Đao quang của lão Lợi xé toạc mây mà ra, một nửa tấm tăng bào lại bị rách tiếp thành hai nửa. Lưỡi đao thuận thế thu về che chắn cho cơ thể, trông lẫm liệt khác thường.
Dưỡng Quỷ Tỳ chẳng thèm để ý tới nửa đám mây đang phóng thẳng về phía mình, chỉ chớp lấy cơ hội, thân hình trượt đánh vèo về phía sau, rồi lướt đi như một bóng ma, lao thẳng về phía hai Thiên Vương đang đứng bên chỗ tường đổ.
Tuy chưa nghe được trọn vẹn khẩu lệnh do tiểu Lạt ma truyền tới, hai gã Thiên Vương cũng đã sẵn sàng lao vào trong tường để truy bức. Song chỉ có Âm Thiên Vương đang quay mặt vào trong mới có thể bước vào, còn Dương Thiên Vương đã phải đối mặt với một thân hình phốp pháp, một luồng sát khí vô hình.
Thân hình phốp pháp kia không ai khác là Dương Tiểu Đao. Gã vừa tách ra khỏi dòng người ngược xuôi hỗn loạn trên phố, sau đó thủng thẳng bước tới bên mảng tường đổ.
Khi DươngTiểu Đao còn cách đoạn tường đổ khoảng hơn chục bước, Dương Thiên Vương bèn vòng tay ra sau lưng rút lấy một cặp Kim ô hoàn mài sắc cả trong ngoài, sẵn sàng thủ thế. Kim ô hoàn nhìn qua chỉ là một vòng tròn, song ở mặt trong ngoài đều được mài lưỡi sắc, chỉ chừa lại một khoảng trống nhỏ đủ để cầm nắm. Khi sử dụng, không những có thể chém, róc, cứa, chặt, băm, mà còn có thể lồng, kéo, khoá, xoáy, lật, là một loại vũ khí hình thù quái lạ rất khó điều khiển. Vũ khí càng quái lạ, chiêu thức lại càng nham hiểm. Bởi vậy Dương Tiểu Đao vô cùng thận trọng, không dám liều lĩnh tấn công.
Âm Thiên Vương vừa bước vào bên trong, cũng rút ra một cặp Nguyệt nha việt mài sắc cả trong ngoài. Loại vũ khí này giống như hai hình bán nguyệt đấu lưng vào nhau, so với Kim ô hoàn của Dương Thiên Vương, tuy ít hơn một động tác “lồng”, song lại thêm được động tác “đâm”, xuất chiêu cũng âm hiểm quỷ quyệt hơn nhiều. Âm Thiên Vương xác định mục tiêu đầu tiên là Hạ Táo Hoa đang ở gần gã nhất.
Còn Hạ Táo Hoa lúc này chỉ dán mắt vào lão mù đang bước đi mỗi lúc một nhanh, dường như không hề phát giác ra Âm Thiên Vương đang âm thầm áp sát...
Chu Chân Mệnh và Cao Bôn Lôi chạy xuống bậc thang phía tây, băng qua khu tăng phòng của Lạt ma, sau đó men theo tường Phật Thị leo dốc mà lên, từ đây có thể đi thẳng tới bên ngoài hàng lan can đá trắng của điện phía tây. Con đường này vốn là con đường chết giăng kín khảm tuyệt sát, nhưng do khảm nút trong chùa Kim Đỉnh có bố cục hình dích dắc kéo dài dằng dặc, bởi vậy Chu gia ngay từ đầu đã để lại một đường bí mật có thể mau chóng giải nút, để dễ bề đánh thọc sườn và đi tắt đón đầu.
Thế nhưng lúc này Chu Chân Mệnh không phải muốn đánh thọc sườn, cũng không phải đón đầu công sát, mà muốn âm thầm quan sát. Hắn muốn xem thử người Lỗ gia đang định làm gì, mục tiêu của chúng là nhằm vào nơi nào.
Sự việc tiến triển đúng như dự tính của Chu Chân Mệnh. Khi hắn tới bên ngoài lan can đá trắng của điện phía tây, những kẻ xâm nhập cũng vừa tới nơi. Nhưng Đao Thập Lục vẫn chưa thấy tới. Đây là một việc đáng lẽ không thể xảy ra, bởi lẽ Đao đầu chỉ cần bám theo sau những kẻ vượt khảm, chứ không phải giải khảm mà đi như đám Chu Chân Mệnh. Những kẻ xâm nhập vừa đi vừa phải giải khảm cũng đã tới nơi, đáng lẽ gã phải bám sát sau lưng họ mới đúng.
Song Chu Chân Mệnh lại không biết rằng, Đao đầu đã vấp phải một rắc rối lớn hơn nhiều so với dự kiến. Sau khi gã băng qua hành lang kinh luân với khảm nút đã được giải hoàn toàn, tiếp đến là hai khảm Dốc Tạng Vương và Thềm chữ Vạn lại chưa hề được giải. Chuyện này là thế nào? Lẽ nào hai kẻ xâm nhập biết bay? Song dù bọn họ đã băng qua bằng cách nào, Đao Thập Lục cũng chỉ có một cách duy nhất là từng bước giải khảm nút mà tiến lên, cách giải đương nhiên rắc rối hơn rất nhiều so với việc giải khảm tại lối đi bí mật của Chu Chân Mệnh.
Hai kẻ xâm nhập qua đường chính không tiếp tục đột nhập về phía sau hai toà điện, mà đã dừng lại ở bên hàng lan can đá của điện phía tây. Chu Chân Mệnh và Cao Bôn Lôi đều nấp phía dưới hàng lan can không xa, song hai người phía trên dường như không phát hiện ra, bởi lẽ họ đang dồn hết sức chú ý ra phía ngoài tường Phật Thị.
Bên ngoài tường Phật Thị có thứ gì? Bãi đá Thần Hô, căn gác Phật nhỏ, tiếp sang phía này là một vạt đất thoai thoải. Phải rồi, Lỗ Nhất Khí đã phá tường đột nhập từ phía tây, có lẽ hắn đang ở bên đó.
Trong lúc Chu Chân Mệnh còn đang suy nghĩ, đột nhiên nghe thấy tiếng hét lớn của người phía trên:
- Mau chặn lại! Lão muốn ra tay hạ sát!
Quả nhiên bọn chúng đã gặp phải tình thế vô cùng nguy cấp, nên ngay cả điều cơ bản nhất khi đột nhập vào lãnh địa của người khác là ẩn mình kín tiếng, đối thủ cũng đã bất chấp.
Chu Chân Mệnh thò đầu hé mắt liếc lên trên, hắn đã nhận ra kẻ vừa hét lên là tay thầy lang từng phóng kim bạc đánh lén mình trong ngôi mộ giam hồn dưới ba gò đất. Chu Chân Mệnh có ấn tượng rất sâu sắc về người này, không chỉ vì châm pháp kỳ quái của ông ta, mà một phần quan trọng là vì người này từ khí chất, ngoại hình và tuổi tác đều hao hao giống hắn. Sau đó, đám thuộc hạ ở đường khẩu phía đông cho hay, tay thầy lang này chính là Dịch Huyệt Mạch với y đạo điên đảo tiếng tăm lừng lẫy trong giang hồ.
- Lão ta đã trúng bùa mất hồn, mau tìm xem mồi dẫn làm bằng gì, diệt được mồi dẫn sẽ vô sự! - Người còn lại cũng đã lên tiếng.
Chu Chân Mệnh nghe thấy tiếng hét của người này, biết ngay rằng công phu vận khí, công lực triển khai của kẻ đó đã gần tới cảnh giới thần nhân. Đạt được tới cảnh giới này, quả thực thế gian hiếm có.
Người này chính là Mạc Thiên Quy. Ngoài lão ra, còn ai có thể xông thẳng vào chùa Kim Đỉnh qua khảm diện chính, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi đã vào đến tận hai toà điện? Bùa mất hồn mà Mạc Thiên Quy vừa nhắc tới chính là tuyệt kỹ độc môn của lão thầy cúng. Từ điểm này, Chu Chân Mệnh có thể khẳng định rằng, cái đinh ngầm do lão thầy cúng găm vào đã lộ diện, Lỗ Nhất Khí đang nguy hiểm cận kề.
Bên ngoài tường Phật Thị, Lỗ Nhất Khí đang phải đối mặt với một kẻ địch đang hết lần này đến lần khác điên cuồng lao tới.
Kẻ địch, chính là lão mù.
Song động tác của Hạ Táo Hoa còn nhanh hơn lão mù, mỗi khi lão sắp sửa tung mình xáp tới, cô lập tức ra tay chụp lấy lưng áo hoặc dây lưng giữ chặt lão lại. Song vừa bị lôi lại, lão đã tiếp tục nhảy chồm lên, tựa như một kẻ điên loạn không còn lý trí. Bởi vậy, lão vẫn tiếp tục nhích lại gần Lỗ Nhất Khí.
- Tôi không tìm thấy mồi nhử, tôi đã bám theo rất lâu rồi, song không thể tìm ra! - Hạ Táo Hoa nói như chực khóc.
Chính vào lúc đó, năm con chim ưng săn mỏ hoa Trường Bạch từ trên cao âm thầm liệng xuống như năm bóng ma, đan chéo vào nhau sát mặt đất, rồi bay tản đi như hình rẻ quạt.
- A, chim ưng mỏ hoa Trường Bạch! Tiếng sáo vô thanh! Mồi nhử đã nhập vào tim tuỷ, vô phương cứu chữa rồi! Giết lão đi! Giết mau! - Dịch Huyệt Mạch lại hét lên.
- Không! Không được giết! Không được giết! - Hạ Táo Hoa gào lên như nức nở.
Lỗ Nhất Khí đã nắm chặt lấy báng khẩu pạc hoọc, song cậu không giương súng lên. Cậu không đành lòng. Giết chết người cha ngay trước mặt con gái là vô cùng tàn nhẫn. Cậu càng không dám giết. Cậu vừa dùng lý đời và lý Phật để bức ép Phật sống Kim Đỉnh rơi vào trạng thái tự chiến, tự ngộ và tự phản tỉnh, nếu đúng lúc này cậu lại nổ súng giết người, thì tất cả những lời vừa nói đều sẽ trở thành vô nghĩa. Phật sống chỉ cần loé lên sát niệm, tức khắc sẽ biến cậu thành một đống xương thịt vô hồn.
- Mau! Cô gái, sau lưng ngươi có kẻ đang đánh tới, mau ra tay giết chết lão đi! - Dịch Huyệt Mạch gào lên đến lạc giọng, ngữ điệu căng thẳng đến tột độ. Cũng vì ông ta không hề hay biết họ là hai cha con.
Thấy Dịch Huyệt Mạch gào thét vô ích, Mạc Thiên Quy vội vã lao đi, xông thẳng tới phía sau điện tây. Lão muốn vòng qua điện tây, tháp trắng và hành lang quanh tháp với tốc độ nhanh nhất, để tới vạt đất thoai thoải bên ngoài tường Phật Thị.
Hai toà điện tuy là Phật điện chủ yếu trong chùa Kim Đỉnh, song lại không có vẻ nguy nga tráng lệ giống như chính điện trong chùa chiền vùng Trung Nguyên. Bởi vậy, đoạn đường ngắn ngủi bên mặt tường ngoài điện rất khó bố trí khảm nút, Mạc Thiên Quy chỉ vài bước chân đã tới góc tây bắc của Phật điện. Nếu đoạn đường tiếp theo cũng có thể băng qua một cách dễ dàng như vậy, thì Mạc Thiên Quy vẫn có cơ hội tới kịp trước khi Lỗ Nhất Khí bị giết.
Thế nhưng sự thực bao giờ cũng khác xa so với mong muốn. Vừa tới góc tường sau điện phía tây, Mạc Thiên Quy đã phát hiện ra ngay trước mặt mình là bãi Vân thú mây trời chín sắc. Đây là một khảm diện rộng lớn, kết hợp nhiều tầng nút lẫy như ô mê hồn, vòng hoặc thần, xoáy bước nhầm, trụ trời bắn ngược, khoá kẹp miệng sắc. Ba thế hệ về trước, một số cao thủ Mặc gia đã bị vây khốn trong khảm diện này ở bên bờ sông Phần tỉnh Sơn Tây, suốt mấy ngày trời không thể thoát thân, cuối cùng liều mạng đột phá vòng vây, kết quả là toàn bộ đều phải bỏ mạng trong đó.
Mạc Thiên Quy cấp tốc quan sát kỹ lưỡng cách bố trí xung quanh. Mặt bên kia của bãi Vân thú mây trời chín sắc tiếp giáp với tháp trắng lọng vàng. Nếu lão tính toán không nhầm, toà tháp kia tuyệt đối không chỉ là một vật trang trí, bên trong nó chắc chắn có bố trí nút lộ, nút ngầm.
Hơn nữa, nửa sau của khảm diện bãi Vân thú mây trời chín sắc lại được khớp nối với khảm diện tháp trắng, như vậy tại nửa sau của khảm diện sẽ hình thành thế hai khảm hợp sát. Lối kết hợp hai khảm theo kiểu cao thấp nối liền khác hẳn với cách kết hợp hoặc nối liền hai khảm trên cùng một mặt phẳng, vì phần rìa giữa hai khảm sẽ lơ lửng trong không trung, không thể lợi dụng.
Bố cục không gian kết hợp với cục tướng khảm diện, đã bố trí đến mức độ toàn bộ các điểm, đường, mặt phẳng đều không thể đặt chân, chỉ cần bước vào là mất mạng. Đây là cảnh giới chí cao trong thiết kế khảm diện.
Song do các tiền bối của Mặc gia từng bỏ mạng trong bãi Vân thú mây trời chín sắc, nên người của Mặc gia đã chuyên tâm nghiên cứu, tìm ra một lối đi mới, ngoài cách phá giải khảm diện, còn sáng tạo ra kỹ xảo tránh khảm. Song kỹ xảo này không phải là kỹ xảo chính, bởi vậy nếu không phải tình huống vạn bất đắc dĩ, người Mặc gia sẽ không sử dụng đến.
Giờ đây chính là thời điểm vạn bất đắc dĩ. Mạc Thiên Quy lập tức chuẩn bị dụng cụ, tìm kiếm chỗ dựa, gấp rút hành động...
Bên ngoài tường chùa, Dưỡng Quỷ Tỳ vừa lùi về phía tường đổ, bộ pháp tháo chạy của gã Đại hộ pháp lập tức ngoặt ngay trở lại, lao thẳng vào lão Lợi.
Trước cú phản kích thình lình của Đại hộ pháp, lão Lợi chỉ kịp xoay ngang đao chém ra theo phản xạ.
Đại hộ pháp tay không tấc sắt một lần nữa lại bị đẩy lùi, một vệt máu đỏ chạy dài trên cánh tay phải trần trụi. Gã rất bất ngờ vì rõ ràng bản thân đã né khỏi phạm vi của luồng đao phong, song vuông nhiễu đỏ phật qua sau cú ra đao lại mang theo một lực đạo không hề thua kém đao kiếm thông thường, nháy mắt đã rạch đứt cả cánh tay của gã. Song bị thương chưa hẳn đã là chuyện xấu, điều này chí ít cũng giúp gã hiểu rõ hơn về đối thủ. Nên gã vừa lùi lại, gót chân còn chưa kịp chạm xuống đất, đã lao vọt lên tiếp tục tấn công...
Khi Dưỡng Quỷ Tỳ còn cách Dương Thiên Vương một đoạn, dải lụa trong tay cô đã cuồn cuộn phóng đi, tựa như hai xoáy mây chụp thẳng về phía Dương Thiên Vương lùi ra để tiến vào trong chùa. Bởi lẽ cô vừa sực nhớ ra một chuyện, lão mù không nhìn thấy đường, cũng không có ai chỉ lối, tại sao lại biết được chính xác vị trí lỗ hổng trên đường? Dưỡng Quỷ Tỳ vốn là người của Chu gia, nên biết rất nhiều mánh khoé ma quái của bọn họ, cô chẳng khó khăn gì để đoán ra rằng, lão mù đã bị bùa mất hồn khống chế. Còn Hạ Táo Hoa, tuy bộ dạng không giống như trúng bùa mất hồn, song không ngoại trừ khả năng đã trúng phải chiêu gì khác. Như vậy, hai người đó bước vào bên trong, sẽ trở thành nút lẫy tuyệt sát tấn công Lỗ Nhất Khí.
Dưỡng Quỷ Tỳ đã sử ra toàn lực, song vẫn không thể chiếm được thế thượng phong.
Tác giả cuốn “Kỳ môn lợi khí phả” là Giang Kỳ Sơn người Nam Tống từng tỏ ra vô cùng sùng bái những người sử dụng thành thạo hai loại vũ khí là hoàn và việt, bởi lẽ hai loại vũ khí này rất khó điều khiển, khi sử dụng đòi hỏi kỹ xảo rất cao. Chiêu số tấn công của chúng vô cùng quái dị, là khắc tinh của rất nhiều vũ khí.
Bởi vậy, khi xoáy mây của Dưỡng Quỷ Tỳ vừa đánh xuống, một cặp Kim ô hoàn đã đồng thời đánh ra, vừa xoáy vừa chụp, chớp mắt đã nuốt trọn phần đầu dải lụa của Dưỡng Quỷ Tỳ. Lưỡi bên trong xoáy tròn, dải lụa đứt rời từng khúc, bay lên phấp phới, tựa như dải mây đã hoá thành hoa tuyết đầy trời.
Dương Thiên Vương chiếm được thế thượng phong, song mới cắt tan tành được khoảng một thước lụa đã phải lùi về né tránh, bởi hai biến hoá tiếp theo gã đã không thể ứng phó nổi.
Dưỡng Quỷ Tỳ vốn dĩ không hề có ý định sát thương Dương Thiên Vương, chỉ muốn đánh bật gã ra để xông vào qua lỗ hổng. Bởi vậy, khi đầu dải lụa vừa phóng đi, cô lập tức quật ngang đoạn giữa dải lụa ra phía trước, muốn trói chặt lấy đối thủ. Để đối phó với chiêu này, Dương Thiên Vương buộc phải đánh cặp Kim ô hoàn lên trước, cơ thể lui về phía sau. Và như vậy đã chừa ra một khoảng trống đủ cho Dưỡng Quỷ Tỳ lách qua.
Song một biến hoá khác nguy hiểm hơn nữa đã thình lình xuất hiện, bên trong tầng mây chụp về phía Dương Thiên Vương bỗng loé lên một tia chớp, một tia chớp ngoằn ngoèo biến hoá đa đoan không thể đoán lường. Đó chính là lưỡi đao đồ tể hình thù quái dị của Dương Tiểu Đao.
Hình đao quái dị, chiêu số ra đao còn quái đản hơn, lưỡi đao, mũi đao liên tục nhắm vào những mảng da thịt ở phía ngoài cùng trên cơ thể Dương Thiên Vương, bởi vậy gã không thể đánh đỡ, chỉ biết né tránh, liên tục lùi về phía sau.
Dưỡng Quỷ Tỳ thoắt cái đã lách vào bên trong chùa. Dương Tiểu Đao vốn cũng định xông vào theo, song đúng vào lúc này, từ chỗ lão Lợi vọng lại một tiếng rú thảm thiết. Gã bèn vội vã quay lại trợ giúp lão Lợi. Bởi vì bọn họ đều là cao thủ dùng đao, tại núi Quy Giới đã từng hợp lực đối phó với Thiên táng sư, giữa họ tự nhiên đã hình thành một mối giao cảm ngấm ngầm. Hai gã đệ tử Mặc gia bị hại, vết thương giống như do đao kiếm gây nên, mà trong bọn chỉ có hai người họ dùng đao. Bởi vậy, bọn họ thà tự tách ra kết bạn đi chung, còn hơn ở lại hứng chịu sự nghi ngờ, bài xích.
Dương Tiểu Đao xoay người bỏ đi, Dương Thiên Vương đã được rảnh tay, gã không đuổi theo tấn công Dương Tiểu Đao, mà không chút do dự lao thẳng vào lỗ hổng, đuổi theo Dưỡng Quỷ Tỳ. Bởi lẽ khẩu lệnh do tiểu Lạt ma mang tới rất rõ ràng, không cần cố thủ ở lỗ hỏng nữa, mà phải xông vào truy sát.
Hạ Táo Hoa đã không giữ nổi lão mù nữa. Quần áo của lão đã bị giằng giật tả tơi, thắt lưng cũng đã bị kéo đứt, song cơ thể còm cõi của lão vẫn hùng hục lao lên với một sức mạnh điên cuồng không ngừng nghỉ, cánh tay huơ tít cây gậy thép, mũi gậy nhọn hoắt đã gần chạm tới người Lỗ Nhất Khí.
Lỗ Nhất Khí không thể cử động, bởi Phật sống đang nhìn cậu với ánh mắt đầy nghi hoặc. Mỗi một động tác của cậu, dù là rất nhỏ, đều có thể khiến Phật sống đưa ra suy đoán trái ngược.
- Thế gian có người bị ma mê hoặc tâm khiếu, loại người này có thể cứu độ không? - Phật sống hỏi Lỗ Nhất Khí.
- Ngài cảm thấy giết hắn là cứu độ, hay bị hắn giết là cứu độ? - Lỗ Nhất Khí hỏi lại, cũng là trả lời.
- Phật nói, xả thân thành Phật, mà giết ma cũng thành Phật. - Phật sống đẩy lại vấn đề cho Lỗ Nhất Khí.
- Ý ngài nói là giết thân của tôi, diệt ma của lão? Cũng đúng, lão không muốn giết tôi, là ma muốn giết tôi!
- Ma từ tâm mà sinh ra, tâm đó không thể cứu độ.
- Tâm bị ma kiểm soát, tâm đó có thể cứu độ, ma không thể cứu độ.
- Phật ta từ bi, ma ở chỗ nào?
- Ma chính là thứ đang giày vò kẻ đó. Tôn giá thân là Phật tử, tâm hướng tới chân Phật, lại để bầy ma thao túng, pháp môn tu hành sao có thể thông?
Phật sống dường như rùng mình một cái rất mạnh, rồi lại khép mắt rủ đầu, song thủ ấn trên hai tay đã chuyển từ Liên hoa Tam muội da sang thủ ấn Triệu tội[21]. Thủ ấn trên tay Phật sống vừa biến hoá, khí tướng lập tức cuồn cuộn dâng trào, hiện rõ bảo tướng trang nghiêm.
Chiếc gậy của lão mù đã có thể đâm tới Lỗ Nhất Khí. Song lúc này, Lỗ Nhất Khí đã không thể cử động được nữa, toàn bộ thân hình của cậu đang bị chèn ép dưới làn khí tướng vừa bùng lên quanh người Phật sống, chỉ có thể để cho thân tâm trong ngoài thuận theo tự nhiên, thuận ứng với nhịp điệu lên xuống lan toả của làn khí tướng từ Phật sống.
- Không được! Á... - Hạ Táo Hoa rú lên một tiếng thê thảm, sau đó bất ngờ ra chiêu, cây Phượng chuỷ thích nặng nề thi khí của cô lao thẳng vào giữa lưng lão mù. Ngọn thích nhọn hoắt đã chòi ra trước ngực lão, máu tươi phun vọt thành tia.
Hạ Táo Hoa là người biết suy tính lợi hại, cũng rất hiểu cha mình. Cô biết nếu để cha tiếp tục sống trong bộ dạng vô hồn vô phách như vậy, chẳng bằng để ông chết còn hơn. Song Lỗ Nhất Khí lại khác, cậu là người quan trọng nhất trong sự nghiệp quật bảo bối trấn hung huyệt định phàm cương, nên cô chỉ còn cách nghiến răng kìm nén nỗi đau đớn đứt gan đứt ruột, ra tay với chính cha ruột của mình.
Cú đâm của Hạ Táo Hoa đã xuyên thấu qua trái tim của lão mù, song lão mù lại không hề dừng lại, mà còn mượn lực của cú đâm để lao về phía trước, đâm thẳng đầu gậy vào Lỗ Nhất Khí.
Lỗ Nhất Khí không thể né tránh được nữa. Trong thời khắc cuối cùng, cậu chỉ kịp giơ cánh tay phải tàn tật lên chắn trước ngực theo phản xạ.
Cánh tay tàn tật chỉ đẩy được mũi gậy nhích đi chút ít, nên cuối cùng nó đã xuyên thấu vào vai trái chứ không phải là trái tim. Lỗ Nhất Khí rên lên một tiếng, bước chân loạng choạng, vài giọt máu bắn vọt đi theo mũi gậy, văng lên khuôn mặt rạng ngời bảo tướng Phật quang của Phật sống.
Máu tươi nóng ấm và tanh nồng đã khiến Phật sống mở choàng đôi mắt. Ông đứng thần ra tại chỗ. Trong khoảng thời gian nhập định ngắn ngủi vừa rồi, ông đã cảm nhận được một cách chân thực rằng trong cơ thể chàng trai trẻ trước mắt kia ẩn tàng một nguồn năng lượng vô tận. Cang khí hộ thân mà ông đã rèn luyện suốt bao năm qua, khi đến quanh người cậu ta, bỗng hụt hẫng như rơi xuống vực sâu không đáy. Thế nhưng một cao thủ tuyệt thế nhường này lại sẵn sàng dùng máu tươi, thậm chí cả tính mạng để cứu hộ một kẻ không còn hồn phách, không hiểu cậu ta đã tu Phật lý tới cảnh giới nào? Cậu ta không phải là thần thánh, thì ai mới có thể là thần thánh thực sự?
Niềm kinh ngạc xen lẫn kính phục đã khiến Phật sống bất giác đưa tay túm chặt đầu gậy nhọn vừa xuyên thấu qua vai Lỗ Nhất Khí. Ông ta đã cảm nhận thấy dòng máu tươi đang chảy giàn dụa trên đầu gậy. Xả thân cứu độ chúng sinh, những giọt máu này chính là một lời giáo hối đối với người theo Phật.
Cũng may mà Phật sống đã nắm chặt lấy mũi gậy thép, sức nắm giữ của ông dù có thêm hai lão mù nữa cũng không thể rút gậy ra được, khiến vết thương không bị chảy máu ồ ạt, đồng thời cũng tránh được những cú tấn công tiếp theo.
Chú thích
[21] Trong Mật Tông, hai bàn tay được gọi là “nhị vũ” (hai sợi lông vũ), hai cánh tay được gọi là “lưỡng dực” (hai cánh), mười ngón tay gọi là “thập độ” (mười độ hay mười Ba la mật), cũng gọi là “thập luân” (mười luân xa), “thập phong” (mười đỉnh núi). Tay phải là Bát nhã (trí tuệ), cũng là quán, tuệ, trí; tay trái là Tam muội (định), cũng là chỉ, định, phúc. Thủ ấn trong Phật giáo cũng tương đương với ấn quyết, bắt quyết trong Đạo giáo, đều là dùng các ngón tay, bàn tay kết thành những tư thế, hình thù đặc biệt. Hình thức thủ ấn có rất nhiều, như Liên hoa Tam muội da, Hàng tam thế, Đại dục, Triệu tội, Pháp luân, đều tượng trưng cho tâm ý chân thực của Phật Bồ Tát.