gay sau đó, Thường Ngọc Thanh một
mình rời đi, A Mạch đợi một lúc rồi mới lấy ra từ trong tủ một bộ quần
áo nam giới, chẳng buồn quan tâm xem xấu đẹp hay cũ mới, chỉ cần khoác
được lên người, sau đó lén lút lẻn ra khỏi nhà ra đến bờ sông, đi ngược
lên vùng thượng lưu.
Lại nói Trương Sinh và Trương Sĩ
Cường đưa người đi dọc theo hạ lưu, gặp phải núi cao nên đường rất khó
đi, lại vừa cẩn thận tìm kiếm ở giữa sông, tốc độ vì thế mà chậm lại rất nhiều. Cứ như vậy tìm đến ba ngày mà vẫn không thấy bóng dáng của A
Mạch đâu, sắc mặt mọi người càng thêm u ám, trong lòng ai cũng cảm thấy
không hy vọng là A Mạch còn sống, chỉ có Trương Sinh và Trương Sĩ Cường
vẫn không chịu bỏ cuộc, nhất là Trương Sĩ Cường, vẫn kiên trì nói Ngũ
trưởng sẽ không chết. Mọi người không dám nói gì, đành phải tiếp tục tìm kiếm, ai ngờ đợi đến sáng sớm ngày thứ tư, A Mạch thế mà lại xuất hiện
trước mặt bọn họ.
Trương Sĩ Cường nhất thời vừa mừng vừa sợ, ngay cả nói cũng không nói nên lời, A Mạch cười cười, đẩy mạnh vào người Trương Sĩ Cường, cười nói: “Thế nào? Mới mấy ngày không gặp mà đã không còn nhận ra ta nữa sao?” Nói chưa dứt lời, đôi mắt Trương Sĩ Cường đã đỏ hoe. A Mạch dở khóc dở cười, trước mặt nhiều người thế này cũng không tiện nói gì, liền quay đầu gọi Trương Sinh: “Trương đại ca, ngươi vất vả rồi.”
Trương Sinh cũng nhìn A Mạch chằm chằm, lúc này mới thở phảo nhẹ nhõm, thì thào nói: “Cuối cùng cũng đã tìm thấy……”
A Mạch nhất thời nghe không rõ liền hỏi lại: “Cái gì?”
Trương Sinh lại nói: “Mạch tướng quân trở về là tốt rồi, đại tướng quân và Đường tướng quân đều vô cùng lo lắng, nếu thân thể Mạch tướng quân không có gì trở ngại, mời tướng quân mau chóng trở về doanh trại.”
A Mạch gật đầu, hỏi Trương Sinh nói: “Đại quân hiện ở đâu?”
Trương Sinh đáp: “Một ngày trước có người tới thông báo nói là đã lên phía bắc giao chiến cùng Thường Ngọc Tông, hiện tại không biết đã đi đến đâu.”
A Mạch nhìn bốn phía, không thấy có ngựa liền hỏi: “Ngựa đâu?”
Trương Sĩ Cường giành trả lời trước nói: “Dọc bờ sông có nơi địa thế quá cao, chiến mã không thể đi được, Trương tướng quân liền cho mọi người đi bộ tới đây.”
Thì ra A Mạch khi rơi vào giữa sông đã bị dòng nước cuốn về phía hạ du, sau lại lại bị hôn mê bất tỉnh, tất cả đều là dựa vào Thường Ngọc Thanh mang lên bờ, chính nàng cũng không biết địa hình dọc theo con sông như thế nào, hiện nghe Trương Sĩ Cường nói mới hiểu được vì sao Trương Sinh phải mất tới mấy ngày đêm mới đi đến nơi này. A Mạch biết xuôi theo dòng nước là núi cao nhưng nếu đi dọc theo bờ sông này rồi vượt qua mấy ngọn núi kia thì lại càng khó khăn hơn, khó trách nhìn dáng vẻ của mọi người lại chật vật đến vậy. Nghĩ đến đây, A Mạch không khỏi lại nhìn về phía Trương Sinh, thấy trên người anh ta bám đầy bùn đen, cái chân bị thương cũng bị bùn đen bao kín nhìn không rõ màu da, trong lòng A Mạch âm thầm cảm động, trịnh trọng hướng về phía Trương Sinh hành lễ nói: “Đa tạ ơn cứu trợ của Trương đại ca!”
Trương Sinh vội vàng lắc mình tránh né, nói: “Mạch tướng quân đừng như vậy, làm thế khác nào muốn lấy mạng ta.”
A Mạch cười cười, không nhiều lời nữa, sau khi cân nhắc cẩn thận liền phân phó mọi người lưu lại cùng Trương Sinh thong thả đi sau, còn mình dẫn theo Trương Sĩ Cường vội vàng vượt núi trở lại quân doanh. Trương Sĩ Cường vốn sớm theo A Mạch rèn luyện cước lực, lại thêm đương độ tuổi trẻ, nên mặc dù trước đó đã mệt mỏi đến cực điểm, lại vẫn cắn răng theo sát phía sau A Mạch chưa từng bị tụt lại quá xa, hai người cứ như vậy đi vội vã hai ngày đêm mới trở về đến quân doanh, Đường Thiệu Nghĩa quả nhiên đã dẫn quân bao vây tàn quân của Thường Ngọc Tông ở Nhạn Sơn.
A Mạch và Trương Sĩ Cường đã mệt mỏi đến nỗi không còn ra người hình, A Mạch tuy là một cô gái khỏe mạnh hiếm thấy nhưng lại vừa bị bệnh nặng mới khỏi, thân thể lúc này gần như kiệt sức, hoàn toàn dựa vào Trương Sĩ Cường mới đến được doanh trướng của Đường Thiệu Nghĩa. Đường Thiệu Nghĩa bước vội vài bước tiến đến nắm chặt lấy hai vai A Mạch, tinh tế nhìn nàng đánh giá mấy lượt, lúc này mới trầm giọng nói: “Còn sống là tốt rồi.”
Tuy chỉ là bốn chữ ngắn ngủn song khi lọt vào trong tai thì A Mạch cũng không khỏi cảm động. Nàng nhếch miệng cười cười, hạ mắt xuống nói: “Đại ca đã quên rồi sao? Khi còn ở phía Bắc thành Thái Hưng, ta cùng đại ca đã từng nói chúng ta đều nhất định phải còn sống!”
Đường Thiệu Nghĩa cũng gượng cười, hai tay vẫn nắm chặt vai A Mạch, cố gắng nén lại nỗi xúc động muốn ôm A Mạch vào lòng, mà chỉ kéo A Mạch ngồi xuống, quay đầu lại phân phó thân binh đi chuẩn bị cơm canh, rồi lại nói với Trương Sĩ Cường đang đứng bên cạnh: “Không cần giữ lễ tiết, ngồi xuống đi.”
Nhưng Trương Sĩ Cường vẫn không chịu ngồi xuống, chỉ cảm tạ Đường Thiệu Nghĩa rồi nhìn về phía A Mạch nói: “Tướng quân, ta ra ngoài trước.”
A Mạch biết anh ta ở trong này tất sẽ cảm thấy câu thúc, liền gật đầu nói: “Ngươi về doanh trước đi, có việc gì thì ta sẽ cho gọi ngươi.”
Trương Sĩ Cường đồng ý, lại hướng về phía Đường Thiệu Nghĩa hành quân lễ, rồi mới xoay người rời đi.
A Mạch đợi anh ta ra ngoài mới quay lại hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, tình hình chiến sự giữa ta và thát tử thế nào rồi?”
Đường Thiệu Nghĩa đáp: “Quân của Thôi Diễn sau khi bị đánh cho tan tác thì chạy lên hướng bắc hội quân cùng tàn quân của Thường Ngọc Tông, Thường Ngọc Tông vốn không chịu xuất chiến, ta cho người đóng giả Thường Ngọc Thanh, treo lên trước quân mới khiến Thôi Diễn xuất trận, Thường Ngọc Tông sợ Thôi Diễn mắc phải sai lầm, rơi vào đường cùng cũng đành phải xuất chiến, sau khi bị quân ta đánh bại liền dẫn quân trốn lên núi Nhạn Sơn, hôm nay đã là ngày thứ ba rồi.”
A Mạch lại hỏi: “Tình hình thương vong giữa địch và ta thì thế nào?”
“Quân Bắc Mạc tổn thất quá nửa, quân ta có thương vong nhưng không lớn, chỉ có điều Thôi Diễn từng xâm nhập vào trong trận địa của ta, Vệ Hưng chưa lành vết thương nên không thể nghênh chiến, khiến cho Thôi Diễn giết mất mấy tên thân vệ, trong lúc bối rối, Lâm Mẫn Thận làm đổ lá cờ nguyên soái của đại tướng quân, trùng hợp lại phủ lên đầu Thôi Diễn làm che mất tầm mắt của anh ta, lúc này, một thân vệ nhân cơ hội đó liền cho Thôi Diễn một đao, chỉ tiếc là không chém trúng chỗ hiểm nên vẫn để cho anh ta chạy thoát.”
A Mạch nghe thấy Lâm Mẫn Thận trong lúc vô tình đụng phải soái kỳ cứu Vệ Hưng thoát chết, trong lòng không khỏi vừa động, lập tức hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, ngươi có tin lá cờ nguyên soái lại trùng hợp đổ lên đầu Thôi Diễn như vậy không?”
Đường Thiệu Nghĩa hơi trầm ngâm, nói: “Anh ta nói là đúng dịp thì đó là đúng dịp, trong lòng ta và ngươi cứ hiểu như vậy là được rồi.”
“Cũng phải.” A Mạch gật đầu, lại hỏi: “Đại ca hiện giờ vây Thường Ngọc Tông trên núi, huynh đã có tính toán gì chưa?”
Đường Thiệu Nghĩa đáp: “Ta đang cân nhắc biện pháp ép Thường Ngọc Tông xuống núi.”
A Mạch thầm nghĩ nếu chỉ có Thường Ngọc Tông và Thôi Diễn thì buộc bọn họ xuống núi thật ra dễ như trở bàn tay, nhưng hiện giờ Thường Ngọc Thanh sợ là cũng đã lên trên núi, nếu tính kế để lừa anh ta thì rất khó, huống chi nàng và anh ta đã có hẹn ước từ trước rồi. A Mạch lo nghĩ, song cũng không nói ra chuyện cùng Thường Ngọc Thanh ước hẹn, chỉ nói: “Thường Ngọc Tông vốn có ý định bất động tại phía bắc mà chờ viện quân Dự Châu, hiện nay trốn lên trên núi, nếu nói về thời gian thì anh ta có lợi thế hơn chúng ta, một khi viện quân của thát tử ở Dự Châu đến, quân ta sẽ rơi vào tình thế thập phần hung hiểm.”
Đường Thiệu Nghĩa sao lại không nhìn thấu ý đồ của Thường Ngọc Tông, chỉ có điều nếu cứ như vậy buông tha Thường Ngọc Tông và Thôi Diễn thì đúng là không cam lòng, không khỏi thở dài: “Hiện nay trên tay Thường Ngọc Tông và Thôi Diễn không tới một vạn quân, trong đó lại có nhiều kẻ là thương binh bại tướng, nếu cứ như vậy mà thả bọn chúng thì thật đáng tiếc.”
A Mạch hỏi: “Đại ca thấy tiếc vì không thể nuốt gọn một vạn binh mã hay là thấy tiếc vì không thể trừ bỏ được Thường Ngọc Tông và Thôi Diễn?”
Đường Thiệu Nghĩa hơi có chút khó hiểu, nhìn về phía A Mạch hỏi: “Có gì khác nhau sao?”
A Mạch cười nói: “Tất nhiên là rất khác nhau, bỏ qua một vạn binh mã thì đáng tiếc vô cùng, nhưng nếu buông tha Thường Ngọc Tông và Thôi Diễn, thì đại ca phải cao hứng mới đúng, Thường Ngọc Tông không phải là kẻ đại tài đủ để gây nên mối họa, Thôi Diễn lại chỉ là một gã thất phu lỗ mãng, thả anh ta ra so với giết có khi còn lợi hơn rất nhiều!”
Đường Thiệu Nghĩa nghĩ một lát rồi cũng nở nụ cười, nói: “Ngươi nói cũng đúng, chẳng qua nếu muốn lui binh thì Vệ Hưng phải gật đầu đồng ý mới được, mặc dù ông ta bị trọng thương nhưng dù sao vẫn là thống soái của quân Giang Bắc! Ngươi thấy trong người như thế nào? Hay là nghỉ ngơi một chút rồi hãy đến gặp ông ta?”
A Mạch từ trên ghế đứng dậy, nói: “Không việc gì, đi thôi.”
Đường Thiệu Nghĩa lại đưa mắt nhìn A Mạch nói: “Lui binh cũng không phải chuyện cần làm gấp gáp, trước mắt ngươi cứ ăn vài thứ đi đã.”
A Mạch sớm đã đói cồn cào, nhưng nàng đến tìm Đường Thiệu Nghĩa trước Vệ Hưng đã là không đúng, nếu còn tiếp tục ở lại đây ăn cơm rồi mới đi gặp Vệ Hưng, sợ là càng khiến Vệ Hưng nghi kỵ, liền lập tức nói: “Không sao, chỉ đói một chút không đáng ngại, đi gặp Vệ Hưng trước thì hay hơn.”
Đường Thiệu Nghĩa ngẫm lại cũng thấy phải, gật đầu nói: “Cũng tốt.” Mới ra đến cửa trướng thì đúng lúc gặp thân binh bưng cơm canh đến, Đường Thiệu Nghĩa cầm lấy cái bánh bao nhét vào trong tay A Mạch, lúc này mới đưa nàng đi tìm Vệ Hưng.
Vệ Hưng ở trong trướng nhìn thấy A Mạch vẫn còn sống trở về thì vô cùng cao hứng, trấn an vài câu, rồi lại hỏi A Mạch những chuyện diễn ra khi nàng chạy trốn. A Mạch đem những chuyện trải qua mấy ngày vừa rồi nửa thật nửa giả nói một lượt, chỉ kể là ở trong nước dùng chủy thủ cắt đứt dây buộc áo giáp bằng da trâu mới thoát thân được, lại bị dòng nước cuốn đi rất xa mới bơi được vào bờ, nhưng lúc đó lại kiệt sức mà ngất đi, may mắn được một hộ nông gia cứu, vì thế mà còn sống trở về.
Đúng lúc Lâm Mẫn Thận đang ở trong trướng của Vệ Hưng, nghe thấy vậy liền liên tục kinh hô, lại sợ hãi mà than rằng: “Mạch tướng quân bơi giỏi thật, nếu đổi là người khác, sợ là sớm đã bị cái áo giáp kia kéo chìm xuống đáy sông rồi, thế mà Mạch tướng quân vẫn còn có thể bình tĩnh cắt đứt dải áo, quả thực không giống với người thường!”
A Mạch thản nhiên nói: “Tình thế bức bách cũng chỉ có thể liều chết thử một lần xem sao, nếu Lâm tham quân bị rơi xuống sông, e là cũng có thể làm được.”
Lâm Mẫn Thận cười cười, đang muốn nói tiếp, lại nghe Đường Thiệu Nghĩa nói: “Đại tướng quân, quân ta đã vây khốn thát tử ba ngày, Thường Ngọc Tông quyết tử thủ Nhạn Sơn, nếu chúng ta tiếp tục vây nữa chỉ sợ là sẽ mất đi lợi thế, một khi viện quân thát tử ở Dự Châu đến nơi, quân ta sẽ rơi vào cục diện bị động, chi bằng hiện giờ ta bỏ Nhạn Sơn mà đi, tránh rơi vào kế của bọn chúng.”
Vệ Hưng cân nhắc một lát rồi nhìn về phía A Mạch, hỏi: “Mạch tướng quân cảm thấy thế nào?”
A Mạch đáp: “Thường Ngọc Tông đã không còn khả năng gây họa nữa, mà quân ta vây núi cũng đã lâu, lúc này cũng nên tìm một nơi phù hợp để nghỉ ngơi hồi phục rồi sẽ tính tiếp.”
Vệ Hưng thấy A Mạch nói có lý, khi anh ta ra khỏi núi Ô Lan thì hào quang vạn trượng, nhưng qua một trận chiến ở thành Thái Hưng thì lại phải chịu một đòn đả kích lớn, nên thái độ của anh ta trong việc điều quân khiển tướng đối với Đường Thiệu Nghĩa và A Mạch nể trọng hơn rất nhiều, hiện nghe Đường Thiệu Nghĩa cùng A Mạch đều đề nghị lui binh, liền gật đầu nói: “Cũng tốt, chỉ không biết nên lui về hướng nào để bố trí cho quân sĩ nghỉ ngơi hồi phục được thỏa đáng?”
Đường Thiệu Nghĩa nghĩ một lát rồi nói: “Hiện nay hai lộ đại quân của thát tử đều bị chúng ta phá, hướng đông hướng tây đều có thể đi, song thát tử đương nhiên không thể ngờ được chúng ta còn dám quay đầu lại đi theo hướng tây, nên theo ta thấy không bằng bày ra hư chiêu ở hướng đông mà lừa Thường Ngọc Tông, đợi viện quân thát tử của Dự Châu đến cũng sẽ nghĩ rằng chúng ta đi theo hướng đông, lừa bọn họ đi theo hướng đó, còn chúng ta lại âm thầm đi về hướng tây mà chọn nơi nghỉ ngơi hồi phục.”
Vệ Hưng vẫn chưa hạ quyết tâm, Lâm Mẫn Thận đứng bên cạnh đã vỗ tay hoan nghênh khen: “Kế sách của Đường tướng quân hay lắm, đợi chúng ta nghỉ ngơi hồi phục xong, có thể từ phía sau đánh lén viện quân thát tử Dự Châu, đúng là kế sách nhất cử lưỡng tiện!”
A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa đưa mắt nhìn nhau rồi đều im lặng, Vệ Hưng lại hạ quyết tâm nói: “Nếu đã như vậy, chúng ta liền lui về hướng tây.”
A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa nhất tề đồng ý. Đợi ra khỏi doanh trướng của Vệ Hưng, A Mạch mới hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, ngươi cảm thấy Lâm Mẫn Thận là người như thế nào?”
Đường Thiệu Nghĩa khẽ lắc đầu, nói: “Nhất thời cũng chưa nhìn thấu.”
A Mạch trầm mặc một lát, đột nhiên nói: “Ta chỉ cảm thấy anh ta có vấn đề, lại không biết là ở chỗ nào.”
Đường Thiệu Nghĩa cũng có loại cảm giác này, luôn cảm thấy Lâm Mẫn Thận có chút cổ quái, nhưng lại không thể nói được anh ta bất bình thường ở điểm nào. Ban đầu chỉ nghĩ anh ta được Vệ Hưng che chắn cho theo quân Giang Bắc để đánh bóng, nhưng sau một thời gian, trải qua vô số chiến dịch lớn nhỏ, lại càng cảm thấy người này không hề đơn giản. Những cái khác tạm thời không nói đến, chỉ nói đến hai lần Thôi Diễn xâm nhập vào trong trận địa của quân Giang Bắc, chém Vệ Hưng bị thương, giết chết vô số thân vệ, phụ tá, mà Lâm Mẫn Thận lại chẳng hề bị tổn thương đến một sợi tóc, vận khí của anh ta không thể chỉ dùng một từ “Tốt” để hình dung.
Đường Thiệu Nghĩa không nói gì, mặc dù trong lòng có nhiều phỏng đoán, cũng không nói, chỉ bảo A Mạch: “Trước mắt đừng vội quản đến việc này, ngươi về doanh trại ăn uống rồi nghỉ ngơi cho tốt, ta đi an bài quân đội đánh nghi binh để lui quân.”
Trương Sĩ Cường nhất thời vừa mừng vừa sợ, ngay cả nói cũng không nói nên lời, A Mạch cười cười, đẩy mạnh vào người Trương Sĩ Cường, cười nói: “Thế nào? Mới mấy ngày không gặp mà đã không còn nhận ra ta nữa sao?” Nói chưa dứt lời, đôi mắt Trương Sĩ Cường đã đỏ hoe. A Mạch dở khóc dở cười, trước mặt nhiều người thế này cũng không tiện nói gì, liền quay đầu gọi Trương Sinh: “Trương đại ca, ngươi vất vả rồi.”
Trương Sinh cũng nhìn A Mạch chằm chằm, lúc này mới thở phảo nhẹ nhõm, thì thào nói: “Cuối cùng cũng đã tìm thấy……”
A Mạch nhất thời nghe không rõ liền hỏi lại: “Cái gì?”
Trương Sinh lại nói: “Mạch tướng quân trở về là tốt rồi, đại tướng quân và Đường tướng quân đều vô cùng lo lắng, nếu thân thể Mạch tướng quân không có gì trở ngại, mời tướng quân mau chóng trở về doanh trại.”
A Mạch gật đầu, hỏi Trương Sinh nói: “Đại quân hiện ở đâu?”
Trương Sinh đáp: “Một ngày trước có người tới thông báo nói là đã lên phía bắc giao chiến cùng Thường Ngọc Tông, hiện tại không biết đã đi đến đâu.”
A Mạch nhìn bốn phía, không thấy có ngựa liền hỏi: “Ngựa đâu?”
Trương Sĩ Cường giành trả lời trước nói: “Dọc bờ sông có nơi địa thế quá cao, chiến mã không thể đi được, Trương tướng quân liền cho mọi người đi bộ tới đây.”
Thì ra A Mạch khi rơi vào giữa sông đã bị dòng nước cuốn về phía hạ du, sau lại lại bị hôn mê bất tỉnh, tất cả đều là dựa vào Thường Ngọc Thanh mang lên bờ, chính nàng cũng không biết địa hình dọc theo con sông như thế nào, hiện nghe Trương Sĩ Cường nói mới hiểu được vì sao Trương Sinh phải mất tới mấy ngày đêm mới đi đến nơi này. A Mạch biết xuôi theo dòng nước là núi cao nhưng nếu đi dọc theo bờ sông này rồi vượt qua mấy ngọn núi kia thì lại càng khó khăn hơn, khó trách nhìn dáng vẻ của mọi người lại chật vật đến vậy. Nghĩ đến đây, A Mạch không khỏi lại nhìn về phía Trương Sinh, thấy trên người anh ta bám đầy bùn đen, cái chân bị thương cũng bị bùn đen bao kín nhìn không rõ màu da, trong lòng A Mạch âm thầm cảm động, trịnh trọng hướng về phía Trương Sinh hành lễ nói: “Đa tạ ơn cứu trợ của Trương đại ca!”
Trương Sinh vội vàng lắc mình tránh né, nói: “Mạch tướng quân đừng như vậy, làm thế khác nào muốn lấy mạng ta.”
A Mạch cười cười, không nhiều lời nữa, sau khi cân nhắc cẩn thận liền phân phó mọi người lưu lại cùng Trương Sinh thong thả đi sau, còn mình dẫn theo Trương Sĩ Cường vội vàng vượt núi trở lại quân doanh. Trương Sĩ Cường vốn sớm theo A Mạch rèn luyện cước lực, lại thêm đương độ tuổi trẻ, nên mặc dù trước đó đã mệt mỏi đến cực điểm, lại vẫn cắn răng theo sát phía sau A Mạch chưa từng bị tụt lại quá xa, hai người cứ như vậy đi vội vã hai ngày đêm mới trở về đến quân doanh, Đường Thiệu Nghĩa quả nhiên đã dẫn quân bao vây tàn quân của Thường Ngọc Tông ở Nhạn Sơn.
A Mạch và Trương Sĩ Cường đã mệt mỏi đến nỗi không còn ra người hình, A Mạch tuy là một cô gái khỏe mạnh hiếm thấy nhưng lại vừa bị bệnh nặng mới khỏi, thân thể lúc này gần như kiệt sức, hoàn toàn dựa vào Trương Sĩ Cường mới đến được doanh trướng của Đường Thiệu Nghĩa. Đường Thiệu Nghĩa bước vội vài bước tiến đến nắm chặt lấy hai vai A Mạch, tinh tế nhìn nàng đánh giá mấy lượt, lúc này mới trầm giọng nói: “Còn sống là tốt rồi.”
Tuy chỉ là bốn chữ ngắn ngủn song khi lọt vào trong tai thì A Mạch cũng không khỏi cảm động. Nàng nhếch miệng cười cười, hạ mắt xuống nói: “Đại ca đã quên rồi sao? Khi còn ở phía Bắc thành Thái Hưng, ta cùng đại ca đã từng nói chúng ta đều nhất định phải còn sống!”
Đường Thiệu Nghĩa cũng gượng cười, hai tay vẫn nắm chặt vai A Mạch, cố gắng nén lại nỗi xúc động muốn ôm A Mạch vào lòng, mà chỉ kéo A Mạch ngồi xuống, quay đầu lại phân phó thân binh đi chuẩn bị cơm canh, rồi lại nói với Trương Sĩ Cường đang đứng bên cạnh: “Không cần giữ lễ tiết, ngồi xuống đi.”
Nhưng Trương Sĩ Cường vẫn không chịu ngồi xuống, chỉ cảm tạ Đường Thiệu Nghĩa rồi nhìn về phía A Mạch nói: “Tướng quân, ta ra ngoài trước.”
A Mạch biết anh ta ở trong này tất sẽ cảm thấy câu thúc, liền gật đầu nói: “Ngươi về doanh trước đi, có việc gì thì ta sẽ cho gọi ngươi.”
Trương Sĩ Cường đồng ý, lại hướng về phía Đường Thiệu Nghĩa hành quân lễ, rồi mới xoay người rời đi.
A Mạch đợi anh ta ra ngoài mới quay lại hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, tình hình chiến sự giữa ta và thát tử thế nào rồi?”
Đường Thiệu Nghĩa đáp: “Quân của Thôi Diễn sau khi bị đánh cho tan tác thì chạy lên hướng bắc hội quân cùng tàn quân của Thường Ngọc Tông, Thường Ngọc Tông vốn không chịu xuất chiến, ta cho người đóng giả Thường Ngọc Thanh, treo lên trước quân mới khiến Thôi Diễn xuất trận, Thường Ngọc Tông sợ Thôi Diễn mắc phải sai lầm, rơi vào đường cùng cũng đành phải xuất chiến, sau khi bị quân ta đánh bại liền dẫn quân trốn lên núi Nhạn Sơn, hôm nay đã là ngày thứ ba rồi.”
A Mạch lại hỏi: “Tình hình thương vong giữa địch và ta thì thế nào?”
“Quân Bắc Mạc tổn thất quá nửa, quân ta có thương vong nhưng không lớn, chỉ có điều Thôi Diễn từng xâm nhập vào trong trận địa của ta, Vệ Hưng chưa lành vết thương nên không thể nghênh chiến, khiến cho Thôi Diễn giết mất mấy tên thân vệ, trong lúc bối rối, Lâm Mẫn Thận làm đổ lá cờ nguyên soái của đại tướng quân, trùng hợp lại phủ lên đầu Thôi Diễn làm che mất tầm mắt của anh ta, lúc này, một thân vệ nhân cơ hội đó liền cho Thôi Diễn một đao, chỉ tiếc là không chém trúng chỗ hiểm nên vẫn để cho anh ta chạy thoát.”
A Mạch nghe thấy Lâm Mẫn Thận trong lúc vô tình đụng phải soái kỳ cứu Vệ Hưng thoát chết, trong lòng không khỏi vừa động, lập tức hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, ngươi có tin lá cờ nguyên soái lại trùng hợp đổ lên đầu Thôi Diễn như vậy không?”
Đường Thiệu Nghĩa hơi trầm ngâm, nói: “Anh ta nói là đúng dịp thì đó là đúng dịp, trong lòng ta và ngươi cứ hiểu như vậy là được rồi.”
“Cũng phải.” A Mạch gật đầu, lại hỏi: “Đại ca hiện giờ vây Thường Ngọc Tông trên núi, huynh đã có tính toán gì chưa?”
Đường Thiệu Nghĩa đáp: “Ta đang cân nhắc biện pháp ép Thường Ngọc Tông xuống núi.”
A Mạch thầm nghĩ nếu chỉ có Thường Ngọc Tông và Thôi Diễn thì buộc bọn họ xuống núi thật ra dễ như trở bàn tay, nhưng hiện giờ Thường Ngọc Thanh sợ là cũng đã lên trên núi, nếu tính kế để lừa anh ta thì rất khó, huống chi nàng và anh ta đã có hẹn ước từ trước rồi. A Mạch lo nghĩ, song cũng không nói ra chuyện cùng Thường Ngọc Thanh ước hẹn, chỉ nói: “Thường Ngọc Tông vốn có ý định bất động tại phía bắc mà chờ viện quân Dự Châu, hiện nay trốn lên trên núi, nếu nói về thời gian thì anh ta có lợi thế hơn chúng ta, một khi viện quân của thát tử ở Dự Châu đến, quân ta sẽ rơi vào tình thế thập phần hung hiểm.”
Đường Thiệu Nghĩa sao lại không nhìn thấu ý đồ của Thường Ngọc Tông, chỉ có điều nếu cứ như vậy buông tha Thường Ngọc Tông và Thôi Diễn thì đúng là không cam lòng, không khỏi thở dài: “Hiện nay trên tay Thường Ngọc Tông và Thôi Diễn không tới một vạn quân, trong đó lại có nhiều kẻ là thương binh bại tướng, nếu cứ như vậy mà thả bọn chúng thì thật đáng tiếc.”
A Mạch hỏi: “Đại ca thấy tiếc vì không thể nuốt gọn một vạn binh mã hay là thấy tiếc vì không thể trừ bỏ được Thường Ngọc Tông và Thôi Diễn?”
Đường Thiệu Nghĩa hơi có chút khó hiểu, nhìn về phía A Mạch hỏi: “Có gì khác nhau sao?”
A Mạch cười nói: “Tất nhiên là rất khác nhau, bỏ qua một vạn binh mã thì đáng tiếc vô cùng, nhưng nếu buông tha Thường Ngọc Tông và Thôi Diễn, thì đại ca phải cao hứng mới đúng, Thường Ngọc Tông không phải là kẻ đại tài đủ để gây nên mối họa, Thôi Diễn lại chỉ là một gã thất phu lỗ mãng, thả anh ta ra so với giết có khi còn lợi hơn rất nhiều!”
Đường Thiệu Nghĩa nghĩ một lát rồi cũng nở nụ cười, nói: “Ngươi nói cũng đúng, chẳng qua nếu muốn lui binh thì Vệ Hưng phải gật đầu đồng ý mới được, mặc dù ông ta bị trọng thương nhưng dù sao vẫn là thống soái của quân Giang Bắc! Ngươi thấy trong người như thế nào? Hay là nghỉ ngơi một chút rồi hãy đến gặp ông ta?”
A Mạch từ trên ghế đứng dậy, nói: “Không việc gì, đi thôi.”
Đường Thiệu Nghĩa lại đưa mắt nhìn A Mạch nói: “Lui binh cũng không phải chuyện cần làm gấp gáp, trước mắt ngươi cứ ăn vài thứ đi đã.”
A Mạch sớm đã đói cồn cào, nhưng nàng đến tìm Đường Thiệu Nghĩa trước Vệ Hưng đã là không đúng, nếu còn tiếp tục ở lại đây ăn cơm rồi mới đi gặp Vệ Hưng, sợ là càng khiến Vệ Hưng nghi kỵ, liền lập tức nói: “Không sao, chỉ đói một chút không đáng ngại, đi gặp Vệ Hưng trước thì hay hơn.”
Đường Thiệu Nghĩa ngẫm lại cũng thấy phải, gật đầu nói: “Cũng tốt.” Mới ra đến cửa trướng thì đúng lúc gặp thân binh bưng cơm canh đến, Đường Thiệu Nghĩa cầm lấy cái bánh bao nhét vào trong tay A Mạch, lúc này mới đưa nàng đi tìm Vệ Hưng.
Vệ Hưng ở trong trướng nhìn thấy A Mạch vẫn còn sống trở về thì vô cùng cao hứng, trấn an vài câu, rồi lại hỏi A Mạch những chuyện diễn ra khi nàng chạy trốn. A Mạch đem những chuyện trải qua mấy ngày vừa rồi nửa thật nửa giả nói một lượt, chỉ kể là ở trong nước dùng chủy thủ cắt đứt dây buộc áo giáp bằng da trâu mới thoát thân được, lại bị dòng nước cuốn đi rất xa mới bơi được vào bờ, nhưng lúc đó lại kiệt sức mà ngất đi, may mắn được một hộ nông gia cứu, vì thế mà còn sống trở về.
Đúng lúc Lâm Mẫn Thận đang ở trong trướng của Vệ Hưng, nghe thấy vậy liền liên tục kinh hô, lại sợ hãi mà than rằng: “Mạch tướng quân bơi giỏi thật, nếu đổi là người khác, sợ là sớm đã bị cái áo giáp kia kéo chìm xuống đáy sông rồi, thế mà Mạch tướng quân vẫn còn có thể bình tĩnh cắt đứt dải áo, quả thực không giống với người thường!”
A Mạch thản nhiên nói: “Tình thế bức bách cũng chỉ có thể liều chết thử một lần xem sao, nếu Lâm tham quân bị rơi xuống sông, e là cũng có thể làm được.”
Lâm Mẫn Thận cười cười, đang muốn nói tiếp, lại nghe Đường Thiệu Nghĩa nói: “Đại tướng quân, quân ta đã vây khốn thát tử ba ngày, Thường Ngọc Tông quyết tử thủ Nhạn Sơn, nếu chúng ta tiếp tục vây nữa chỉ sợ là sẽ mất đi lợi thế, một khi viện quân thát tử ở Dự Châu đến nơi, quân ta sẽ rơi vào cục diện bị động, chi bằng hiện giờ ta bỏ Nhạn Sơn mà đi, tránh rơi vào kế của bọn chúng.”
Vệ Hưng cân nhắc một lát rồi nhìn về phía A Mạch, hỏi: “Mạch tướng quân cảm thấy thế nào?”
A Mạch đáp: “Thường Ngọc Tông đã không còn khả năng gây họa nữa, mà quân ta vây núi cũng đã lâu, lúc này cũng nên tìm một nơi phù hợp để nghỉ ngơi hồi phục rồi sẽ tính tiếp.”
Vệ Hưng thấy A Mạch nói có lý, khi anh ta ra khỏi núi Ô Lan thì hào quang vạn trượng, nhưng qua một trận chiến ở thành Thái Hưng thì lại phải chịu một đòn đả kích lớn, nên thái độ của anh ta trong việc điều quân khiển tướng đối với Đường Thiệu Nghĩa và A Mạch nể trọng hơn rất nhiều, hiện nghe Đường Thiệu Nghĩa cùng A Mạch đều đề nghị lui binh, liền gật đầu nói: “Cũng tốt, chỉ không biết nên lui về hướng nào để bố trí cho quân sĩ nghỉ ngơi hồi phục được thỏa đáng?”
Đường Thiệu Nghĩa nghĩ một lát rồi nói: “Hiện nay hai lộ đại quân của thát tử đều bị chúng ta phá, hướng đông hướng tây đều có thể đi, song thát tử đương nhiên không thể ngờ được chúng ta còn dám quay đầu lại đi theo hướng tây, nên theo ta thấy không bằng bày ra hư chiêu ở hướng đông mà lừa Thường Ngọc Tông, đợi viện quân thát tử của Dự Châu đến cũng sẽ nghĩ rằng chúng ta đi theo hướng đông, lừa bọn họ đi theo hướng đó, còn chúng ta lại âm thầm đi về hướng tây mà chọn nơi nghỉ ngơi hồi phục.”
Vệ Hưng vẫn chưa hạ quyết tâm, Lâm Mẫn Thận đứng bên cạnh đã vỗ tay hoan nghênh khen: “Kế sách của Đường tướng quân hay lắm, đợi chúng ta nghỉ ngơi hồi phục xong, có thể từ phía sau đánh lén viện quân thát tử Dự Châu, đúng là kế sách nhất cử lưỡng tiện!”
A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa đưa mắt nhìn nhau rồi đều im lặng, Vệ Hưng lại hạ quyết tâm nói: “Nếu đã như vậy, chúng ta liền lui về hướng tây.”
A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa nhất tề đồng ý. Đợi ra khỏi doanh trướng của Vệ Hưng, A Mạch mới hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, ngươi cảm thấy Lâm Mẫn Thận là người như thế nào?”
Đường Thiệu Nghĩa khẽ lắc đầu, nói: “Nhất thời cũng chưa nhìn thấu.”
A Mạch trầm mặc một lát, đột nhiên nói: “Ta chỉ cảm thấy anh ta có vấn đề, lại không biết là ở chỗ nào.”
Đường Thiệu Nghĩa cũng có loại cảm giác này, luôn cảm thấy Lâm Mẫn Thận có chút cổ quái, nhưng lại không thể nói được anh ta bất bình thường ở điểm nào. Ban đầu chỉ nghĩ anh ta được Vệ Hưng che chắn cho theo quân Giang Bắc để đánh bóng, nhưng sau một thời gian, trải qua vô số chiến dịch lớn nhỏ, lại càng cảm thấy người này không hề đơn giản. Những cái khác tạm thời không nói đến, chỉ nói đến hai lần Thôi Diễn xâm nhập vào trong trận địa của quân Giang Bắc, chém Vệ Hưng bị thương, giết chết vô số thân vệ, phụ tá, mà Lâm Mẫn Thận lại chẳng hề bị tổn thương đến một sợi tóc, vận khí của anh ta không thể chỉ dùng một từ “Tốt” để hình dung.
Đường Thiệu Nghĩa không nói gì, mặc dù trong lòng có nhiều phỏng đoán, cũng không nói, chỉ bảo A Mạch: “Trước mắt đừng vội quản đến việc này, ngươi về doanh trại ăn uống rồi nghỉ ngơi cho tốt, ta đi an bài quân đội đánh nghi binh để lui quân.”
Danh sách chương