa đã gia nhập Đông Cung, việc này là sao?”
Lục hoàng tử Hoằng Chiêu còn chưa kịp mở miệng thì Hà Hân Hiền đã nói: “Là vị sĩ tử tên Lạc Tân đúng không? Việc này ta cũng có nghe nói... Thật ra người mà ban đầu Đông Cung chiêu mộ là Khấu Chính, tiếc là Khấu Chính lại có ý muốn ra ngoài làm huyện lệnh, thế là Đông Cung liền chuyển hướng sang chiêu mộ Lạc Tân, Lạc Tân sau đó liền từ chối làm lang quan rồi được điều vào Đông Cung làm thái tử bạn thần… Tôi có chút tiếp xúc với người này, thật sự là một sĩ tử bác học đa tài.” Nói đến đây, Hà Hân Hiền đột nhiên thấy Triệu Hoằng Nhuận nhìn mình chằm chằm bằng vẻ mặt thắc mắc.
“Hà công tử này, lẽ nào huynh thấy hai vị này đều từ chối làm lang quan nên cũng từ chối luôn sao?” Triệu Hoằng Nhuận châm chọc.
Hà Hân Hiền nghe thế lập tức đỏ mặt, xem ra đã bị Triệu Hoằng Nhuận nói trúng ý rồi.
Nhưng cũng không khó hiểu lắm, đường đường là tân khoa trạng nguyên và bảng nhãn nhưng đều từ chối nhận các chức vụ lang quan, một người ra ngoài làm huyện lệnh, một người sang làm bạn thần cho thái tử, nếu đã thế thì người đỗ thứ ba như Hà Hân Hiền làm sao dám nhận chức lang quan? Thế nên mới quyết tâm chỉ làm thư lệnh sứ, chăm chỉ chép sách ở Hàn Lâm phủ, chờ ba năm sau thi lại để đoạt vinh quang trạng nguyên.
Trò chuyện một lúc, Triệu Hoằng Nhuận và Hà Hân Hiền dần trở nên thân thiết hơn, vì Hà Hân Hiền là cháu trai của trung thư lệnh Hà Tương Tự, mà Hà Tương Tự lại là một người “bạn lâu năm” của Triệu Hoằng Nhuận, thế nên Triệu Hoằng Nhuận thân thiết với Hà Hân Hiền cũng không phải điều bất ngờ.
Nhưng Triệu Hoằng Nhuận chỉ lo nói chuyện với Hà Hân Hiền mà lại quên mất những sĩ tử trẻ tuổi khác trong điện.
Lúc này có một sĩ tử bất mãn nói: “Bát điện hạ lẽ nào xem thường chúng tôi sao?”
“…”
Triệu Hoằng Nhuận cau mày nhìn về phía người ấy.
Danh sách chương