Khi chúng tôi ngoi lên lại mặt nước lần nữa, gian nan chật vật lết tấm thân ra ngoài hang động, bầu trời đã cảnh chiều tà. Tôi nhớ lúc mình lủi thủi vào hang, đồng hồ của Phong Linh chỉ hơn 9 sáng, thế nào mà bây giờ như thể lão thiên đang nhấp nhổm tan ca?
Tôi ngẩn người ngơ ngác nhìn lão thiên rục rịch ôm chăn đi ngủ. Ánh nắng khác biệt một trời một vực thế này quả nhiên không phải đi một tiếng mà là luẩn quẩn 8 tiếng dưới đó.
Thứ sắc màu sắp tắt kia cường độ sai lệch quá lớn, màu vàng hoa lệ rải rác khắp chốn, xuyên qua tầng tầng khí quyển, tán quang vào những đám mây dày mỏng để tạo nên những hiện tượng khúc xạ rực rỡ huy hoàng.
Tùy vào độ ẩm nhiều ít mà tán sắc thay đổi nơi đậm nơi nhạt, chính vì vậy mà tạo ra bức tranh chạng vạng càng lôi cuốn mất hồn, lộng lẫy mê người với những gam màu chuyển sắc từ nửa ấm nóng sang nửa sắc lạnh.
Thứ ánh dương quang ngả từ vàng đậm sang cam hồng, chuyển từ đỏ rực sang tím biếc, khoe vẻ đẹp nội tại như ảo mộng, như giai nhân đã kinh qua chốn hồng trần gió trăng, ở giai đoạn chín mùi mị cốt, như mẫu đơn quốc sắc nở rộ, bộc lộ hết sức sống căng tràn của một kiếp ngắn ngủi, khiến lòng người rung động sâu sắc.
Đám kia vừa thấy chúng tôi thất thểu đi ra liền vui mừng lao tới. A Hoa phụ với Minh Đăng đỡ lấy Thiên Hương, miệng như tép nhảy, liên tục hỏi thăm, rồi than trách.
Chính là cảm giác chúng tôi chỉ đi xuống khoảng hơn tiếng, nhưng trên này đã trôi qua nửa ngày, là xế chiều rồi.
Chúng tôi lên bờ, lần lượt tháo dụng cụ ra, lại cẩn thận cất vào túi, còn thấy dấu vết của một bếp lửa tạm bợ trên mặt đất.
Thiên Hương biết Âu Tử Dạ đi trước, gương mặt tái nhợt hiển lộ một ít mất mát thương tâm. Nhưng cũng giống như đám A Hoa Tiểu Trà, bọn Thiên Hương Tư Đồ nhìn thấy Ưu Đàm hiện lên chân thực rõ nét dưới mây trời nhuộm ánh tà dương, như nhân bản vô tính từ Âu Tử Dạ, vẻ mặt sững sờ không tin tưởng, hung hăng trợn mắt trừng muốn rớt con ngươi.
Giống kiểu một hôm ngày có nắng đêm có trăng, bà mẹ đoan trang hiền thục nết na dắt về một cậu nhóc, và bảo đây là đứa em khác cha của con. Ôi, tạo hóa trêu đùa.
Thôi để hôm nào tôi kiếm được tấm tranh vẽ mỹ nữ tuyệt sắc kinh tâm, thử mang cho Ưu Đàm nhìn mẫu biến hóa coi sao, rồi dắt đi dạo một vòng, lòe thiên hạ.
Minh Đăng nhanh nhẹn leo lên miệng vực trước, sau đó kéo Thiên Hương lên để lão bác sĩ ngồi co ro một đống trên đó sắp đóng băng được vinh quang lao động.
Lão bác sĩ và lão dẫn đường không xuống, ở trên đốt lửa trại qua đêm. Vốn ban đầu tưởng chỉ đợi một lúc nên vị bác sĩ ở trên miệng vực chờ, còn vị kia là người địa phương vùng này, cương quyết không tiến vào vùng cấm địa.
Tôi để ý thấy một đống đất u cao như nấm mộ mới đắp, cạnh đó còn cắm xuống hai cái xẻng gấp.
Đưa mắt nhìn trái phải cách hai bên gốc cây có dấu vết đào bới, hướng tới đó, là cái hố sâu hơn mét.
Phong Linh thu dọn lại xẻng, nhún vai cười nói.
- Vì chẳng ngờ hai người đi lâu thế, đành vận động cho ấm.
Tôi gật gật, nói một câu “cảm ơn” quen thuộc, A Hoa hi hả nói.
-Tiểu Mặc ca, lần sau mời cơm là được.
Tôi nhẹ cười, nếu có điều kiện và cơ hội, rồi tiện tay ngắt lấy một cành mai, cắm xuống đống đất. Sau cùng theo bọn họ lần lượt leo lên.
Lúc leo tới lưng chừng, thấy một đốm trắng bay qua khóe mắt. Tôi cũng lười để ý, tiếp tục công việc. Còn chưa đứng ổn định trên miệng vực, tiếng A Hoa kinh ngạc vang lên.
-Kia là gì? Vừa xoay người lại, liền nhìn thấy trước mặt lác đác từng cụm trắng ngần, li ti như hoa tuyết, lả lướt bay lên, nhẹ nhàng phân tán, thoáng chốc tan biến vào hư không.
A Hoa chỉ xuống dưới, chúng tôi cúi đầu nhìn.
Những cánh mai vàng héo úa, cam tâm buông xuôi, lảc tả rụng hết, phủ lấm tấm trên lớp tuyết mỏng, chút hơi tàn trên nấm mộ mới đắp.
Toàn bộ thân cây mai cổ tựa như bộ xương khô xơ xác, lại đang oằn mình hứng lấy vô vàn cụm tuyết trắng thánh thiện đơn thuần, như hoa chấm bi nở rộ, thanh khiết tinh mỹ.
Có ngọn gió lãng tử nghé thăm, những đốm trắng như hoa như ngọc, tinh khôi xinh đẹp, liền cuống quýt nhún mình bám theo, tới lưng chừng thinh không lại chần chừ quay đầu, nửa lưu luyến khó dứt nửa thấp thỏm mong chờ, cùng một làn hương lãng đãng nhàn nhạt, ưu tư sầu muộn.
Từ lớp vỏ bọc nhăn nheo xù xì như đất hạn nứt nẻ, như da bệnh vảy nến, dường như khai hoa kết nhụy. Cơ thể khẳng khiu xấu xí được khoác một tầng áo mới, như lông ngỗng tạo thành, như mây trời đáp xuống, băng thanh ngọc khiết, khiến người ta trầm trồ kinh ngạc.
Gió tiêu sái lạc bước, những thân hình mảnh dẻ đơn bạc dễ dàng bị mê hoặc quyến rũ, hấp tấp ly khai, vội vàng tán loạn. Kết quả, một cơn lốc xoay vòng cuộn tròn, hoa như tuyết, gió như băng, ngẫu hứng dây dưa, uyển chuyển kết hợp. Khắp không trung tràn ngập sắc trắng, như mơ mộng hão huyền, như ưu thương tiếc nuối, đẹp đẽ thanh thuần mà cũng tiêu điều hiu quạnh.
Cuối cùng, toàn bộ đều bị gió vô tâm vô tình cuốn đi, tan biến vào giáng chiều, bốc hơi vào hư vô, chỉ còn lại thiên hương bao phủ, ngẩn ngơ như hồi ức xa xăm, đờ đẫn như hư ảo không thực, thật tịch mịch trống rỗng.
Tôi ngây người nhìn, có chút ngơ ngác không hiểu, vô thức mở miệng.
-Như Bồ Công Anh?
Tôi vô thức vươn tay ra, chờ đợi một hình hài mềm mại bé nhỏ nửa đường muốn đổi ý, lưỡng lự muốn trở về.
Thứ đáp xuống, thì ra là nhụy hoa mai.
-Người trong trấn xưa kia gọi loại mai cổ này là Tràng Hoàng Kim, hoặc một cái tên khác đặc biệt hơn là Phi Thiên Cầu, tức ước nguyện bay lên trời cao, một giống mai quý hiếm tưởng đã tuyệt tích, nhưng giờ thì thật sự rồi.
Giọng lão bản địa vang lên, ngậm ngùi thương tiếc.
Sau khi sơ cứu cho Thiên Hương và Tư Đồ, chúng tôi nhanh chóng thu dọn tàn cục để tiếp tục lên đường.Từ đây phải cuốc bộ cỡ một tiếng mới tới chỗ đậu xe, bọn họ cũng không muốn có thêm một buổi cắm trại ngoài trời rét buốt lần hai.
Trên không trung vẫn còn nhạt nhòa sáng, nhá nhem tối, hình dáng của những đám mây phù du phiêu dật không ngừng thiên biến vạn hóa, kỳ ảo không tưởng, theo gió nhào lặn, theo nắng tác động, vận chuyển biến đổi, vạn trạng muôn màu.
Bóng của những gốc cây ngả dài về hướng đông, mỗi lúc mỗi dài thêm, cảm tưởng chúng như có linh hồn, vươn dài ra, chạy mãi tới vô cùng vô tận, phủ kín hết mặt đất. Những cái bóng đen đặc dường như đang nghếch đầu, ngóc dần lên, nghiêng nghiêng ngả ngả lướt qua bụi cỏ, leo lên tàng cây, cao dần cao mãi tới mây trời.
Bóng xâm chiếm vào những đám mây còn cố phô mỹ sắc trên không gian bao la rộng lớn, một nét đẹp hoài niệm, mong manh đến kỳ diệu, sắp tan biến chỉ còn lại trống trải tịch liêu.
Đất trời thoáng chốc trở lên lặng lẽ tang thương, một khoảng khắc tiếc nuối vô vọng, kéo dài thời hạn tiêu thất, lắng động giây phút cuối cùng, sau chót, là vô hạn bóng tối cùng đêm đen ngự trị.
Tôi đi song song bên lão dẫn đường, Ưu Đàm đi bên cạnh, đám kia lẽo đẽo phía sau.
Ban nãy lão lấp lửng tiết lộ, dường như biết chút ít điển tích quái lạ, liền nở nụ cười làm thân, hỏi chuyện.
-Chú à, giống mai đó thật đặc biệt, sáu cánh vàng như ướp mật, quan trọng hơn nhụy hoa lại như bạch ngọc, có thể lương theo gió bay lượn tứ bề, hương thơm thanh lãnh, thật ấn tượng khó quên.
-Ài tôi nói cho cậu hay, thứ đẹp đẽ thường gắn với bi kịch thương tâm. Chuyện xưa là được ông cha truyền miệng cho con cháu, tôi cũng là thủa con nít hiếu động được bề trên kể lại mà thôi.
Giống mai đó ban đầu mọc thành rừng vây quanh làng, đẹp như trốn tiên cảnh, ai cũng tự hào hãnh diện, thường được dùng để tiến vua, mọi người gọi nó là Tràng Hoàng Kim.
Lúc ấy trong vùng có một thiếu nữ nhan sắc mỹ miều, dung mạo linh động như hoa mai, cốt cách thanh thuần băng khiết như bạch ngọc, nổi danh khắp vùng. Lần đó dâng hoa tiến cung còn có ý định dâng hiến cả người đẹp.
Chẳng ngờ trước đêm khởi hành, mỹ nhân ấy lại bỏ chốn cùng tình lang, nửa đường bị truy binh gắt gao đuổi, cả hai xảy chân ngã xuống vực, bị các cành cây đâm xuyên qua da thịt, máu đỏ tươi cứ thế thay phiên nhau nhỏ xuống, từng giọt tí tách thấm vào đất, từng dòng hòa quyện vào thân mai, một đời hoa mộng, một kiếp hồng trần cứ vậy chấm hết.
Lúc mọi người xuống dưới, chỉ thấy sắc mai tàn tạ rụng đầy đất, trên trời lại là sắc trắng bi thương tang tóc, như thể lão thiên gia đang cử hành nghi lễ án táng cho chôn đôi tình nhân phúc nông phận mỏng. Mọi người thấy vậy đành cứ chôn bọn họ dưới gốc mai, nơi ấy trở thành cấm địa mà từ đó Tràng Hoàng Kim đổi tên thành Phi Thiên Cầu.
Đám mai trong vùng không hiểu sao cũng đồng dạng xảy ra biến hóa.
Mai trong vùng đột nhiên đồng loạt trổ bông vàng chi chít dày đặc, mọi người còn chưa kịp hoan hỉ reo vui lại thấy sau mỗi đợt gió tuyết tràn về, cánh hoa lặng yên tiêu thất, tĩnh mịch ly khai. Chỉ còn lại những cụm bông tinh tế như tơ mảnh, trắng ngần như bạch vân, nở rộ thành hình bán cầu trên đài hoa.
Nhụy hoa thoáng chốc cũng không chịu được gió mạnh ác ý, phân phân tán tán, thê lương giăng đầy. Tuyết trên trời thổi xuống, nhụy dưới đất bay lên, như một tấm mành rèm trắng xóa nối thiên địa làm một, đau thương lan chàn, bi ai luẩn quẩn.
Từ đó mai trong vùng sau mỗi đợt đại khai thì đều lần lượt chết hết, cuối cùng, tuyệt giống, chỉ còn lại ký ức một thời vàng son huy hoàng.
Chúng tôi ra khỏi rừng rậm, chen chúc 10 người lên chiếc xe 7 chỗ vòng vèo trên núi thêm một lúc nữa mới xuống được thị trấn. Trời lạnh cũng đỡ, đông đúc tí miễn cưỡng cho qua, chứ mùa hè nóng chảy mỡ mà nhồi nhét thế có mà tắc thở.
À quên, Ưu Đàm nhất quyết không chịu vào, nhảy phốc lên nóc xe ngồi khoanh tay khoanh chân. Hơ, tôi ngán ngẩm nhìn, thế này là sợ không gian khép kín chật hẹp hay là sợ người lạ? Thôi đành vậy, tôi cũng không muốn ép buộc, chỉ căn dặn nó ngồi trên đó nhớ bám chắc.
Xuống thị trấn, lão bản địa rời đi, xe rộng thêm một chút, lại từ đó khởi hành đến bệnh viện ở Hình Đài. Trên đường lắc lư, gây ra không ít tâm điểm bàn tán, mặc kệ, đường làng quê, không gặp cảnh sát huýt còi đòi kiểm tra.
Đến bệnh viện, người có bệnh thì điều trị, người cần nghỉ ngơi thì tĩnh dưỡng trong nhà trọ, vài ngày sau là lại đâu vào đấy, tinh thần thể lực hồi phục ,cũng đến lúc chia tay. Bọn Thiên Hương về Thiên Tân, chúng tôi thuê xe tạm hướng tới Nguyên Thị của Thạch Gia Trang để lấy môtô, tiếp đó hướng về Trác Lộc của Trương Gia Khẩu đón Ô Nha.
Tiểu Trà nói trên người đám Thiên Hương đều gắn thiết bị theo dõi. Sau khi xuống lòng đất một thời gian thì toàn bộ đột ngột mất liên lạc, mãi đến khi Phong Linh chủ động gọi tới mới lần tìm được chút đầu mối.
Hoa Thiếu Thiên nói lúc tới đây tìm người dẫn đường, khá gian nan bế tắc, vì vừa nghe nói tới việc vào sâu trong rừng, ai cũng lắc đầu khước từ rồi nhanh lẹ lẩn đi như tránh dịch hạch. Ngẫm nghĩ một chút chắc có ẩn tình đằng sau, đành bịa ra một câu chuyện lâm li bi đát, thêm mắm dặm muối vớ vẩn nào đó để đối phó, mới có người e ngại ngần ngừ gật đầu.
Trên đường lần vào lại biết thêm mấy thứ hay ho thú vị. Bọn A Hoa Tiểu Trà được lão luyên thuyên kể lại, đồn rằng trấn nhỏ Long Nghiêu ở dưới chân núi Thái Hành từ thủa xa xưa đã có tiền lệ nghiêm cấm dân trong vùng vào sâu trong rừng.
Truyền rằng trung tâm của rừng được gọi Thiên Hộ Doanh, là nơi cất dấu cánh cửa thông xuống Minh giới, vì lẽ đó ma quỷ tập hợp rất đông, vào những đêm rằm, yêu khí bay lượn đầy trời, dân làng chỉ cần ngửa đầu lên là dễ dàng mục kích, sợ đến đóng cửa cài then.
Vào thời dân quốc có vài kẻ to gan lớn mật, không biết lấy nguồn tin từ vỉa hè nào, tò mò hiếu kỳ cùng tham lam bất chấp, tin rằng trong lòng núi Thái Hành ẩn chứa châu báu cực phẩm. Là kim ngân hoàng ngọc chất cao như núi của một vị thân vương hậu nhân Triệu quốc- Triệu Yết, vốn dùng để chiêu binh phục nước. Nhưng chưa kịp động thương đao đã bị Hán vương Lưu Bang cử Trương Nhĩ tạt nước dập tắt, vì thế hoàng ngân vẫn còn nguyên vẹn, nhưng chẳng biết ẩn dấu ở hang cùng ngóc hẻm nào.
Lũ đó cho rằng yêu ma quỷ ảnh gì đó chỉ là bịa chuyện đặt điều, nói quá hù dọa người đời. Thế là gật gù lập đội, toàn một đám rặt coi trời bằng vung, coi tiền hơn mạng mới nhắm mắt lao đầu chui vào. Bọn họ chuẩn bị tư trang vật dụng như đi đào cổ mộ, thuê người trong làng để dẫn đường mò vào. Dân làng ban đầu không chịu, dù giá cao cũng không muốn mất cái mạng nhỏ, nhưng nếu cộng thêm đe dọa thì đành cắn răng nhượng bộ.
Người dân dẫn họ tới, nhưng sống chết không vào sâu, chỉ đứng trên mép vực, chỉ xuống dưới nói cửa động đó là lối vào.
Dân làng sống quanh đây, từ nhỏ đã được tuyên truyền, tuổi trẻ nông nổi, đúng là cũng có vài kẻ muốn diễu võ dương oai, thách đố nhau vào đó để chứng tỏ bản lĩnh. Sau khi sống sót trở ra, tận mắt kể lại, đám hồ bằng cẩu hữu càng tuyệt đối tin tưởng truyền thuyết lưu lại.
Người dẫn đường nói, đám người đó vào rồi lưu một người ở ngoài, chờ một tuần lễ cũng không thấy ra. Gã nóng gan sốt ruột quay trở về lôi thêm đồng bọn tới tiếp ứng, đến bao nhiêu người, vào bao nhiêu, cũng không thấy ai trở ra.
Chỉ có người dẫn đường thủy chung đứng ngoài cuộc chứng kiến tất cả, khi đêm tối buông xuống, tà ma thoát ra, phẫn nộ la hét, tức giận gào rú, khắp không gian âm khí lởn vởn bay lượn, giăng ngang vây dọc, cực lực khủng bố thần kinh, người đó quá sợ hãi, bỏ chạy một mạch về trấn, không dám quay đầu lại nhìn.
Hết quyển 2.
Tôi ngẩn người ngơ ngác nhìn lão thiên rục rịch ôm chăn đi ngủ. Ánh nắng khác biệt một trời một vực thế này quả nhiên không phải đi một tiếng mà là luẩn quẩn 8 tiếng dưới đó.
Thứ sắc màu sắp tắt kia cường độ sai lệch quá lớn, màu vàng hoa lệ rải rác khắp chốn, xuyên qua tầng tầng khí quyển, tán quang vào những đám mây dày mỏng để tạo nên những hiện tượng khúc xạ rực rỡ huy hoàng.
Tùy vào độ ẩm nhiều ít mà tán sắc thay đổi nơi đậm nơi nhạt, chính vì vậy mà tạo ra bức tranh chạng vạng càng lôi cuốn mất hồn, lộng lẫy mê người với những gam màu chuyển sắc từ nửa ấm nóng sang nửa sắc lạnh.
Thứ ánh dương quang ngả từ vàng đậm sang cam hồng, chuyển từ đỏ rực sang tím biếc, khoe vẻ đẹp nội tại như ảo mộng, như giai nhân đã kinh qua chốn hồng trần gió trăng, ở giai đoạn chín mùi mị cốt, như mẫu đơn quốc sắc nở rộ, bộc lộ hết sức sống căng tràn của một kiếp ngắn ngủi, khiến lòng người rung động sâu sắc.
Đám kia vừa thấy chúng tôi thất thểu đi ra liền vui mừng lao tới. A Hoa phụ với Minh Đăng đỡ lấy Thiên Hương, miệng như tép nhảy, liên tục hỏi thăm, rồi than trách.
Chính là cảm giác chúng tôi chỉ đi xuống khoảng hơn tiếng, nhưng trên này đã trôi qua nửa ngày, là xế chiều rồi.
Chúng tôi lên bờ, lần lượt tháo dụng cụ ra, lại cẩn thận cất vào túi, còn thấy dấu vết của một bếp lửa tạm bợ trên mặt đất.
Thiên Hương biết Âu Tử Dạ đi trước, gương mặt tái nhợt hiển lộ một ít mất mát thương tâm. Nhưng cũng giống như đám A Hoa Tiểu Trà, bọn Thiên Hương Tư Đồ nhìn thấy Ưu Đàm hiện lên chân thực rõ nét dưới mây trời nhuộm ánh tà dương, như nhân bản vô tính từ Âu Tử Dạ, vẻ mặt sững sờ không tin tưởng, hung hăng trợn mắt trừng muốn rớt con ngươi.
Giống kiểu một hôm ngày có nắng đêm có trăng, bà mẹ đoan trang hiền thục nết na dắt về một cậu nhóc, và bảo đây là đứa em khác cha của con. Ôi, tạo hóa trêu đùa.
Thôi để hôm nào tôi kiếm được tấm tranh vẽ mỹ nữ tuyệt sắc kinh tâm, thử mang cho Ưu Đàm nhìn mẫu biến hóa coi sao, rồi dắt đi dạo một vòng, lòe thiên hạ.
Minh Đăng nhanh nhẹn leo lên miệng vực trước, sau đó kéo Thiên Hương lên để lão bác sĩ ngồi co ro một đống trên đó sắp đóng băng được vinh quang lao động.
Lão bác sĩ và lão dẫn đường không xuống, ở trên đốt lửa trại qua đêm. Vốn ban đầu tưởng chỉ đợi một lúc nên vị bác sĩ ở trên miệng vực chờ, còn vị kia là người địa phương vùng này, cương quyết không tiến vào vùng cấm địa.
Tôi để ý thấy một đống đất u cao như nấm mộ mới đắp, cạnh đó còn cắm xuống hai cái xẻng gấp.
Đưa mắt nhìn trái phải cách hai bên gốc cây có dấu vết đào bới, hướng tới đó, là cái hố sâu hơn mét.
Phong Linh thu dọn lại xẻng, nhún vai cười nói.
- Vì chẳng ngờ hai người đi lâu thế, đành vận động cho ấm.
Tôi gật gật, nói một câu “cảm ơn” quen thuộc, A Hoa hi hả nói.
-Tiểu Mặc ca, lần sau mời cơm là được.
Tôi nhẹ cười, nếu có điều kiện và cơ hội, rồi tiện tay ngắt lấy một cành mai, cắm xuống đống đất. Sau cùng theo bọn họ lần lượt leo lên.
Lúc leo tới lưng chừng, thấy một đốm trắng bay qua khóe mắt. Tôi cũng lười để ý, tiếp tục công việc. Còn chưa đứng ổn định trên miệng vực, tiếng A Hoa kinh ngạc vang lên.
-Kia là gì? Vừa xoay người lại, liền nhìn thấy trước mặt lác đác từng cụm trắng ngần, li ti như hoa tuyết, lả lướt bay lên, nhẹ nhàng phân tán, thoáng chốc tan biến vào hư không.
A Hoa chỉ xuống dưới, chúng tôi cúi đầu nhìn.
Những cánh mai vàng héo úa, cam tâm buông xuôi, lảc tả rụng hết, phủ lấm tấm trên lớp tuyết mỏng, chút hơi tàn trên nấm mộ mới đắp.
Toàn bộ thân cây mai cổ tựa như bộ xương khô xơ xác, lại đang oằn mình hứng lấy vô vàn cụm tuyết trắng thánh thiện đơn thuần, như hoa chấm bi nở rộ, thanh khiết tinh mỹ.
Có ngọn gió lãng tử nghé thăm, những đốm trắng như hoa như ngọc, tinh khôi xinh đẹp, liền cuống quýt nhún mình bám theo, tới lưng chừng thinh không lại chần chừ quay đầu, nửa lưu luyến khó dứt nửa thấp thỏm mong chờ, cùng một làn hương lãng đãng nhàn nhạt, ưu tư sầu muộn.
Từ lớp vỏ bọc nhăn nheo xù xì như đất hạn nứt nẻ, như da bệnh vảy nến, dường như khai hoa kết nhụy. Cơ thể khẳng khiu xấu xí được khoác một tầng áo mới, như lông ngỗng tạo thành, như mây trời đáp xuống, băng thanh ngọc khiết, khiến người ta trầm trồ kinh ngạc.
Gió tiêu sái lạc bước, những thân hình mảnh dẻ đơn bạc dễ dàng bị mê hoặc quyến rũ, hấp tấp ly khai, vội vàng tán loạn. Kết quả, một cơn lốc xoay vòng cuộn tròn, hoa như tuyết, gió như băng, ngẫu hứng dây dưa, uyển chuyển kết hợp. Khắp không trung tràn ngập sắc trắng, như mơ mộng hão huyền, như ưu thương tiếc nuối, đẹp đẽ thanh thuần mà cũng tiêu điều hiu quạnh.
Cuối cùng, toàn bộ đều bị gió vô tâm vô tình cuốn đi, tan biến vào giáng chiều, bốc hơi vào hư vô, chỉ còn lại thiên hương bao phủ, ngẩn ngơ như hồi ức xa xăm, đờ đẫn như hư ảo không thực, thật tịch mịch trống rỗng.
Tôi ngây người nhìn, có chút ngơ ngác không hiểu, vô thức mở miệng.
-Như Bồ Công Anh?
Tôi vô thức vươn tay ra, chờ đợi một hình hài mềm mại bé nhỏ nửa đường muốn đổi ý, lưỡng lự muốn trở về.
Thứ đáp xuống, thì ra là nhụy hoa mai.
-Người trong trấn xưa kia gọi loại mai cổ này là Tràng Hoàng Kim, hoặc một cái tên khác đặc biệt hơn là Phi Thiên Cầu, tức ước nguyện bay lên trời cao, một giống mai quý hiếm tưởng đã tuyệt tích, nhưng giờ thì thật sự rồi.
Giọng lão bản địa vang lên, ngậm ngùi thương tiếc.
Sau khi sơ cứu cho Thiên Hương và Tư Đồ, chúng tôi nhanh chóng thu dọn tàn cục để tiếp tục lên đường.Từ đây phải cuốc bộ cỡ một tiếng mới tới chỗ đậu xe, bọn họ cũng không muốn có thêm một buổi cắm trại ngoài trời rét buốt lần hai.
Trên không trung vẫn còn nhạt nhòa sáng, nhá nhem tối, hình dáng của những đám mây phù du phiêu dật không ngừng thiên biến vạn hóa, kỳ ảo không tưởng, theo gió nhào lặn, theo nắng tác động, vận chuyển biến đổi, vạn trạng muôn màu.
Bóng của những gốc cây ngả dài về hướng đông, mỗi lúc mỗi dài thêm, cảm tưởng chúng như có linh hồn, vươn dài ra, chạy mãi tới vô cùng vô tận, phủ kín hết mặt đất. Những cái bóng đen đặc dường như đang nghếch đầu, ngóc dần lên, nghiêng nghiêng ngả ngả lướt qua bụi cỏ, leo lên tàng cây, cao dần cao mãi tới mây trời.
Bóng xâm chiếm vào những đám mây còn cố phô mỹ sắc trên không gian bao la rộng lớn, một nét đẹp hoài niệm, mong manh đến kỳ diệu, sắp tan biến chỉ còn lại trống trải tịch liêu.
Đất trời thoáng chốc trở lên lặng lẽ tang thương, một khoảng khắc tiếc nuối vô vọng, kéo dài thời hạn tiêu thất, lắng động giây phút cuối cùng, sau chót, là vô hạn bóng tối cùng đêm đen ngự trị.
Tôi đi song song bên lão dẫn đường, Ưu Đàm đi bên cạnh, đám kia lẽo đẽo phía sau.
Ban nãy lão lấp lửng tiết lộ, dường như biết chút ít điển tích quái lạ, liền nở nụ cười làm thân, hỏi chuyện.
-Chú à, giống mai đó thật đặc biệt, sáu cánh vàng như ướp mật, quan trọng hơn nhụy hoa lại như bạch ngọc, có thể lương theo gió bay lượn tứ bề, hương thơm thanh lãnh, thật ấn tượng khó quên.
-Ài tôi nói cho cậu hay, thứ đẹp đẽ thường gắn với bi kịch thương tâm. Chuyện xưa là được ông cha truyền miệng cho con cháu, tôi cũng là thủa con nít hiếu động được bề trên kể lại mà thôi.
Giống mai đó ban đầu mọc thành rừng vây quanh làng, đẹp như trốn tiên cảnh, ai cũng tự hào hãnh diện, thường được dùng để tiến vua, mọi người gọi nó là Tràng Hoàng Kim.
Lúc ấy trong vùng có một thiếu nữ nhan sắc mỹ miều, dung mạo linh động như hoa mai, cốt cách thanh thuần băng khiết như bạch ngọc, nổi danh khắp vùng. Lần đó dâng hoa tiến cung còn có ý định dâng hiến cả người đẹp.
Chẳng ngờ trước đêm khởi hành, mỹ nhân ấy lại bỏ chốn cùng tình lang, nửa đường bị truy binh gắt gao đuổi, cả hai xảy chân ngã xuống vực, bị các cành cây đâm xuyên qua da thịt, máu đỏ tươi cứ thế thay phiên nhau nhỏ xuống, từng giọt tí tách thấm vào đất, từng dòng hòa quyện vào thân mai, một đời hoa mộng, một kiếp hồng trần cứ vậy chấm hết.
Lúc mọi người xuống dưới, chỉ thấy sắc mai tàn tạ rụng đầy đất, trên trời lại là sắc trắng bi thương tang tóc, như thể lão thiên gia đang cử hành nghi lễ án táng cho chôn đôi tình nhân phúc nông phận mỏng. Mọi người thấy vậy đành cứ chôn bọn họ dưới gốc mai, nơi ấy trở thành cấm địa mà từ đó Tràng Hoàng Kim đổi tên thành Phi Thiên Cầu.
Đám mai trong vùng không hiểu sao cũng đồng dạng xảy ra biến hóa.
Mai trong vùng đột nhiên đồng loạt trổ bông vàng chi chít dày đặc, mọi người còn chưa kịp hoan hỉ reo vui lại thấy sau mỗi đợt gió tuyết tràn về, cánh hoa lặng yên tiêu thất, tĩnh mịch ly khai. Chỉ còn lại những cụm bông tinh tế như tơ mảnh, trắng ngần như bạch vân, nở rộ thành hình bán cầu trên đài hoa.
Nhụy hoa thoáng chốc cũng không chịu được gió mạnh ác ý, phân phân tán tán, thê lương giăng đầy. Tuyết trên trời thổi xuống, nhụy dưới đất bay lên, như một tấm mành rèm trắng xóa nối thiên địa làm một, đau thương lan chàn, bi ai luẩn quẩn.
Từ đó mai trong vùng sau mỗi đợt đại khai thì đều lần lượt chết hết, cuối cùng, tuyệt giống, chỉ còn lại ký ức một thời vàng son huy hoàng.
Chúng tôi ra khỏi rừng rậm, chen chúc 10 người lên chiếc xe 7 chỗ vòng vèo trên núi thêm một lúc nữa mới xuống được thị trấn. Trời lạnh cũng đỡ, đông đúc tí miễn cưỡng cho qua, chứ mùa hè nóng chảy mỡ mà nhồi nhét thế có mà tắc thở.
À quên, Ưu Đàm nhất quyết không chịu vào, nhảy phốc lên nóc xe ngồi khoanh tay khoanh chân. Hơ, tôi ngán ngẩm nhìn, thế này là sợ không gian khép kín chật hẹp hay là sợ người lạ? Thôi đành vậy, tôi cũng không muốn ép buộc, chỉ căn dặn nó ngồi trên đó nhớ bám chắc.
Xuống thị trấn, lão bản địa rời đi, xe rộng thêm một chút, lại từ đó khởi hành đến bệnh viện ở Hình Đài. Trên đường lắc lư, gây ra không ít tâm điểm bàn tán, mặc kệ, đường làng quê, không gặp cảnh sát huýt còi đòi kiểm tra.
Đến bệnh viện, người có bệnh thì điều trị, người cần nghỉ ngơi thì tĩnh dưỡng trong nhà trọ, vài ngày sau là lại đâu vào đấy, tinh thần thể lực hồi phục ,cũng đến lúc chia tay. Bọn Thiên Hương về Thiên Tân, chúng tôi thuê xe tạm hướng tới Nguyên Thị của Thạch Gia Trang để lấy môtô, tiếp đó hướng về Trác Lộc của Trương Gia Khẩu đón Ô Nha.
Tiểu Trà nói trên người đám Thiên Hương đều gắn thiết bị theo dõi. Sau khi xuống lòng đất một thời gian thì toàn bộ đột ngột mất liên lạc, mãi đến khi Phong Linh chủ động gọi tới mới lần tìm được chút đầu mối.
Hoa Thiếu Thiên nói lúc tới đây tìm người dẫn đường, khá gian nan bế tắc, vì vừa nghe nói tới việc vào sâu trong rừng, ai cũng lắc đầu khước từ rồi nhanh lẹ lẩn đi như tránh dịch hạch. Ngẫm nghĩ một chút chắc có ẩn tình đằng sau, đành bịa ra một câu chuyện lâm li bi đát, thêm mắm dặm muối vớ vẩn nào đó để đối phó, mới có người e ngại ngần ngừ gật đầu.
Trên đường lần vào lại biết thêm mấy thứ hay ho thú vị. Bọn A Hoa Tiểu Trà được lão luyên thuyên kể lại, đồn rằng trấn nhỏ Long Nghiêu ở dưới chân núi Thái Hành từ thủa xa xưa đã có tiền lệ nghiêm cấm dân trong vùng vào sâu trong rừng.
Truyền rằng trung tâm của rừng được gọi Thiên Hộ Doanh, là nơi cất dấu cánh cửa thông xuống Minh giới, vì lẽ đó ma quỷ tập hợp rất đông, vào những đêm rằm, yêu khí bay lượn đầy trời, dân làng chỉ cần ngửa đầu lên là dễ dàng mục kích, sợ đến đóng cửa cài then.
Vào thời dân quốc có vài kẻ to gan lớn mật, không biết lấy nguồn tin từ vỉa hè nào, tò mò hiếu kỳ cùng tham lam bất chấp, tin rằng trong lòng núi Thái Hành ẩn chứa châu báu cực phẩm. Là kim ngân hoàng ngọc chất cao như núi của một vị thân vương hậu nhân Triệu quốc- Triệu Yết, vốn dùng để chiêu binh phục nước. Nhưng chưa kịp động thương đao đã bị Hán vương Lưu Bang cử Trương Nhĩ tạt nước dập tắt, vì thế hoàng ngân vẫn còn nguyên vẹn, nhưng chẳng biết ẩn dấu ở hang cùng ngóc hẻm nào.
Lũ đó cho rằng yêu ma quỷ ảnh gì đó chỉ là bịa chuyện đặt điều, nói quá hù dọa người đời. Thế là gật gù lập đội, toàn một đám rặt coi trời bằng vung, coi tiền hơn mạng mới nhắm mắt lao đầu chui vào. Bọn họ chuẩn bị tư trang vật dụng như đi đào cổ mộ, thuê người trong làng để dẫn đường mò vào. Dân làng ban đầu không chịu, dù giá cao cũng không muốn mất cái mạng nhỏ, nhưng nếu cộng thêm đe dọa thì đành cắn răng nhượng bộ.
Người dân dẫn họ tới, nhưng sống chết không vào sâu, chỉ đứng trên mép vực, chỉ xuống dưới nói cửa động đó là lối vào.
Dân làng sống quanh đây, từ nhỏ đã được tuyên truyền, tuổi trẻ nông nổi, đúng là cũng có vài kẻ muốn diễu võ dương oai, thách đố nhau vào đó để chứng tỏ bản lĩnh. Sau khi sống sót trở ra, tận mắt kể lại, đám hồ bằng cẩu hữu càng tuyệt đối tin tưởng truyền thuyết lưu lại.
Người dẫn đường nói, đám người đó vào rồi lưu một người ở ngoài, chờ một tuần lễ cũng không thấy ra. Gã nóng gan sốt ruột quay trở về lôi thêm đồng bọn tới tiếp ứng, đến bao nhiêu người, vào bao nhiêu, cũng không thấy ai trở ra.
Chỉ có người dẫn đường thủy chung đứng ngoài cuộc chứng kiến tất cả, khi đêm tối buông xuống, tà ma thoát ra, phẫn nộ la hét, tức giận gào rú, khắp không gian âm khí lởn vởn bay lượn, giăng ngang vây dọc, cực lực khủng bố thần kinh, người đó quá sợ hãi, bỏ chạy một mạch về trấn, không dám quay đầu lại nhìn.
Hết quyển 2.
Danh sách chương