Tất cả các bản báo
cáo đều mất hút như đá chìm đáy biển, chẳng ai hồi âm một lời nào cho
chúng tôi. Nếu đúng như Vương Tứ Xuyên nói, thì dẫu chúng tôi đã trải
qua mọi chuyện, nhưng chắc chắn họ sẽ không nói cho chúng tôi biết rõ
chân tướng.
Lẽ ra đến giờ này thì mọi chuyện liên quan đến chúng tôi đều đã xong xuôi và chúng tôi phải được điều chuyển trở lên mặt đất, nhưng mệnh lệnh cuối cùng mà chúng tôi nhận được lại là: sẵn sàng đợi lệnh tại vị trí. Mệnh lệnh này khiến tôi cảm thấy hơi bất thường, dường như có chuyện gì đó đang đợi chờ chúng tôi ở phía trước.
Cấp trên mãi mãi không bao giờ giải thích, còn chúng tôi thì phải chấp nhận vô điều kiện. Song khi ấy tôi cũng không lấy thế làm tức giận, bởi vốn đã mắc lỗi thì giờ cứ phải lờ đi, chứ nào còn dám to tiếng đấu tranh.
Chúng tôi được phân công vào đại đội quân y, sống ở những bệ gỗ ghép tạm trên lưới thép, không cùng khu vực với các thành viên đội địa chất khác. Cấp trên cử một sĩ quan cấp úy mở một cuộc họp nhỏ, giảng giải về tính quan trọng của công tác bảo mật, họ nói mọi chuyện chúng ta trải qua nơi đây đều được liệt vào chuyện cơ mật, không được phép kể cho bất kì ai.
Các đội khác có lẽ cũng đều được phổ biến về việc này, nên chẳng ai dám hỏi chúng tôi, tuy vậy, mọi người đều nhìn chúng tôi với con mắt kì lạ. Cả một đội quân chỉ có bốn người chúng tôi sống sót nên đương nhiên phải chịu nhiều lời đồn thất thiệt, có lời đồn làm tôi suýt phát điên, bởi họ nói hai chúng tôi bị nghi ngờ là gián điệp nên phải điều tra đặc biệt. Tôi cũng chẳng rõ ánh mắt họ dành cho mình bao hàm nỗi sợ hãi hay thương hại, chỉ thấy rất buồn cười.
Trong đại đội quân y, tôi còn rất ngạc nhiên khi nhìn thấy Bùi Thanh, tóc cậu ta bạc đi rất nhiều, nhưng rõ ràng khi ấy nhóm cậu ta ở lại nhà kho hóa ra an toàn nhất.
Trò chuyện một lát, tôi mới biết người làm bản báo cáo đầu tiên trước chúng tôi chính là cậu ta.
Bùi Thanh thong thả kể nhóm cậu ta cũng có bốn người sống sót. Lúc nói chuyện, trông cậu ta rất lạnh lùng, nhìn vào mắt cậu ta, tôi cũng không đoán được cậu ta đang nghĩ gì.
Tôi không nhìn thấy anh Miêu, Bùi Thanh cũng không có tin tức gì về anh ấy, nghĩ đến anh Miêu, tôi cho rằng đó là nhân vật không đơn giản, cáo già như anh ấy không thể chết ở nơi này được, lẽ nào anh ấy đang ở trong bộ tư lệnh? Có điều lúc ấy anh đi cùng nhóm anh Đường rời khỏi nhà kho, nên cũng khó nói kết cục thế nào.
Trong suốt một tháng sau đó, chúng tôi cố gắng an phận, Vương Tứ Xuyên cũng có một nhóm chơi riêng trong đội địa chất, dần dần hỏi thăm tình hình, cậu ấy cũng biết được vài manh mối, nhưng đó đều không phải chuyện quan trọng.
Chúng tôi cứ sống như vậy hết ngày này qua ngày khác, tôi thấy tia lửa hàn thấp thoáng lóe lên đằng xa ở khắp nơi, thêm vào đó là các máy móc thiết bị của Liên Xô được trùm vải bạt khiến tôi bắt đầu tin chắc rằng có chuyện bất thường đang sắp sửa xảy ra.
Dẫu cần khảo sát trường kì ở đây, thì cũng không cần tiến hành duy tu công trình một cách chặt chẽ sít sao như vậy, tình hình đang diễn ra ở đây khiến tôi lại thấy giống như đang tiến hành một công trình quy mô nào đó.
Dường như mọi việc không hề diễn tiến theo chiều hướng kết thúc, mà ngược lại họ đang bắt đầu công tác chuẩn bị cho một kế hoạch lớn.
Trong môi trường ẩm ướt và bí bách, cảm giác này khiến tôi cảm thấy vô cùng bất an.
Suy nghĩ ấy càng ngày càng mãnh liệt trong tôi. Nửa tháng sau, những đội thám trắc địa chất khác bắt đầu lần lượt rút đi, trong khi đó khẩu phần ăn của chúng tôi lại đột ngột trở nên vô cùng thịnh soạn. Lần đầu tiên trong hộp cơm của chúng tôi xuất hiện nguyên cái đùi gà.
Vào thời kì đó, mức độ quý hiếm của đùi gà phải tương đương với chân gấu bây giờ, loại thức ăn cao cấp này không bao giờ xuất hiện trên mâm cơm tập thể.
Khẩu phần ăn cao cấp nhất trong suốt hai mươi năm ăn uống của đời tôi là lần dự buổi lễ mừng công ở Diên An, sau khi Karamay đại thắng, tôi được đi báo cáo với tư cách là đại diện cho thanh niên, lần ấy trong khẩu phần ăn của tôi có đậu nành và thịt muối, chắc chỉ ba miếng là cùng. Đối với người chẳng mấy khi được ăn cơm trắng như tôi, thì mùi vị tươi ngon của ba miếng thịt muối thực còn tuyệt hơn cả thịt rồng. Chuyện này về sau trở thành câu chuyện đáng tự hào nhất mà tôi thường mang ra kể với mọi người.
Ví dụ em trai tôi tòng quân ở Đông Bắc, hồi đó một tháng mỗi người được phân phối nửa cân gạo. Khái niệm này phải hiểu thế nào? Nghĩa rằng gạo không còn là gạo nữa, mà được coi như đường.
Nói thế để bạn có thể tưởng tượng được cảm giác chấn động của tôi khi trông thấy cái đùi gà, thậm chí tôi còn ngờ rằng mình hoa mắt nên nhìn nhầm. Sau khi ăn vài miếng, mùi thơm của dầu mỡ xào nấu khiến tôi lịm người.
Bữa cơm ấy tôi mất chẵn một tiếng đồng hồ mới gặm hết cái đùi gà, ăn xong mà lòng vẫn nghĩ: nếu tôi kể chuyện này cho mọi người trong đội nghe, thì không biết họ sẽ ghen tị đến độ nào.
Ngược lại với tôi, Vương Tứ Xuyên gần như không để ý đến cái đùi gà, cậu ấy sống ở vùng núi, lại hay có thói quen đi săn, tay nghề cũng không đến nỗi tệ, nên việc săn được mấy con gà rừng là chuyện thường. Tuy mấy bữa ăn sau đó không có đùi gà, nhưng lại có nhiều đồ ăn ngon khác, như nấm hương và tôm.
Tôm đúng là loại thực phẩm hiếm, nhưng lại không làm tôi hưng phấn như khi ăn thịt gà. Tất cả công điểm và phiếu lương thực mà tôi bôn ba ra ngoài kiếm được đều đưa cả cho mọi người trong nhà, em trai biết tôi vất vả nên thường chạy ra bờ suối câu tôm, sau đó phơi thành tôm khô gửi cho tôi. Lúc nhìn thấy mấy con tôm trong đĩa, bỗng dưng tôi lại nhớ nhà da diết, lòng chùng xuống bùi ngùi. Tôi rất hiếm khi trải qua thứ cảm giác của tuổi trẻ bồng bột ấy, nhưng trong tình huống này chẳng hiểu sao mình lại giàu cảm xúc như vậy.
Vừa phấp phỏng đợi chờ tin tức mới, tôi vừa lén chạy đến khu cứu thương. Tôi rất muốn gặp Viên Hỷ Lạc, dẫu không nhìn thấy mặt, nhưng đứng đợi bên ngoài lều của cô ấy, ở khoảng cách gần thế này, đầu tôi lại hồi tưởng đến những khoảnh khắc hai người bên nhau, rồi vô thức mỉm cười.
Thực ra lúc này, tôi có thể nhờ Vương Tứ Xuyên giúp mình dò hỏi tin tức thông qua đám bạn bè trong hội của cậu ấy, nhưng cuối cùng tôi không thể mở miệng nổi, bởi vừa xấu hổ vừa nghi ngại, mà chủ yếu là tôi không biết nên mở lời như thế nào, tôi sợ bị họ truy hỏi.
Mãi một tuần sau, cảm giác giày vò này mới tạm nguôi ngoai. Hôm ấy, tôi lại lang thang quanh khu cứu thương như mọi ngày, đột nhiên tôi phát hiện cảnh vệ gác cổng lều đều rút hết, cửa lều rộng mở.
Tôi sững người một lát, ngỡ mình đã đi nhầm chỗ, nhưng nhìn kĩ lại thì phát hiện chính là nơi đây, cả người tôi lập tức run lên.
Lều của Viên Hỷ Lạc đã được giải trừ lệnh cấm vào.
Điều này có nghĩa gì? Nghĩa là cô ấy không thể qua khỏi giống như Mã Tại Hải hay cô ấy đã hoàn toàn bình phục? Tôi lắc đầu, cố xua đi những ý nghĩ xui xẻo, nhìn màn lều mở toang hoang, đột nhiên tôi không biết nên làm gì mới phải. Lúc trước mỗi lần đến, tôi đều mong muốn được vào bên trong, bây giờ cửa đã mở rồi thì tôi lại không dám vào.
Tôi đợi ngoài cửa suốt hồi lâu, cuối cùng cũng cố nén hồi hộp và hạ quyết tâm, khoảnh khắc bước vào lều, đầu tôi hồ như trống rỗng.
Nhưng tôi lập tức phát hiện trong lều không có người, trên giường cũng không có người, chăn được gấp gọn gàng, nhưng bình truyền thì vẫn treo trên giá.
Tôi đi một vòng, đến gần mép giường của Hỷ Lạc, sờ tay vào tấm nệm, tưởng tượng ra cảnh cô ấy đang nằm trên giường, có lẽ giờ cô ấy đang ra ngoài hóng mát hoặc đi kiểm tra sức khoẻ, đến lúc này cảm giác xúc động trong lòng tôi dần dần lắng xuống.
“Cậu làm gì ở đây vậy?” - Đang ngẩn người, một giọng nói chợt vang lên từ phía sau.
Tôi quay đầu lại thì thấy bà y tá trung niên đang trừng mắt nhìn mình với vẻ giận dữ.
Tôi là thương binh nên cũng từng được bà ấy chăm sóc, nhận ra người quen tôi liền hỏi: “Tôi muốn đến thăm đồng chí Viên Hỷ Lạc. Có phải đồng chí ấy đã khỏe rồi không?”
“Cô ấy đi kiểm tra rồi, ban ngày ở lều khác, tối mới về đây!” - Bà ấy trả lời cụt lủn - “Đây là lều dành cho nữ binh, nếu muốn đến thăm, thì cậu phải hẹn trước, tìm lãnh đạo và tổ chức cùng đi mới được.”
Tôi giải thích: “Tôi nhìn thấy cảnh vệ không canh cổng nữa, nên tưởng có thể tự do vào thăm.”
“Người nào cũng vào thăm thì bệnh nhân lấy đâu ra thời gian nghỉ ngơi?” - Bà ấy cầm chiếc cặp lồng sắt đang đặt trên bàn và đi ra ngoài, chắc định xuống nhà bếp lấy cơm - “Cậu đừng đợi nữa, cô ấy có về tôi cũng không cho phép hai cô cậu gặp riêng đâu. Về đi! Nhớ kéo rèm lại đấy! Lúc về mà còn trông thấy cậu thì đừng trách tôi không khách sáo!”, nói xong, bà ấy quày quả bỏ đi.
Tôi thở dài, lòng bỗng thấy hơi thất vọng, vốn nghĩ cuối cùng cũng được gặp Viên Hỷ Lạc, thế mà vẫn không được gặp, ở đây buổi tối người ta lại không cho phép người ngoài vào thăm, nên tôi không thể đợi cô ấy về được.
Sắp xếp giường chiếu một lát, tôi nhìn tấm nệm rồi chuẩn bị quay người rời khỏi lều, nhưng mới đi mấy bước, đột nhiên tôi muốn lưu thứ gì đó để cô ấy biết mình đã từng đến.
Sờ khắp người chỉ tìm thấy bao thuốc, tôi thở dài, nghĩ đến cảnh cô ấy đòi hút thuốc lúc còn ở trong trạm lánh nạn, tôi bất giác thấy hơi buồn. Rút một điếu thuốc ra, còn để cả bao dưới gối của cô ấy, cuối cùng tôi cũng quay người rời đi.
Ra khỏi khu vực cứu thương, châm thuốc hút, tôi đột nhiên thấy cảm giác bồn chồn trong lòng dần dần lắng dịu, rồi nghĩ chẳng biết Viên Hỷ Lạc có phát hiện hộp thuốc lá là do tôi để lại hay không, trong sát na rơi vào ảo giác, tôi thấy mình đang nằm dưới gối của Viên Hỷ Lạc và đợi cô ấy trở về.
Liên tiếp mấy ngày sau, tôi không đến tìm cô ấy nữa, bởi ngay từ lúc ngủ dậy, tôi đã bắt đầu phải học hàng loạt tuyên ngôn tư tưởng, tất cả đều do các chỉ đạo viên tổ chức tự học mang tính tự phát trong doanh trại. Giác ngộ chính trị chính là điểm yếu của chúng tôi, học mãi cũng không vào đầu, hơn nữa không cách nào gặp được Viên Hỷ Lạc khiến tôi càng thêm chán chường.
Sau quãng thời gian khốn đốn này, chúng tôi lại phải đi họp chỉ thị lần thứ nhất, cuộc họp mà chúng tôi thường gọi đùa là “đi lùa vịt”.
Lẽ ra đến giờ này thì mọi chuyện liên quan đến chúng tôi đều đã xong xuôi và chúng tôi phải được điều chuyển trở lên mặt đất, nhưng mệnh lệnh cuối cùng mà chúng tôi nhận được lại là: sẵn sàng đợi lệnh tại vị trí. Mệnh lệnh này khiến tôi cảm thấy hơi bất thường, dường như có chuyện gì đó đang đợi chờ chúng tôi ở phía trước.
Cấp trên mãi mãi không bao giờ giải thích, còn chúng tôi thì phải chấp nhận vô điều kiện. Song khi ấy tôi cũng không lấy thế làm tức giận, bởi vốn đã mắc lỗi thì giờ cứ phải lờ đi, chứ nào còn dám to tiếng đấu tranh.
Chúng tôi được phân công vào đại đội quân y, sống ở những bệ gỗ ghép tạm trên lưới thép, không cùng khu vực với các thành viên đội địa chất khác. Cấp trên cử một sĩ quan cấp úy mở một cuộc họp nhỏ, giảng giải về tính quan trọng của công tác bảo mật, họ nói mọi chuyện chúng ta trải qua nơi đây đều được liệt vào chuyện cơ mật, không được phép kể cho bất kì ai.
Các đội khác có lẽ cũng đều được phổ biến về việc này, nên chẳng ai dám hỏi chúng tôi, tuy vậy, mọi người đều nhìn chúng tôi với con mắt kì lạ. Cả một đội quân chỉ có bốn người chúng tôi sống sót nên đương nhiên phải chịu nhiều lời đồn thất thiệt, có lời đồn làm tôi suýt phát điên, bởi họ nói hai chúng tôi bị nghi ngờ là gián điệp nên phải điều tra đặc biệt. Tôi cũng chẳng rõ ánh mắt họ dành cho mình bao hàm nỗi sợ hãi hay thương hại, chỉ thấy rất buồn cười.
Trong đại đội quân y, tôi còn rất ngạc nhiên khi nhìn thấy Bùi Thanh, tóc cậu ta bạc đi rất nhiều, nhưng rõ ràng khi ấy nhóm cậu ta ở lại nhà kho hóa ra an toàn nhất.
Trò chuyện một lát, tôi mới biết người làm bản báo cáo đầu tiên trước chúng tôi chính là cậu ta.
Bùi Thanh thong thả kể nhóm cậu ta cũng có bốn người sống sót. Lúc nói chuyện, trông cậu ta rất lạnh lùng, nhìn vào mắt cậu ta, tôi cũng không đoán được cậu ta đang nghĩ gì.
Tôi không nhìn thấy anh Miêu, Bùi Thanh cũng không có tin tức gì về anh ấy, nghĩ đến anh Miêu, tôi cho rằng đó là nhân vật không đơn giản, cáo già như anh ấy không thể chết ở nơi này được, lẽ nào anh ấy đang ở trong bộ tư lệnh? Có điều lúc ấy anh đi cùng nhóm anh Đường rời khỏi nhà kho, nên cũng khó nói kết cục thế nào.
Trong suốt một tháng sau đó, chúng tôi cố gắng an phận, Vương Tứ Xuyên cũng có một nhóm chơi riêng trong đội địa chất, dần dần hỏi thăm tình hình, cậu ấy cũng biết được vài manh mối, nhưng đó đều không phải chuyện quan trọng.
Chúng tôi cứ sống như vậy hết ngày này qua ngày khác, tôi thấy tia lửa hàn thấp thoáng lóe lên đằng xa ở khắp nơi, thêm vào đó là các máy móc thiết bị của Liên Xô được trùm vải bạt khiến tôi bắt đầu tin chắc rằng có chuyện bất thường đang sắp sửa xảy ra.
Dẫu cần khảo sát trường kì ở đây, thì cũng không cần tiến hành duy tu công trình một cách chặt chẽ sít sao như vậy, tình hình đang diễn ra ở đây khiến tôi lại thấy giống như đang tiến hành một công trình quy mô nào đó.
Dường như mọi việc không hề diễn tiến theo chiều hướng kết thúc, mà ngược lại họ đang bắt đầu công tác chuẩn bị cho một kế hoạch lớn.
Trong môi trường ẩm ướt và bí bách, cảm giác này khiến tôi cảm thấy vô cùng bất an.
Suy nghĩ ấy càng ngày càng mãnh liệt trong tôi. Nửa tháng sau, những đội thám trắc địa chất khác bắt đầu lần lượt rút đi, trong khi đó khẩu phần ăn của chúng tôi lại đột ngột trở nên vô cùng thịnh soạn. Lần đầu tiên trong hộp cơm của chúng tôi xuất hiện nguyên cái đùi gà.
Vào thời kì đó, mức độ quý hiếm của đùi gà phải tương đương với chân gấu bây giờ, loại thức ăn cao cấp này không bao giờ xuất hiện trên mâm cơm tập thể.
Khẩu phần ăn cao cấp nhất trong suốt hai mươi năm ăn uống của đời tôi là lần dự buổi lễ mừng công ở Diên An, sau khi Karamay đại thắng, tôi được đi báo cáo với tư cách là đại diện cho thanh niên, lần ấy trong khẩu phần ăn của tôi có đậu nành và thịt muối, chắc chỉ ba miếng là cùng. Đối với người chẳng mấy khi được ăn cơm trắng như tôi, thì mùi vị tươi ngon của ba miếng thịt muối thực còn tuyệt hơn cả thịt rồng. Chuyện này về sau trở thành câu chuyện đáng tự hào nhất mà tôi thường mang ra kể với mọi người.
Ví dụ em trai tôi tòng quân ở Đông Bắc, hồi đó một tháng mỗi người được phân phối nửa cân gạo. Khái niệm này phải hiểu thế nào? Nghĩa rằng gạo không còn là gạo nữa, mà được coi như đường.
Nói thế để bạn có thể tưởng tượng được cảm giác chấn động của tôi khi trông thấy cái đùi gà, thậm chí tôi còn ngờ rằng mình hoa mắt nên nhìn nhầm. Sau khi ăn vài miếng, mùi thơm của dầu mỡ xào nấu khiến tôi lịm người.
Bữa cơm ấy tôi mất chẵn một tiếng đồng hồ mới gặm hết cái đùi gà, ăn xong mà lòng vẫn nghĩ: nếu tôi kể chuyện này cho mọi người trong đội nghe, thì không biết họ sẽ ghen tị đến độ nào.
Ngược lại với tôi, Vương Tứ Xuyên gần như không để ý đến cái đùi gà, cậu ấy sống ở vùng núi, lại hay có thói quen đi săn, tay nghề cũng không đến nỗi tệ, nên việc săn được mấy con gà rừng là chuyện thường. Tuy mấy bữa ăn sau đó không có đùi gà, nhưng lại có nhiều đồ ăn ngon khác, như nấm hương và tôm.
Tôm đúng là loại thực phẩm hiếm, nhưng lại không làm tôi hưng phấn như khi ăn thịt gà. Tất cả công điểm và phiếu lương thực mà tôi bôn ba ra ngoài kiếm được đều đưa cả cho mọi người trong nhà, em trai biết tôi vất vả nên thường chạy ra bờ suối câu tôm, sau đó phơi thành tôm khô gửi cho tôi. Lúc nhìn thấy mấy con tôm trong đĩa, bỗng dưng tôi lại nhớ nhà da diết, lòng chùng xuống bùi ngùi. Tôi rất hiếm khi trải qua thứ cảm giác của tuổi trẻ bồng bột ấy, nhưng trong tình huống này chẳng hiểu sao mình lại giàu cảm xúc như vậy.
Vừa phấp phỏng đợi chờ tin tức mới, tôi vừa lén chạy đến khu cứu thương. Tôi rất muốn gặp Viên Hỷ Lạc, dẫu không nhìn thấy mặt, nhưng đứng đợi bên ngoài lều của cô ấy, ở khoảng cách gần thế này, đầu tôi lại hồi tưởng đến những khoảnh khắc hai người bên nhau, rồi vô thức mỉm cười.
Thực ra lúc này, tôi có thể nhờ Vương Tứ Xuyên giúp mình dò hỏi tin tức thông qua đám bạn bè trong hội của cậu ấy, nhưng cuối cùng tôi không thể mở miệng nổi, bởi vừa xấu hổ vừa nghi ngại, mà chủ yếu là tôi không biết nên mở lời như thế nào, tôi sợ bị họ truy hỏi.
Mãi một tuần sau, cảm giác giày vò này mới tạm nguôi ngoai. Hôm ấy, tôi lại lang thang quanh khu cứu thương như mọi ngày, đột nhiên tôi phát hiện cảnh vệ gác cổng lều đều rút hết, cửa lều rộng mở.
Tôi sững người một lát, ngỡ mình đã đi nhầm chỗ, nhưng nhìn kĩ lại thì phát hiện chính là nơi đây, cả người tôi lập tức run lên.
Lều của Viên Hỷ Lạc đã được giải trừ lệnh cấm vào.
Điều này có nghĩa gì? Nghĩa là cô ấy không thể qua khỏi giống như Mã Tại Hải hay cô ấy đã hoàn toàn bình phục? Tôi lắc đầu, cố xua đi những ý nghĩ xui xẻo, nhìn màn lều mở toang hoang, đột nhiên tôi không biết nên làm gì mới phải. Lúc trước mỗi lần đến, tôi đều mong muốn được vào bên trong, bây giờ cửa đã mở rồi thì tôi lại không dám vào.
Tôi đợi ngoài cửa suốt hồi lâu, cuối cùng cũng cố nén hồi hộp và hạ quyết tâm, khoảnh khắc bước vào lều, đầu tôi hồ như trống rỗng.
Nhưng tôi lập tức phát hiện trong lều không có người, trên giường cũng không có người, chăn được gấp gọn gàng, nhưng bình truyền thì vẫn treo trên giá.
Tôi đi một vòng, đến gần mép giường của Hỷ Lạc, sờ tay vào tấm nệm, tưởng tượng ra cảnh cô ấy đang nằm trên giường, có lẽ giờ cô ấy đang ra ngoài hóng mát hoặc đi kiểm tra sức khoẻ, đến lúc này cảm giác xúc động trong lòng tôi dần dần lắng xuống.
“Cậu làm gì ở đây vậy?” - Đang ngẩn người, một giọng nói chợt vang lên từ phía sau.
Tôi quay đầu lại thì thấy bà y tá trung niên đang trừng mắt nhìn mình với vẻ giận dữ.
Tôi là thương binh nên cũng từng được bà ấy chăm sóc, nhận ra người quen tôi liền hỏi: “Tôi muốn đến thăm đồng chí Viên Hỷ Lạc. Có phải đồng chí ấy đã khỏe rồi không?”
“Cô ấy đi kiểm tra rồi, ban ngày ở lều khác, tối mới về đây!” - Bà ấy trả lời cụt lủn - “Đây là lều dành cho nữ binh, nếu muốn đến thăm, thì cậu phải hẹn trước, tìm lãnh đạo và tổ chức cùng đi mới được.”
Tôi giải thích: “Tôi nhìn thấy cảnh vệ không canh cổng nữa, nên tưởng có thể tự do vào thăm.”
“Người nào cũng vào thăm thì bệnh nhân lấy đâu ra thời gian nghỉ ngơi?” - Bà ấy cầm chiếc cặp lồng sắt đang đặt trên bàn và đi ra ngoài, chắc định xuống nhà bếp lấy cơm - “Cậu đừng đợi nữa, cô ấy có về tôi cũng không cho phép hai cô cậu gặp riêng đâu. Về đi! Nhớ kéo rèm lại đấy! Lúc về mà còn trông thấy cậu thì đừng trách tôi không khách sáo!”, nói xong, bà ấy quày quả bỏ đi.
Tôi thở dài, lòng bỗng thấy hơi thất vọng, vốn nghĩ cuối cùng cũng được gặp Viên Hỷ Lạc, thế mà vẫn không được gặp, ở đây buổi tối người ta lại không cho phép người ngoài vào thăm, nên tôi không thể đợi cô ấy về được.
Sắp xếp giường chiếu một lát, tôi nhìn tấm nệm rồi chuẩn bị quay người rời khỏi lều, nhưng mới đi mấy bước, đột nhiên tôi muốn lưu thứ gì đó để cô ấy biết mình đã từng đến.
Sờ khắp người chỉ tìm thấy bao thuốc, tôi thở dài, nghĩ đến cảnh cô ấy đòi hút thuốc lúc còn ở trong trạm lánh nạn, tôi bất giác thấy hơi buồn. Rút một điếu thuốc ra, còn để cả bao dưới gối của cô ấy, cuối cùng tôi cũng quay người rời đi.
Ra khỏi khu vực cứu thương, châm thuốc hút, tôi đột nhiên thấy cảm giác bồn chồn trong lòng dần dần lắng dịu, rồi nghĩ chẳng biết Viên Hỷ Lạc có phát hiện hộp thuốc lá là do tôi để lại hay không, trong sát na rơi vào ảo giác, tôi thấy mình đang nằm dưới gối của Viên Hỷ Lạc và đợi cô ấy trở về.
Liên tiếp mấy ngày sau, tôi không đến tìm cô ấy nữa, bởi ngay từ lúc ngủ dậy, tôi đã bắt đầu phải học hàng loạt tuyên ngôn tư tưởng, tất cả đều do các chỉ đạo viên tổ chức tự học mang tính tự phát trong doanh trại. Giác ngộ chính trị chính là điểm yếu của chúng tôi, học mãi cũng không vào đầu, hơn nữa không cách nào gặp được Viên Hỷ Lạc khiến tôi càng thêm chán chường.
Sau quãng thời gian khốn đốn này, chúng tôi lại phải đi họp chỉ thị lần thứ nhất, cuộc họp mà chúng tôi thường gọi đùa là “đi lùa vịt”.
Danh sách chương