Những ánh đèn phố chập chờn ở phía xa xa là một cảnh tượng khá nhẹ nhõm sau cả tiếng đồng hồ đi bộ không ngừng nghỉ. Tôi đã trở về Ashber, thị trấn nhỏ nơi tôi được sinh ra, lần đầu tiên sau khoảng hơn mười năm trời.
“Mica sẵn sàng tu một cốc bia mát lạnh sảng khoái rồi đấy,” nữ tướng quân thì thầm, liếm đôi môi đã khô và nứt nẻ của mình.
Tôi gật đầu, cố gắng giữ tốc độ trùng với cỗ xe ngựa trước mặt.
“Tôi có tò mò một tý, thưa ngài. Chính xác thì ngài có bao nhiêu nô lệ thế?” Cậu trai trẻ hơn hỏi một cách đầy hào hứng, mắt hắn đảo từ Olfred sang tôi.
“Tôi chả bao giờ đếm cả.” Olfred nhún vai trả lời. “Bọn tôi có rất nhiều ở nhà, tôi có sở hữu một số người, số còn lại là của gia đình tôi.”
“Wow.” Gã ta huýt sáo. “Nếu ngài có nhiều đến thế, vậy ngài có thể cho chúng tôi hai đứa nô lệ—ouch!”
Lão già râu ria ngả người về sau và đánh vào đầu cậu ta. “Não mày bị úng à? Ai lại điên đến mức cho không nô lệ của mình!?”
Gã ta gãi đầu, chỉnh lại bộ tóc vàng dơ dấy của mình. “Gì mà căng? Tôi chỉ hỏi thôi mà ông già. Mẹ kiếp.”
“Xin lỗi vì thằng nhóc nhà tôi. Tôi đã phải gà trống nuôi con sau khi mẹ nó cuốn gói bỏ đi, và tôi chẳng bao giờ ưu tiên việc dạy nó lễ nghi phép tắc gì.”
“Không sao cả.” Olfred nói và bật cười. “Thường thì tôi sẽ để hai đứa đó lại cho ông khi tôi đến nơi, nhưng ít nhất hai đứa đó có thể bảo vệ tôi trong thời loạn lạc này.”
Gã kia chỉ tặc lưỡi. “Tiếc thật.”
Có gì đó không ổn với hai người họ. Ngoài trừ việc chẳng có xe nào ngoài trừ chiếc này ra vào thị trấn, thì trên xe chẳng có hành lý gì cả. Vũ khí duy nhất của họ là các con dao găm giắt trên hông, nhưng chúng cũng chẳng có tác dụng bảo vệ gì nhiều.
Bọn họ khá cảnh giác ngay khi gặp mặt, nhưng giờ bọn họ lại quá thoải mái, như thể bọn họ đang đợi một lý do để tin tưởng bọn tôi. Tuy nhiên, bọn tôi sắp đến Ashber và vẫn chưa có gì bất thường xảy ra cả.
“Chà, chúng ta đến nơi rồi.” Ông tài xế râu ria thông báo, kéo dây cương để dừng cỗ xe lại. “Bọn tôi sẽ không vào thị trấn này, nên tốt nhất là từ đây thì ông nên đi bộ.”
“Cả hai người sẽ đi suốt đêm luôn hử?” Olfred hỏi với chút ngờ vực.
“Bọn tôi đang vội đến một tiền đồn cách đây khoảng một giờ đi đường,” tên tóc vàng cười trả lời, mở cửa sau để Olfred đi ra.
“Vậy à, dù gì thì cũng cảm ơn vì đã cho đi nhờ.” Olfred đưa cho gã ta thêm một đồng bạc trước khi nhảy xuống.
Tài xế gật đầu rồi quất dây cương. Cả hai con ngựa thở dài bực bội rồi bắt đầu bước đi, kéo cỗ xe đi vào con đường đất hẹp ở bên trái.
“Bọn chúng diễn dở thật,” Olfred vừa nói vừa lắc đầu.
“Vậy không chỉ mình tôi là thấy họ khả nghi.” Tôi trả lời.
“Sao chẳng được. Miễn là có giường ấm nệm êm và rượu bia thì Mica vẫn vui vẻ.”
Cả ba bọn tôi đi bộ vào thi trấn, tôi để ý thấy đường đi rất vắng vẻ không một bóng người. Theo ký ức hồi thơ ấu của tôi thì Ashber là một thị trấn nhộn nhịp dù nó là một thị trấn không lớn. Ở nơi phía nam xa xăm này không hề có nhiều thám hiểm giả, nhưng vì có một con suối nhỏ chảy gần đây khiến khu vực này cực kì lý tưởng để trồng trọt vụ mùa. Sau cái chết của Lensa (ai quên Lensa là ai thì đọc lại chap 142 nhé), cha tôi đã đưa mẹ tôi đến vùng đất xa xôi này và nhận công việc bảo vệ nông dân và vụ mùa của họ khỏi những con sói hay quái mana đi lạc từ dãy núi Grand Mountains. Vì các người nông dân thường dậy sớm để chăm sóc vụ mùa và dành cả buổi chiều để buôn bán ở các chợ nên đường xá Asber lúc nào cũng xôn xao nhộn nhịp, đêm xuống cũng chính là lúc mọi người thư giãn và vui vẻ với nhau.
Cha tôi thường về nhà khá khuya, đôi lúc tự vấp té sau khi nhậu cùng các nông dân địa phương. Tôi nghĩ rằng chiến tranh sẽ thay đổi nơi này, nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng Ashber lại trở thành một thị trấn ma như bây giờ.
Đèn đường nằm rải rác khắp nơi vẫn còn sáng, nhưng không có bất kì dấu hiệu của người nào ở gần đây. Cả ba bọn tôi cảm thấy có ai đó nấp trong hẻm tối, ẩn mình trong màn đêm. Nhưng sau một hồi thì kẻ đó đã biến mất, tiếng bước chân vội vã của hắn nhỏ dần đi cho đến khi âm thanh duy nhất mà tôi nghe được là tiếng bước của của chúng tôi.
Cả bọn tôi đều nhìn nhau nhưng vẫn giữ im lặng. Quan sát xung quanh, hầu hết các tòa nhà đều bỏ trống hoặc đóng ván hết. Những ván gỗ được đóng qua các khung cửa sổ, còn cửa chính thì được dây xích buộc lại. Tôi kích hoạt Realmheart để cảm nhận dao động mana, không hy vọng gì nhiều.
Tuy nhiên, tôi có thể cảm nhận được mana dao động khắp cả thị trấn này. Có các pháp sư đã từng đến đây cách đây không lâu.
“Tôi cảm nhận được một số cá nhân đang rải rác xung quanh, nhưng có một đám đông khoảng bốn mươi người ở cách đây vài khu phố,” Olfred nói.
“Mica cảm nhận được bốn mươi ba,” nữ Lance nhỏ nhắn lẩm bẩm.
“Tôi tưởng chúng ta đều đồng ý là không dùng phép thuật mà?” Tôi nói một cách bực dọc. “Lỡ nếu có pháp sư Alacryan hay Vritras gần đây phát hiện thì sao?”
“Không cần thiết phải dùng mana để cảm nhận bọn họ.” Olfred trả lời ngắn gọn.
‘Cái gì?’ Tôi suýt nữa thì thốt to lên. Nếu bọn họ có thể cảm nhận chính xác đến mức này thì toàn bộ kế hoạch của tôi sẽ phá sản mất.
“Tốt lắm,” Tôi nói dối. “Có vẻ như chúng ta sẽ tìm ra hang ổ của Alacryan sớm hơn tôi tưởng.”
“Nhưng vẫn sẽ tốn thêm thời gian. Mica chỉ có thể cảm nhận được một khoảng cách ngắn thôi, và nó cũng khá rối tung mù. Cả Olfred cũng thế.” Mica giải thích.
“Là nô lệ mà sao hai người nói lắm thế.” Olfred hằn học, trước khi nhỏ giọng xuống. “Chỉ vì chúng ta không dùng phép thuật không có nghĩa là kẻ thù cũng thế, phải luôn cho rằng chúng có thể nghe thấy chúng ta.”
Tôi biết rằng gần đây không hề có ai cả—ít nhất thì không có ai đang thao túng mana gần đây cả—và có vẻ Olfred cũng biết nên chắc là ông ấy chỉ muốn Mica ngưng nói chuyện về giới hạn của mình, nhưng vị Lance già cũng có lý. Tôi gật đầu và tiếp tục lẽo đẽo theo sau Olfred, còn Mica thì lẩm bẩm một cách bực bội.
Rẽ vào một góc được sau khi đi ngang qua một tòa nhà cao và suy tàn, giờ thì tôi mới hiểu chính xác chỗ của đám đông người mà Olfred và Mia nhắc đến.
Một cột khói bốc ra nghi ngút từ ống khói của một căn nhà trông như tửu quán. Nóc của căn chòi lớn đó thì lởm chởm và thiếu gạch, nhưng so với những tòa nhà gần đây, nó là nơi duy nhất có ánh sáng ở bên trong.
Bọn tôi thận trọng tiến lại gần, bị cám dỗ bởi các món ăn ngon và giường ấm êm.
‘Con ngửi thấy mùi thịt nướng,’ Sylvie nói khi chúng tôi tiến lại gần, xạo xoạt một cách thiếu kiên nhẫn.
Olfred quay lại và cả ba bọn tôi nhìn nhau trước khi mở cửa gỗ. Mũi tôi hít lấy hít để mùi nồng của rượu bia, mùi khói và các loại gia vị và đồ ăn khác nhau. Cả tửu quán tràn ngập tiếng nói chuyện rôm rả lấn át lẫn nhau kèm theo tiếng leng keng của những ly thủy tinh.
Những người ở đây, hầu hết là đàn ông, đều quay đầu sang nhìn chúng tôi; một số người thì má ửng đỏ, một số thì nhăn mày một cách khó chịu.
“Chúng ta có cần đợi có chỗ ngồi không?” Olfred nói qua lớp mặt nạ.
“Ở những nơi như thế này thì ông sẽ tự tìm chỗ cho chính mình,” tôi nói, kéo mũ trùm xuống để che mặt mình và cố kiềm cười trước câu hỏi ngẩn ngơ của Olfred.
Tôi nắm cổ tay Mica và theo sau Olfred khi ông đi qua đám khách và bàn. Cũng không khó khi nhận ra bọn họ đều liếc nhìn chúng tôi đi ngang qua. Một gã đàn ông tóc quăng bù xù cố tình ngả ghế về sau, mong rằng sẽ đụng trúng bọn tôi để kiếm chuyện.
“Không có gì. Chỉ có bốn mươi hai thôi.” Mica nói và chỉ vào một con chó săn đang đứng gần người chủ quán vạm vỡ, miệng thì chảy đầy dãi.
Tôi nhướn mày. “Cái gì cơ?”
“Bốn mươi hai người chứ không phải bốn mươi ba như khi nãy Mica nói. Mica tưởng nhầm con quái mana kia là một người,” cô ấy giải thích.
“Chỉ có bốn mươi hai người, hiểu rồi.” Tôi trả lời.
Tiếp tục băng qua đống người kia, tôi cố gắng nghe lén bất kì đoạn hội thoại nào có thể làm giảm bớt nghi ngờ của tôi về nơi này. Tôi có nghe được một đoạn nhỏ từ phía bàn bên kia. “…tối nay câu được vài con cá rồi.”
Trong khi gã đàn ông sún răng kia có thể chỉ đang nói về việc bắt được cá hồi cá chép gì đó, nhưng ánh mắt đáng nghi của bọn họ ám chỉ rằng cuộc hội thoại đó không hề bình thường.
Cuối cùng thì bọn tôi cũng tìm được chỗ ngồi ở cái bàn lung lay như muốn gãy tới nơi ở góc quán, cạnh nhà vệ sinh. Mùi hôi thối nồng nặc từ bên trong tràn vào mũi tôi, làm tôi mất luôn cảm giác thèm ăn từ nãy đến giờ.
“Thế mấy người dùng gì tối nay đây?” Một nữ bồi bàn hỏi và bình thản kéo áo ngực dơ bẩn xuống để lộ cặp ngực của mình. Cô ta nghiêng người lại gần Olfred như muốn mời gọi ánh mắt của ông ấy nhìn vào khe ngực mình, còn cô ta thì nhìn chằm chằm bộ áo choàng đẹp đẽ của ông ấy.
Mica và tôi dường như chẳng hề tồn tại với cô ta vì cô ta chỉ ve vãn Olfred trong khi đợi ông ấy gọi món.
“Cho tôi ba ly bia lạnh và bất kì món thịt hầm nào mà mấy người có tối nay cùng một vài ổ bánh mì,” Olfred nói, không bị dao động bởi nỗ lực ve vãn của cô ta.
“Có ngay đây,” cô ta thủ thỉ nhỏ và vuốt ngon tay dọc tay của ông ấy. Tôi không rõ cô ta làm thế để quyến rũ Olfred hay chỉ để kiểm tra chất lượng áo khoác của ông ấy, nhưng tôi có thể nói rằng cô ta không phải là người duy nhất nhận ra độ giàu sang của Olfred.
“Ugh. Đi khoe đống mỡ đó chi vậy trời?” Mica làu bàu một cách kinh bỉ.
“Lần đầu tiên mà cả hai chúng ta cùng đồng quan điểm,” Olfred gật gù. “Một người phụ nữ đích thực là phải có cu cơ bắp săn chắc và da dẻ thô ráp.”
Tôi quyết định không tham gia cuộc đối thoại này, dành thời gian để lén liếc nhìn cả quán. Kích hoạt Realmheart một lần nữa, tôi có thể thấy rằng có ai đó đã dùng phép thuật cách đây không lâu.
Có một lượng mana biến dạng bao quanh một cái bàn khá lớn ở đối diện. Ở bên đó, một nười đàn ông trung niên mặc áo choàng trông khá bắt mắt. Khác với những người đồng hành, trông ông ta chỉnh chu và gọn gàng hơn nhiều. Đôi mắt hí của ông ta liếc nhìn nữ hầu bàn ăn mặc thiếu vải kia một cách dâm dục, còn tay thì cứ tu bia và ăn trái cây. Với hốc má lõm vào và mái tóc sắp hói tới nơi, có vẻ như hai nữ bồi bàn còn lại chẳng thèm ve vãn gì với ông ta vì ngoại hình “đập trai” của ổng.
Qua cái cách nói chuyện lớn tiếng và thô thiển, và cách đồng bọn lúc nào cũng cười và gật gù dù cho ông ta nói bất kì gì, chắc chắn gã đàn ông mắt hí đó là một người khá quan trọng ở nơi này, nếu không muốn nói là người điều hành nơi này. Qua cách mà những hạt mana tụ tập xung quanh ông ta, có vẻ như ông ta đã vận một lớp mana để cường hóa cơ thể mình.
Nhưng ông ta không phải là người duy nhất. Sau khi liếc nhìn xung quanh, tôi thấy một số pháp sư augmenters khác cũng vận một lớp mana mỏng để bảo vệ cơ thể. Tuy nhiên, độ tinh khiết và cô đặc mana của bọn họ còn thua xa đám lính Alacryan mà tôi đã đối đầu ở gần bờ biển phía tây nam. Tôi đoán là bọn họ chỉ là lính đánh thuê hoặc thám hiểm giả cấp thấp.
Nhưng đó không phải là điều làm tôi phiền lòng. Không phải bầu không khí thù địch rõ ràng hay lượng pháp sư đông đến đáng ngờ. Tôi biết cái gã đàn ông ấy. Có gì đó ở gã đôi mắt hí biến thái và khuôn mặt méo mó của ông ta khiến tôi cảm thấy khó chịu, nhưng tôi vẫn không rõ là tại sao.
‘’Có chuyện gì thế?’ Sylvie hỏi sau khi để ý mối bận tậm của tôi.
‘Sylvie, con thử nhìn sang bàn bên trái ở phía bên kia quán. Con có nhận ra bất kì ai trong số đó không?’
Cô khế ước thú mò mẫm một hồi rồi đút đầu ra ngoài. Đôi mắt thông minh của cô ấy quét qua căn phòng, tập trung vào chỗ mà tôi đã chỉ, rồi tôi cảm nhận được cảm xúc căm ghét rò rỉ ra. ‘Hắn ta là tên khốn cố ép nhà vua cho phép hắn sở hữu con suốt sự kiện đấu giá Helstea. Hình như tên hắn là cái gì gì đó—’
Tên đó đứng lên và khập khững tiến về quầy bar, cố gắng không đè nặng lên chân trái và dùng một thanh gậy gỗ để giữ thăng bằng. Ngay khi tôi thấy chấn thương của hắn, cái tên của hắn ngay lập tức xuất hiện trong tâm trí tôi cùng những kí ức hồi xưa.
‘Là Sebastian.’
“Mica sẵn sàng tu một cốc bia mát lạnh sảng khoái rồi đấy,” nữ tướng quân thì thầm, liếm đôi môi đã khô và nứt nẻ của mình.
Tôi gật đầu, cố gắng giữ tốc độ trùng với cỗ xe ngựa trước mặt.
“Tôi có tò mò một tý, thưa ngài. Chính xác thì ngài có bao nhiêu nô lệ thế?” Cậu trai trẻ hơn hỏi một cách đầy hào hứng, mắt hắn đảo từ Olfred sang tôi.
“Tôi chả bao giờ đếm cả.” Olfred nhún vai trả lời. “Bọn tôi có rất nhiều ở nhà, tôi có sở hữu một số người, số còn lại là của gia đình tôi.”
“Wow.” Gã ta huýt sáo. “Nếu ngài có nhiều đến thế, vậy ngài có thể cho chúng tôi hai đứa nô lệ—ouch!”
Lão già râu ria ngả người về sau và đánh vào đầu cậu ta. “Não mày bị úng à? Ai lại điên đến mức cho không nô lệ của mình!?”
Gã ta gãi đầu, chỉnh lại bộ tóc vàng dơ dấy của mình. “Gì mà căng? Tôi chỉ hỏi thôi mà ông già. Mẹ kiếp.”
“Xin lỗi vì thằng nhóc nhà tôi. Tôi đã phải gà trống nuôi con sau khi mẹ nó cuốn gói bỏ đi, và tôi chẳng bao giờ ưu tiên việc dạy nó lễ nghi phép tắc gì.”
“Không sao cả.” Olfred nói và bật cười. “Thường thì tôi sẽ để hai đứa đó lại cho ông khi tôi đến nơi, nhưng ít nhất hai đứa đó có thể bảo vệ tôi trong thời loạn lạc này.”
Gã kia chỉ tặc lưỡi. “Tiếc thật.”
Có gì đó không ổn với hai người họ. Ngoài trừ việc chẳng có xe nào ngoài trừ chiếc này ra vào thị trấn, thì trên xe chẳng có hành lý gì cả. Vũ khí duy nhất của họ là các con dao găm giắt trên hông, nhưng chúng cũng chẳng có tác dụng bảo vệ gì nhiều.
Bọn họ khá cảnh giác ngay khi gặp mặt, nhưng giờ bọn họ lại quá thoải mái, như thể bọn họ đang đợi một lý do để tin tưởng bọn tôi. Tuy nhiên, bọn tôi sắp đến Ashber và vẫn chưa có gì bất thường xảy ra cả.
“Chà, chúng ta đến nơi rồi.” Ông tài xế râu ria thông báo, kéo dây cương để dừng cỗ xe lại. “Bọn tôi sẽ không vào thị trấn này, nên tốt nhất là từ đây thì ông nên đi bộ.”
“Cả hai người sẽ đi suốt đêm luôn hử?” Olfred hỏi với chút ngờ vực.
“Bọn tôi đang vội đến một tiền đồn cách đây khoảng một giờ đi đường,” tên tóc vàng cười trả lời, mở cửa sau để Olfred đi ra.
“Vậy à, dù gì thì cũng cảm ơn vì đã cho đi nhờ.” Olfred đưa cho gã ta thêm một đồng bạc trước khi nhảy xuống.
Tài xế gật đầu rồi quất dây cương. Cả hai con ngựa thở dài bực bội rồi bắt đầu bước đi, kéo cỗ xe đi vào con đường đất hẹp ở bên trái.
“Bọn chúng diễn dở thật,” Olfred vừa nói vừa lắc đầu.
“Vậy không chỉ mình tôi là thấy họ khả nghi.” Tôi trả lời.
“Sao chẳng được. Miễn là có giường ấm nệm êm và rượu bia thì Mica vẫn vui vẻ.”
Cả ba bọn tôi đi bộ vào thi trấn, tôi để ý thấy đường đi rất vắng vẻ không một bóng người. Theo ký ức hồi thơ ấu của tôi thì Ashber là một thị trấn nhộn nhịp dù nó là một thị trấn không lớn. Ở nơi phía nam xa xăm này không hề có nhiều thám hiểm giả, nhưng vì có một con suối nhỏ chảy gần đây khiến khu vực này cực kì lý tưởng để trồng trọt vụ mùa. Sau cái chết của Lensa (ai quên Lensa là ai thì đọc lại chap 142 nhé), cha tôi đã đưa mẹ tôi đến vùng đất xa xôi này và nhận công việc bảo vệ nông dân và vụ mùa của họ khỏi những con sói hay quái mana đi lạc từ dãy núi Grand Mountains. Vì các người nông dân thường dậy sớm để chăm sóc vụ mùa và dành cả buổi chiều để buôn bán ở các chợ nên đường xá Asber lúc nào cũng xôn xao nhộn nhịp, đêm xuống cũng chính là lúc mọi người thư giãn và vui vẻ với nhau.
Cha tôi thường về nhà khá khuya, đôi lúc tự vấp té sau khi nhậu cùng các nông dân địa phương. Tôi nghĩ rằng chiến tranh sẽ thay đổi nơi này, nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng Ashber lại trở thành một thị trấn ma như bây giờ.
Đèn đường nằm rải rác khắp nơi vẫn còn sáng, nhưng không có bất kì dấu hiệu của người nào ở gần đây. Cả ba bọn tôi cảm thấy có ai đó nấp trong hẻm tối, ẩn mình trong màn đêm. Nhưng sau một hồi thì kẻ đó đã biến mất, tiếng bước chân vội vã của hắn nhỏ dần đi cho đến khi âm thanh duy nhất mà tôi nghe được là tiếng bước của của chúng tôi.
Cả bọn tôi đều nhìn nhau nhưng vẫn giữ im lặng. Quan sát xung quanh, hầu hết các tòa nhà đều bỏ trống hoặc đóng ván hết. Những ván gỗ được đóng qua các khung cửa sổ, còn cửa chính thì được dây xích buộc lại. Tôi kích hoạt Realmheart để cảm nhận dao động mana, không hy vọng gì nhiều.
Tuy nhiên, tôi có thể cảm nhận được mana dao động khắp cả thị trấn này. Có các pháp sư đã từng đến đây cách đây không lâu.
“Tôi cảm nhận được một số cá nhân đang rải rác xung quanh, nhưng có một đám đông khoảng bốn mươi người ở cách đây vài khu phố,” Olfred nói.
“Mica cảm nhận được bốn mươi ba,” nữ Lance nhỏ nhắn lẩm bẩm.
“Tôi tưởng chúng ta đều đồng ý là không dùng phép thuật mà?” Tôi nói một cách bực dọc. “Lỡ nếu có pháp sư Alacryan hay Vritras gần đây phát hiện thì sao?”
“Không cần thiết phải dùng mana để cảm nhận bọn họ.” Olfred trả lời ngắn gọn.
‘Cái gì?’ Tôi suýt nữa thì thốt to lên. Nếu bọn họ có thể cảm nhận chính xác đến mức này thì toàn bộ kế hoạch của tôi sẽ phá sản mất.
“Tốt lắm,” Tôi nói dối. “Có vẻ như chúng ta sẽ tìm ra hang ổ của Alacryan sớm hơn tôi tưởng.”
“Nhưng vẫn sẽ tốn thêm thời gian. Mica chỉ có thể cảm nhận được một khoảng cách ngắn thôi, và nó cũng khá rối tung mù. Cả Olfred cũng thế.” Mica giải thích.
“Là nô lệ mà sao hai người nói lắm thế.” Olfred hằn học, trước khi nhỏ giọng xuống. “Chỉ vì chúng ta không dùng phép thuật không có nghĩa là kẻ thù cũng thế, phải luôn cho rằng chúng có thể nghe thấy chúng ta.”
Tôi biết rằng gần đây không hề có ai cả—ít nhất thì không có ai đang thao túng mana gần đây cả—và có vẻ Olfred cũng biết nên chắc là ông ấy chỉ muốn Mica ngưng nói chuyện về giới hạn của mình, nhưng vị Lance già cũng có lý. Tôi gật đầu và tiếp tục lẽo đẽo theo sau Olfred, còn Mica thì lẩm bẩm một cách bực bội.
Rẽ vào một góc được sau khi đi ngang qua một tòa nhà cao và suy tàn, giờ thì tôi mới hiểu chính xác chỗ của đám đông người mà Olfred và Mia nhắc đến.
Một cột khói bốc ra nghi ngút từ ống khói của một căn nhà trông như tửu quán. Nóc của căn chòi lớn đó thì lởm chởm và thiếu gạch, nhưng so với những tòa nhà gần đây, nó là nơi duy nhất có ánh sáng ở bên trong.
Bọn tôi thận trọng tiến lại gần, bị cám dỗ bởi các món ăn ngon và giường ấm êm.
‘Con ngửi thấy mùi thịt nướng,’ Sylvie nói khi chúng tôi tiến lại gần, xạo xoạt một cách thiếu kiên nhẫn.
Olfred quay lại và cả ba bọn tôi nhìn nhau trước khi mở cửa gỗ. Mũi tôi hít lấy hít để mùi nồng của rượu bia, mùi khói và các loại gia vị và đồ ăn khác nhau. Cả tửu quán tràn ngập tiếng nói chuyện rôm rả lấn át lẫn nhau kèm theo tiếng leng keng của những ly thủy tinh.
Những người ở đây, hầu hết là đàn ông, đều quay đầu sang nhìn chúng tôi; một số người thì má ửng đỏ, một số thì nhăn mày một cách khó chịu.
“Chúng ta có cần đợi có chỗ ngồi không?” Olfred nói qua lớp mặt nạ.
“Ở những nơi như thế này thì ông sẽ tự tìm chỗ cho chính mình,” tôi nói, kéo mũ trùm xuống để che mặt mình và cố kiềm cười trước câu hỏi ngẩn ngơ của Olfred.
Tôi nắm cổ tay Mica và theo sau Olfred khi ông đi qua đám khách và bàn. Cũng không khó khi nhận ra bọn họ đều liếc nhìn chúng tôi đi ngang qua. Một gã đàn ông tóc quăng bù xù cố tình ngả ghế về sau, mong rằng sẽ đụng trúng bọn tôi để kiếm chuyện.
“Không có gì. Chỉ có bốn mươi hai thôi.” Mica nói và chỉ vào một con chó săn đang đứng gần người chủ quán vạm vỡ, miệng thì chảy đầy dãi.
Tôi nhướn mày. “Cái gì cơ?”
“Bốn mươi hai người chứ không phải bốn mươi ba như khi nãy Mica nói. Mica tưởng nhầm con quái mana kia là một người,” cô ấy giải thích.
“Chỉ có bốn mươi hai người, hiểu rồi.” Tôi trả lời.
Tiếp tục băng qua đống người kia, tôi cố gắng nghe lén bất kì đoạn hội thoại nào có thể làm giảm bớt nghi ngờ của tôi về nơi này. Tôi có nghe được một đoạn nhỏ từ phía bàn bên kia. “…tối nay câu được vài con cá rồi.”
Trong khi gã đàn ông sún răng kia có thể chỉ đang nói về việc bắt được cá hồi cá chép gì đó, nhưng ánh mắt đáng nghi của bọn họ ám chỉ rằng cuộc hội thoại đó không hề bình thường.
Cuối cùng thì bọn tôi cũng tìm được chỗ ngồi ở cái bàn lung lay như muốn gãy tới nơi ở góc quán, cạnh nhà vệ sinh. Mùi hôi thối nồng nặc từ bên trong tràn vào mũi tôi, làm tôi mất luôn cảm giác thèm ăn từ nãy đến giờ.
“Thế mấy người dùng gì tối nay đây?” Một nữ bồi bàn hỏi và bình thản kéo áo ngực dơ bẩn xuống để lộ cặp ngực của mình. Cô ta nghiêng người lại gần Olfred như muốn mời gọi ánh mắt của ông ấy nhìn vào khe ngực mình, còn cô ta thì nhìn chằm chằm bộ áo choàng đẹp đẽ của ông ấy.
Mica và tôi dường như chẳng hề tồn tại với cô ta vì cô ta chỉ ve vãn Olfred trong khi đợi ông ấy gọi món.
“Cho tôi ba ly bia lạnh và bất kì món thịt hầm nào mà mấy người có tối nay cùng một vài ổ bánh mì,” Olfred nói, không bị dao động bởi nỗ lực ve vãn của cô ta.
“Có ngay đây,” cô ta thủ thỉ nhỏ và vuốt ngon tay dọc tay của ông ấy. Tôi không rõ cô ta làm thế để quyến rũ Olfred hay chỉ để kiểm tra chất lượng áo khoác của ông ấy, nhưng tôi có thể nói rằng cô ta không phải là người duy nhất nhận ra độ giàu sang của Olfred.
“Ugh. Đi khoe đống mỡ đó chi vậy trời?” Mica làu bàu một cách kinh bỉ.
“Lần đầu tiên mà cả hai chúng ta cùng đồng quan điểm,” Olfred gật gù. “Một người phụ nữ đích thực là phải có cu cơ bắp săn chắc và da dẻ thô ráp.”
Tôi quyết định không tham gia cuộc đối thoại này, dành thời gian để lén liếc nhìn cả quán. Kích hoạt Realmheart một lần nữa, tôi có thể thấy rằng có ai đó đã dùng phép thuật cách đây không lâu.
Có một lượng mana biến dạng bao quanh một cái bàn khá lớn ở đối diện. Ở bên đó, một nười đàn ông trung niên mặc áo choàng trông khá bắt mắt. Khác với những người đồng hành, trông ông ta chỉnh chu và gọn gàng hơn nhiều. Đôi mắt hí của ông ta liếc nhìn nữ hầu bàn ăn mặc thiếu vải kia một cách dâm dục, còn tay thì cứ tu bia và ăn trái cây. Với hốc má lõm vào và mái tóc sắp hói tới nơi, có vẻ như hai nữ bồi bàn còn lại chẳng thèm ve vãn gì với ông ta vì ngoại hình “đập trai” của ổng.
Qua cái cách nói chuyện lớn tiếng và thô thiển, và cách đồng bọn lúc nào cũng cười và gật gù dù cho ông ta nói bất kì gì, chắc chắn gã đàn ông mắt hí đó là một người khá quan trọng ở nơi này, nếu không muốn nói là người điều hành nơi này. Qua cách mà những hạt mana tụ tập xung quanh ông ta, có vẻ như ông ta đã vận một lớp mana để cường hóa cơ thể mình.
Nhưng ông ta không phải là người duy nhất. Sau khi liếc nhìn xung quanh, tôi thấy một số pháp sư augmenters khác cũng vận một lớp mana mỏng để bảo vệ cơ thể. Tuy nhiên, độ tinh khiết và cô đặc mana của bọn họ còn thua xa đám lính Alacryan mà tôi đã đối đầu ở gần bờ biển phía tây nam. Tôi đoán là bọn họ chỉ là lính đánh thuê hoặc thám hiểm giả cấp thấp.
Nhưng đó không phải là điều làm tôi phiền lòng. Không phải bầu không khí thù địch rõ ràng hay lượng pháp sư đông đến đáng ngờ. Tôi biết cái gã đàn ông ấy. Có gì đó ở gã đôi mắt hí biến thái và khuôn mặt méo mó của ông ta khiến tôi cảm thấy khó chịu, nhưng tôi vẫn không rõ là tại sao.
‘’Có chuyện gì thế?’ Sylvie hỏi sau khi để ý mối bận tậm của tôi.
‘Sylvie, con thử nhìn sang bàn bên trái ở phía bên kia quán. Con có nhận ra bất kì ai trong số đó không?’
Cô khế ước thú mò mẫm một hồi rồi đút đầu ra ngoài. Đôi mắt thông minh của cô ấy quét qua căn phòng, tập trung vào chỗ mà tôi đã chỉ, rồi tôi cảm nhận được cảm xúc căm ghét rò rỉ ra. ‘Hắn ta là tên khốn cố ép nhà vua cho phép hắn sở hữu con suốt sự kiện đấu giá Helstea. Hình như tên hắn là cái gì gì đó—’
Tên đó đứng lên và khập khững tiến về quầy bar, cố gắng không đè nặng lên chân trái và dùng một thanh gậy gỗ để giữ thăng bằng. Ngay khi tôi thấy chấn thương của hắn, cái tên của hắn ngay lập tức xuất hiện trong tâm trí tôi cùng những kí ức hồi xưa.
‘Là Sebastian.’
Danh sách chương